Có Hình Cách hiểu về khái niệm "Trống rỗng, Rỗng không" trong một số nền Triết học, Tôn giáo hay mấy tml mới sục cặc, vừa hút cần xong !

Tóm lược khái quát :


sMGWmd.png

1. Vô ngã (Anatta) trong Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda)

- "Anatta" (Pāli) có nghĩa là "không có tự ngã", đối lập với khái niệm "Atman" trong Ấn Độ giáo.

- Đức Phật dạy rằng con người không có một linh hồn hay thực thể bất biến. Thay vào đó, chúng ta là tập hợp của ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức), luôn biến đổi.

- Mục tiêu của nhận thức về vô ngã là diệt trừ chấp ngã, từ bỏ tham ái và đạt đến Niết-bàn.


2. Tánh Không (Śūnyatā) trong Phật giáo Đại thừa (Mahayāna)

- "Śūnyatā" (Trống rỗng/Tánh Không) do Bồ Tát Long Thọ (Nāgārjuna) phát triển trong Trung quán tông.

- Không phải chỉ có con người là vô ngã, mà mọi pháp đều vô tự tính (svabhāva). Không có gì tồn tại độc lập, tất cả chỉ hiện hữu dựa vào duyên khởi.

- Tánh Không không phải là hư vô mà là cái nhìn sâu sắc về bản chất thực tại: mọi thứ đều do duyên sinh, không có bản chất cố định.

Ví dụ: Một chiếc xe không có tự tính riêng biệt, nó chỉ là sự tập hợp của bánh xe, động cơ, khung xe… Không có phần nào trong đó là "cốt lõi của chiếc xe".


3. "Empty" trong Thiền tông (Zen)

- Trong Thiền (Ch’an/Zen), khái niệm "empty" (Không, 無 - Wú, Mu) mang tính thực hành nhiều hơn là lý thuyết.

- Empty không phải là "không có gì" mà là sự buông bỏ mọi chấp trước, kiến giải.

- Thiền sư nổi tiếng Joshu (Triệu Châu) có câu thoại "Vô (Mu)!", khi đệ tử hỏi "Con chó có Phật tính không?" → Hướng người hỏi đến chỗ trực nhận Tánh Không mà không dính mắc vào lý luận.

4. Vô ngã & Tánh Không trong Đạo giáo

Đạo giáo không dùng thuật ngữ "vô ngã" nhưng lại có khái niệm "Vô vi" (無爲) và "Tự nhiên" (自然).

Lão Tử trong Đạo Đức Kinh nói:
"Đạo khả đạo, phi thường đạo. Danh khả danh, phi thường danh."
(Cái có thể gọi là Đạo thì không phải Đạo tuyệt đối, cái có thể đặt tên thì không phải tên thật.)


Tánh Không ở đây là sự hòa hợp với tự nhiên, buông bỏ cái "tôi" nhỏ bé, để trở thành một phần của vũ trụ rộng lớn.

5. Empty trong Triết học Phương Tây

- Hiện sinh (Existentialism - Sartre, Heidegger): Con người không có bản chất cố định mà tự do tạo nghĩa cho đời mình.

- Hư vô luận (Nihilism - Nietzsche): Không có giá trị hay bản chất tuyệt đối nào tồn tại, mọi thứ đều là cấu trúc tâm trí con người tạo ra.

- Hiện tượng học (Phenomenology - Husserl): Không có "thực tại tuyệt đối", mọi thứ chỉ tồn tại trong ý thức của ta về chúng.
 
Tóm lược khái quát :


sMGWmd.png

1. Vô ngã (Anatta) trong Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda)




2. Tánh Không (Śūnyatā) trong Phật giáo Đại thừa (Mahayāna)





3. "Empty" trong Thiền tông (Zen)


4. Vô ngã & Tánh Không trong Đạo giáo


5. Empty trong Triết học Phương Tây
Đức Phật chỉ dạy về khổ, nguyên nhân của khổ, sự chấm dứt của khổ và con đường dẫn đến sự chấm dứt của khổ.
Như thế nào là khổ, cái gì sinh ra cũng mang theo sự hoạt diệt là khổ, sinh là khổ.
Như thế nào là nguyên nhân của khổ, là sự phân biệt các pháp, là không thấy rằng sinh là khổ, là không thấy rằng cái gì sinh ra thì cũng sẽ diệt đi, là không thấy rằng không gì có thể xem là tôi, không gì có thể xem là của tôi.
Như thế nào là sự chấm dứt của khổ, là sự đoạn tận của mê mờ, là sự chấm dứt của khát ái, là sự cắt đứt các lậu hoặc, là sự đoạn tận của tái sinh.
Như thế nào là con đường dẫn đến sự chấm dứt của khổ, là quán thân trên thân, quán thọ trên thọ, quán tâm trên tâm, quán pháp trên pháp, là bát chính đạo, là sự ngưng lại sự phân biệt của các pháp, là nhận ra sinh là khổ, là nhận ra cái gì sinh ra sẽ đi đến hoại diệt, là nhận ra không có gì là tôi, không có gì là của tôi, là chứng ngộ tứ thánh đế.
Những cái ở trên không cái nào trực tiếp đưa đến sự kết thúc khổ cả, chỉ là các khái niệm siêu hình mà thôi. Nó quá siêu hình với 1 người thực tế như Đức Phật.
 
Đức Phật chỉ dạy về khổ, nguyên nhân của khổ, sự chấm dứt của khổ và con đường dẫn đến sự chấm dứt của khổ.
Như thế nào là khổ, cái gì sinh ra cũng mang theo sự hoạt diệt là khổ, sinh là khổ.
Như thế nào là nguyên nhân của khổ, là sự phân biệt các pháp, là không thấy rằng sinh là khổ, là không thấy rằng cái gì sinh ra thì cũng sẽ diệt đi, là không thấy rằng không gì có thể xem là tôi, không gì có thể xem là của tôi.
Như thế nào là sự chấm dứt của khổ, là sự đoạn tận của mê mờ, là sự chấm dứt của khát ái, là sự cắt đứt các lậu hoặc, là sự đoạn tận của tái sinh.
Như thế nào là con đường dẫn đến sự chấm dứt của khổ, là quán thân trên thân, quán thọ trên thọ, quán tâm trên tâm, quán pháp trên pháp, là bát chính đạo, là sự ngưng lại sự phân biệt của các pháp, là nhận ra sinh là khổ, là nhận ra cái gì sinh ra sẽ đi đến hoại diệt, là nhận ra không có gì là tôi, không có gì là của tôi, là chứng ngộ tứ thánh đế.
Những cái ở trên không cái nào trực tiếp đưa đến sự kết thúc khổ cả, chỉ là các khái niệm siêu hình mà thôi. Nó quá siêu hình với 1 người thực tế như Đức Phật.
Ở trên là nói theo kiểu học thuật, nghiên cứu.
 
- Hiện sinh (Existentialism - Sartre, Heidegger): Con người không có bản chất cố định mà tự do tạo nghĩa cho đời mình.

Đây chắc lấy từ quyền tự do tuyệt đối trong Kito Giáo
 
- Hiện sinh (Existentialism - Sartre, Heidegger): Con người không có bản chất cố định mà tự do tạo nghĩa cho đời mình.

Đây chắc lấy từ quyền tự do tuyệt đối trong Kito Giáo
Quan điểm của Chủ nghĩa hiện sinh: với câu nói nổi tiếng của Sartre là "hiện hữu đi trước bản chất".

Cũng là Sartre, cho rằng con người được "ném" vào thế giới mà không có bản chất định sẵn, và phải tự do định nghĩa mình qua hành động. Tự do này là tuyệt đối ở chỗ không có Thượng đế hay bất kỳ cấu trúc nào định hình trước con người – Sartre là người vô thần, và ông xem tự do là gánh nặng, không phải món quà từ thần thánh.

Tự do của Heidegger nằm ở việc đối diện với "hư vô" và cái chết, từ đó sống "chân thực" (authentic). Dù Heidegger từng nghiên cứu thần học, triết lý của ông không dựa vào Thượng đế mà hướng tới một cái nhìn phi tôn giáo về sự tồn tại.

Sartre và Heidegger đều lớn lên trong bối cảnh châu Âu đậm chất Kitô giáo, nơi ý chí tự do là một khái niệm quen thuộc. Nhưng họ đã phản khángtái định nghĩa nó hơn là kế thừa trực tiếp. Sartre bác bỏ Thượng đế, xem tự do là "bị kết án để tự do" (condemned to be free), không phải món quà từ thần linh. Heidegger thì chuyển hướng sang một góc nhìn phi thần thánh, tập trung vào "hư vô" thay vì Thượng đế.

Về Ki-tô giáo :

Trong Kitô giáo, "quyền tự do tuyệt đối" thường được hiểu là ý chí tự do (free will), một món quà từ Thượng đế để con người lựa chọn giữa thiện và ác, như được Augustine thảo luận trong On Free Choice of the Will

. Tuy nhiên, tự do này không phải là không giới hạn – nó bị ràng buộc bởi ý chí của Thượng đế và luật đạo đức thần thánh. Ví dụ, trong Kinh Thánh (Galatians 5:13), tự do được khuyến khích nhưng phải phục vụ tình yêu và Thượng đế, không phải là tự do hoàn toàn để tự định nghĩa bản thân như Sartre nói.

Trong thần học Kitô giáo, đặc biệt với Augustine, tự do thật sự chỉ đạt được khi con người hòa hợp với ý chí của Thượng đế – một ý tưởng hoàn toàn trái ngược với tự do hiện sinh, vốn không cần đến thần thánh.

Tóm gọi lại thì :

Kitô giáo
: Tự do là quà tặng của Thượng đế, có giới hạn bởi ý chí thần thánh và mục đích cứu rỗi. Bản chất con người được định hình bởi Thượng đế (tạo ra theo hình ảnh Ngài).

Hiện sinh: Tự do là tuyệt đối, không có Thượng đế, và con người không có bản chất cố định, phải tự tạo ra ý nghĩa.

Tao thấy hiện sinh không bắt nguồn từ Kitô giáo mà là một sự đảo ngược của nó. Sartre và Heidegger có thể đã bị ảnh hưởng gián tiếp bởi các cuộc tranh luận thần học về tự do, nhưng họ đã loại bỏ yếu tố thần thánh để tạo ra một triết lý mới.

Ví dụ, Nietzsche, người ảnh hưởng lớn đến hiện sinh tuyên bố : "Thượng đế đã chết" (The Gay Science), đặt nền tảng cho việc từ chối ý nghĩa thần thánh mà Sartre và Heidegger phát triển thêm.
 
Top