Cảnh báo lừa đảo‼️ [Bí kíp xóa sổ điểm mù nhận thức] Lật tẩy các chiêu trò THAO TÚNG NHẬN THỨC của tà đạo congsan thông qua truyền thông đại chúng

club_libertad

Con Chym bản Đôn
Costa-Rica
LỜI NÓI ĐẦU

Trong xã hội hiện đại, sức ảnh hưởng của truyền thông là cực lớn; nhỏ thì một cộng đồng, một nhóm dân tộc, lớn thì cả quốc gia cho đến toàn cầu, sự chú ý của người ta không lúc nào là không bị truyền thông lôi kéo. Thuận theo sự phát triển của truyền thông, từ báo chí, tạp chí, đến phát thanh, điện ảnh, truyền hình, rồi truyền thông mạng, truyền thông xã hội, truyền thông cá nhân xuất hiện, thì tốc độ và phạm vi quảng bá, tuyên truyền của truyền thông cũng như truyền thông nghe nhìn đều được tăng cường rất nhiều, sức ảnh hưởng của truyền thông đối với xã hội và đại chúng cũng ngày một tăng lên.

Người ta dựa vào truyền thông để có được tin tức, phân tích dự báo mới nhất. Trong biển tin tức, truyền thông chính là con mắt, đôi tai và thậm chí là bộ não của đại chúng. Truyền thông ảnh hưởng đến việc người ta có thể xem được những tin tức gì, giải mã tin tức ra sao, tiếp đến ảnh hưởng đến tư tưởng, quyết sách và hành động của con người. Bởi vì sự ỷ lại, tín nhiệm vào truyền thông cũng như về mặt nhận thức thì người ta dễ có quan niệm tiên nhập vi chủ (cái gì vào trước thì làm chủ), ảnh hưởng của truyền thông đối với con người có lúc lớn đến mức khiến người ta khó mà tin được.

Đối với giai tầng tinh anh của xã hội, nhất là các nhân vật chính trị mà nói, truyền thông đưa tin thế nào quyết định tiêu điểm của dư luận là gì, nó như ngọn đèn chỉ đường cho dân chúng. Những vấn đề được truyền thông chú ý sẽ được dư luận quan tâm, còn không được đưa tin thì sẽ bị dẹp sang một bên, đi vào quên lãng.

Thomas Jefferson – cha đẻ của Tuyên ngôn Độc lập, cũng là vị tổng thống thứ ba của Hoa Kỳ từng tóm lược những nhiệm vụ cốt yếu mà báo chí đảm nhận trong xã hội như sau: “Nếu như để tôi quyết định chúng ta nên có một chính phủ mà không có báo chí, hay là có báo chí mà không có chính phủ, thì tôi sẽ không do dự thà chọn cái sau.”

Truyền thông có thể là người bảo vệ giá trị phổ quát, cũng có thể là kẻ hiệp trợ tà ác. Từ căn bản mà nói, truyền thông là tiếng nói của xã hội, chức trách của nó là đưa tin một cách công chính, chuẩn xác và kịp thời về các việc đại sự trên thế giới, khuông phù chính nghĩa, ức chế cái ác, biểu dương cái thiện. Sứ mệnh đó vượt khỏi tư lợi của cá nhân, công ty và đảng phái.

Trong giới báo chí phương Tây, truyền thông là người bảo hộ cho sự thật và giá trị cốt lõi của xã hội, nắm địa vị cao thượng là “quyền lực thứ tư”, nhà báo được gọi là “vua không vương miện”. Đó là lý tưởng và sự ký thác về tinh thần mà người làm truyền thông khát cầu.

Joseph Pulitzer, một nhà phát hành báo và là người sáng lập Giải Pulitzer, từng nói: “Nền cộng hòa của chúng ta và báo chí là cùng nhau hưng suy. Báo chí nếu có năng lực, không vụ lợi, hướng đến công chúng, lại có những trí giả được đào tạo tốt, biết lẽ phải và dũng khí để làm theo lẽ phải thì có thể giữ gìn đạo đức công chúng; không có đạo đức công chúng ấy thì cái gọi là chính phủ của dân đều là giả tạo, là trò hề mà thôi. Báo chí mà mỉa mai, yếm thế, vụ lợi, mị dân thì đến một lúc nào đó cũng sẽ tạo nên một dân tộc quỵ lụy, đê hèn như chính nó. Quyền lực xây đắp nên tương lai nền Cộng hòa nằm trong tay chính người làm báo của các thế hệ tương lai.”

Vậy mà, trong khi đạo đức nhân loại trượt dốc, đối diện với áp lực của cường quyền và sự dụ hoặc của kim tiền, truyền thông cũng khó mà giữ cho bản thân trong sạch. Ở những quốc gia ********, truyền thông đã trở thành nô tài của chính quyền, trở thành công cụ tẩy não quần chúng, và hành xử như kẻ đồng lõa với chính sách khủng bố và giết người của chủ nghĩa ********.

Ở xã hội phương Tây, truyền thông cũng bị ăn sâu tư tưởng ******** mà trở thành đại diện chính cho chủ nghĩa ******** phổ biến các trào lưu phản truyền thống, phản đạo đức, và những xu thế bại hoại. Nó truyền bá những dối trá thù hận, đổ dầu vào lửa cho thói đời xuống dốc. Nhiều hãng truyền thông đã vứt bỏ trách nhiệm đưa tin chân thực, bảo vệ đạo đức, lương tri của xã hội. Nhận thức rõ hiện trạng của truyền thông và khiến truyền thông có trách nhiệm trở lại vào thời thế hiện nay đã trở nên vô cùng quan trọng và bức thiết.

1. Truyền thông ở các quốc gia ******** là công cụ tẩy não quần chúng

Từ khi mới thành lập, những người ******** đã coi truyền thông là công cụ tuyên truyền tẩy não. Trong “Điều lệ Đồng minh ********” viết năm 1847, Marx và Engels đã đưa ra khái niệm “công tác tuyên truyền”, và yêu cầu các thành viên phải có “nghị lực cách mạng và nhiệt huyết tuyên truyền”. Trong những bài viết của mình, Marx và Engels cũng thường xuyên sử dụng những cụm từ như “trận địa của đảng”, “cơ quan ngôn luận của đảng”, “trung tâm chính trị”, hay “công cụ kiểm soát dư luận” để biểu đạt tính chất và chức năng muốn có ở truyền thông.

Lenin lợi dụng truyền thông làm công cụ tuyên truyền, cổ động và tổ chức cách mạng Nga. Ông ta lập ra các báo ******** của chính phủ như “Báo Sao hỏa” (Iskra), “Báo sự thật” (Pravda) nhằm thúc đẩy tuyên truyền và cổ động cách mạng. Không lâu sau khi Đảng ******** Liên Xô (ĐCSLX) đoạt được chính quyền, về đối nội, liền sử dụng truyền thông để tiến hành tẩy não chính trị, khống chế nhân dân trong nước; về đối ngoại thì tiến hành tuyên truyền để quảng bá hình tượng của nó và xuất khẩu cách mạng.

Cũng như vậy, Đảng ******** Trung Quốc (ĐCSTQ) coi truyền thông như một công cụ để kiểm soát dư luận của nền chuyên chính, là cơ quan ngôn luận của Đảng và chính phủ. ĐCSTQ biết rõ “báng súng và ngòi bút là công cụ mà dựa vào để chiếm đoạt và củng cố quyền lực.” Ngay từ thời Diên An (1937–1945), bí thư của Mao Trạch Đông là Hồ Kiều Mộc đã nêu ra nguyên tắc “đảng tính là trên hết”, rằng báo Đảng “từ trong mỗi trang báo, mỗi một bài xã luận, mỗi một thông báo, mỗi một tin tức, phải đều có thể quán triệt quan điểm của Đảng, kiến giải của Đảng.”

Sau khi thành lập chính quyền, ĐCSTQ khống chế nghiêm ngặt mọi kênh truyền hình, phát thanh, báo chí, tạp chí, và cả sau này là internet, lấy đó làm công cụ nhồi nhét hình thái ý thức của đảng ******** và công cụ tẩy não, đàn áp người bất đồng chính kiến, uy hiếp đại chúng, bẻ cong và che đậy sự thật. Người làm truyền thông nơm nớp sợ hãi, cẩn thận từng ly từng tí. Nếu như nhà báo can đảm biểu đạt ý kiến trái chiều thì chờ đợi họ sẽ là kết cục vô cùng thê thảm. Bị kiểm duyệt không chỉ có truyền thông nhà nước, ngay cả cá nhân công khai phát ngôn trên mạng hay trong nhóm kín cũng đều bị giám sát bởi một hệ thống công an mạng rộng khắp.

Trung Quốc có một câu nói miêu tả một cách sinh động vai trò của truyền thông dưới sự thống trị của ĐCSTQ: “Tôi là con chó của đảng, ngồi trước cửa nhà của Đảng, Đảng bảo cắn ai thì cắn người đó, bảo cắn bao nhiêu cái thì cắn bấy nhiêu cái.” Kỳ thực, đây nào chỉ dừng lại ở vấn đề cắn mấy cái, mỗi lần vận động chính trị, đều là làm dư luận trước: Truyền thông dùng dối trá kích động thù hận, rồi phối hợp với bạo lực, tàn sát. Truyền thông trở thành bộ phận tổ hợp quan trọng trong cỗ máy giết người.

Ví như vụ thảm sát trên Quảng trường Thiên An Môn năm 1989 (“Lục tứ”), ĐCSTQ tuyên bố sinh viên là “côn đồ bạo loạn”, từ đó ngang nhiên dùng quân đội đi trấn áp “bạo loạn”. Sau vụ thảm sát “Lục tứ”, nó lại tuyên bố “Quân đội chưa từng nổ súng vào bất kỳ ai, không có bất cứ thương vong nào trên quảng trường Thiên An Môn.” Năm 2001, khi bức hại Pháp Luân Công, chính quyền đã bào chế ra cái gọi là “Vụ tự thiêu ở Thiên An Môn” để giá họa cho môn tu luyện tinh thần này, khơi dậy thù hận đối với Pháp Luân Công ở Trung Quốc và trên khắp thế giới, khiến cuộc bức hại này leo thang lên một cấp.

Cán bộ lãnh đạo các cấp đảng ủy của ĐCSTQ cực kỳ coi trọng công tác tuyên truyền, và bố trí đội ngũ tuyên truyền đông đảo. Tính đến cuối năm 2010, cả Trung Quốc có tới 1,3 triệu nhân viên biên chế công tác trong bộ máy tuyên truyền quốc gia; trong đó, ban tuyên truyền ở ba cấp tỉnh, thành, huyện có chừng 56.000 người, đơn vị tuyên truyền cấp địa phương có chừng 1,2 triệu người, đơn vị tuyên truyền cấp trung ương có chừng 52.000 người. Những con số này chưa bao gồm con số khổng lồ những người phụ trách việc giám sát và khống chế dư luận trên mạng như công an mạng, điều tiết viên, bình luận viên của Đảng và những người khác được thuê làm công tác tuyên truyền với các vai trò muôn hình muôn vẻ.

Những quốc gia do đảng ******** cầm quyền thì không một nước nào không hao phí lượng lớn tài nguyên để khống chế truyền thông. Trải qua bao nhiêu năm vận hành, truyền thông nhà nước ở quốc gia ******** thành thục để trở thành miệng lưỡi của nhà nước độc tài, lừa dối và đầu độc thế nhân không từ bất cứ thủ đoạn nào.

2. Sự thâm nhập của chủ nghĩa ******** vào truyền thông phương Tây

Vào thế kỷ trước, trong thế trận đối kháng giữa phe ******** và xã hội tự do, tà linh ******** vẫn luôn dùng trăm phương nghìn kế để xâm nhập vào xã hội tự do, mà việc xâm nhập vào truyền thông các quốc gia phương Tây là một trong những thủ đoạn quan trọng nhất. Vì sức ảnh hưởng cực lớn của truyền thông Mỹ đối với toàn cầu, chương này lấy nước Mỹ làm trọng điểm để bàn luận sự khống chế của tà linh ******** đối với truyền thông.

Sau khi Liên Xô đoạt được chính quyền ở Nga, nó đã phái gián điệp thâm nhập truyền thông phương Tây, hoặc lôi kéo những người cùng chí hướng, người đồng tình với chủ nghĩa ******** trong nội bộ các quốc gia phương Tây, mưu đồ khống chế quyền ngôn luận truyền thông phương Tây, ca ngợi chính quyền ******** bạo ngược, tô son trát phấn cho nền bạo chính, điên đảo thị phi trong khi mọi người bất tri bất giác, tuyên truyền giả dối, thậm chí trực tiếp hoặc gián tiếp làm lung lạc những nhân vật trọng yếu trong chính phủ phương Tây, ảnh hưởng tới quyết sách của chính phủ mà làm ra những chính sách và quyết định có lợi cho Liên Xô.

Nghiên cứu phát hiện, rất nhiều gián điệp truyền thông dưới sự sai khiến của KGB thời Liên Xô cũ làm việc trực tiếp trong các hãng truyền thông danh tiếng lớn ở Mỹ, như Whittaker Chambers, John Scott, Richard Lauterbach, và Stephen Laird của tạp chí Time… Họ dùng địa vị của mình để tiếp xúc với các chính khách, người nổi tiếng, và lãnh đạo quốc gia. Không chỉ thu thập thông tin tình báo sâu rộng, mà họ còn ảnh hưởng đến những quyết sách trong rất nhiều vấn đề quan trọng như chính trị, kinh tế, ngoại giao, chiến tranh...

Walter Duranty, phóng viên thường trú tại Moscow của Thời báo New York Times, từng viết rất nhiều bài báo về Liên Xô, và cũng nhờ sê-ri 13 bài báo về kế hoạch 5 năm của Liên Xô mà đoạt giải Pulitzer năm 1932. Song, cựu đảng viên Đảng ******** Mỹ là Jay Lovestone và phóng viên nổi tiếng Joseph Alsop đều cho rằng Duranty là gián điệp của cảnh sát mật của Liên Xô.

Trong bài báo viết về nạn đói lớn ở Ukraina thuộc Liên Xô cũ năm 1932-1933, Duranty đã che giấu sự thật, thề thốt phủ nhận thực tế là nạn đói đã làm chết mấy triệu nhân dân Ukraina. Ông ta tuyên bố: “Bài báo nào nói rằng Liên Xô có nạn đói đều là phóng đại hoặc tuyên truyền ác ý.”

Về sự nguy hại của bài báo giả dối đó, Robert Conquest, nhà lịch sử học nổi tiếng của Anh, cũng là một học giả am tường về lịch sử của Liên Xô, trong tác phẩm kinh điển “Vụ thu hoạch đau buồn: Công cuộc tập thể hóa của Liên Xô và nạn đói kinh hoàng” (The Harvest of Sorrow: Soviet Collectivization and the Terror-Famine) có viết thế này: “Là một trong những phóng viên nổi tiếng nhất thế giới của một trong những tờ báo nổi tiếng nhất thế giới lúc bấy giờ, việc Duranty phủ nhận nạn đói lớn được xem là sự thật đáng tin. Do vậy, ông ta không chỉ lừa được độc giả của tờ New York Times, mà bởi thanh danh của tờ báo, ông ta còn ảnh hưởng đến cách nhìn nhận của vô số độc giả về Josef Stalin và chính quyền Liên Xô. Đương nhiên, ông ta đã tác động khiến tổng thống mới đắc cử Roosevelt thừa nhận Liên Xô.”

Hollywood, đại bản doanh của ngành điện ảnh Mỹ, cũng chịu sự xâm nhập của chủ nghĩa ******** và tư tưởng cánh tả, thậm chí có dạo còn thành lập chi bộ Đảng ********. Sau khi sang Mỹ, Willi Münzenberg, một người ******** Đức, cũng là thành viên của Quốc tế Thứ ba, đã bắt đầu thực thi ý tưởng phát triển và sản xuất điện ảnh của Lenin, biến điện ảnh thành công cụ tuyền truyền. Ông ta đã thu hút người Mỹ sang Liên Xô học điện ảnh và giúp những người đã qua đào tạo được vào ngành điện ảnh. Chính ông ta là người đã thành lập chi bộ Đảng ******** ở Hollywood.

Dần dần, ảnh hưởng của Liên Xô đã ngấm vào. Nhiều nhà làm phim thời ấy đã thần tượng hóa người Xô-viết, và những tình cảm này chỉ mạnh lên trong Thế Chiến II, khi Hoa Kỳ và Liên Xô liên minh chống Đức quốc xã. Có nhà viết kịch nổi tiếng còn gọi cuộc xâm lược của Đức quốc xã vào Liên Xô là “cuộc tấn công vào tổ quốc”. Trong bộ phim “Sứ mệnh tới Moscow” (Mission to Moscow) năm 1943 còn có tình tiết nói rằng Liên Xô là một quốc gia được xây dựng trên những nguyên tắc căn bản giống như Hoa Kỳ.

Cũng như Liên Xô, hình tượng của chính quyền ******** Trung Quốc cũng được lợi ích to lớn nhờ truyền thông và phóng viên cánh tả ở thế giới tự do, nổi bật nhất trong đó là Edgar Snow, Agnes Smedley và Anna Louise Strong.

Cuốn sách “Ngôi sao đỏ chiếu rọi Trung Quốc” (Red Star Over China) của Snow đã tô vẽ hình tượng của Mao Trạch Đông cũng như các quan chức cấp cao khác của ĐCSTQ, che mắt độc giả phương Tây về những tội ác và bản chất tà ác của chủ nghĩa ********. Mao Trạch Đông nói: “Snow là người đầu tiên dọn đường cho mối quan hệ hữu hảo cần có để kiến thiết một mặt trận thống nhất.”

Smedley đã từng viết không ít những bài viết và sách tâng bốc ĐCSTQ và các lãnh đạo của nó. Trong các tài liệu lưu trữ về Liên Xô có bằng chứng xác thực cho thấy Smedley là gián điệp của Quốc tế ******** III, từng nỗ lực kích động cách mạng vũ trang ở Ấn Độ và thu thập tình báo cho Liên Xô. Còn Strong là một người sùng bái phong trào ******** Trung Quốc. Bởi vì họ tuyên truyền cho hình tượng của ĐCSTQ là “công lao vĩ đại”, nên Snow, Strong và Smedley đều trở thành ba “cán bút đỏ” người Mỹ trong tem mà ĐCSTQ phát hành để vinh danh họ.

(CÒN TIẾP)
 

Có thể bạn quan tâm

Top