Vùng cao nguyên Trung phần Việt Nam (chủ yếu các tỉnh Đắk Lắk, Gia Lai, Đắk Nông, Lâm Đồng) được hình thành trên nền đá bazan Miocene–Pliocene với độ dày hàng trăm mét, bị phong hóa mạnh và phát triển hệ thống vết nứt–khe nứt dày đặc. Trong hơn hai thập kỷ qua, sự kết hợp giữa khai thác nước ngầm quy mô lớn (chủ yếu phục vụ tưới tiêu cây công nghiệp lâu năm) và tải trọng bổ sung từ các hồ chứa thủy điện/thủy lợi đã tạo nên một chu trình phá hủy địa chất đặc trưng.
Trong mùa khô, hoạt động bơm hút nước ngầm cường độ cao đã làm mực nước ngầm hạ thấp nghiêm trọng (tốc độ trung bình 1–3 m/năm, cục bộ >5 m/năm), tạo ra các khoang rỗng (voids) và làm gia tăng đáng kể độ mở của hệ thống vết nứt trong khối đá bazan phong hóa. Kết quả là cấu trúc địa chất bị “rỗng ruột” ở độ sâu từ vài chục đến hơn 300 m.
Sang mùa mưa, lớp đất phủ đỏ bazan (thường dày 5–20 m) sau thời gian dài bị nén chặt có hệ số thấm giảm mạnh (k ≈ 10⁻⁷ đến 10⁻⁹ m/s). Nước mưa bị giữ lại lâu ở tầng mặt, làm tăng nhanh tải trọng thẳng đứng và áp suất lỗ rỗng lên khối đất–đá bên dưới. Đồng thời, do bị ngăn cách bởi các lớp đất sét phong hóa hoặc đá bazan ít nứt nẻ, phần lớn nước mưa không thể bổ cập hiệu quả vào các tầng chứa nước sâu (100–300 m). Thay vào đó, nước mưa ưu tiên di chuyển theo các vết nứt và khe hở đã được mở rộng trước đó, hình thành dòng thấm tập trung (preferential flow).
Sự xâm nhập đột ngột của nước theo các mặt yếu này dẫn đến:
1. Giảm nhanh sức kháng cắt hiệu quả dọc các mặt trượt tiềm ẩn;
2. Xói ngầm nội bộ (internal erosion/piping) và rửa trôi vật liệu mịn, làm các khoang rỗng phát triển nhanh;
3. Kích hoạt các dạng phá hủy địa chất đột ngột: hố sụt tử thần (sinkhole/collapse doline), nổ đất và phun bùn áp lực cao (hydraulic blowout), trượt đất sâu (deep-seated landslides).
Yếu tố thủy điện – thủy lợi làm trầm trọng thêm toàn bộ quá trình trên theo hai cơ chế chính:
• Tải trọng tĩnh bổ sung: các hồ chứa lớn (Buôn Kuốp – Buôn Tua Srah, Ia Ly, Ayun Pa, Plei Krông, Ea Sup, Đắk Kar, v.v.) chứa hàng trăm triệu đến hơn tỷ m³ nước, tạo áp lực thẳng đứng lâu dài lên mái dốc và nền bazan đã bị tổn thương.
• Dao động mực nước hồ nhanh (vận hành phát điện và xả lũ): gây biến đổi áp suất lỗ rỗng theo chu kỳ, làm giảm ổn định mái dốc và kích hoạt thêm hiện tượng piping dọc bờ hồ và hạ du.
Các khu vực chịu tác động kép mạnh nhất hiện nay bao gồm:
• Lưu vực sông Sêrêpôk (Buôn Kuốp, Buôn Tua Srah, Ea Sup, Krông Buk);
• Lưu vực sông Ba thượng lưu (Ia Ly, Ayun Pa, Plei Krông);
• Vùng Tây Đắk Nông (Đắk Kar, Đắk R’Tih).
Tại những khu vực này, tần suất và quy mô hố sụt, nứt lún nền nhà, đường giao thông (QL14, QL28, đường Hồ Chí Minh đoạn tránh) đã tăng rõ rệt từ năm 2018 đến nay, với hàng trăm sự cố được ghi nhận (Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam, Viện Địa chất Việt Nam, 2020–2025).
Sẽ xuất hiện các thảm họa địa chất quy mô lớn trong vòng 10 - 20 năm nữa.