
Theo luật sư, về tội danh, Tòa án đã tuyên phạt đúng người, đúng tội. Tuy nhiên, có thể linh động để áp dụng khung hình phạt nhẹ hơn, tạo điều kiện cho bị cáo có cơ hội khắc phục, sửa chữa.
Như Dân trí thông tin, TAND tỉnh Khánh Hòa mới đây đã mở phiên tòa phúc thẩm, tuyên phạt bị cáo Trần Huỳnh Kiệt (25 tuổi, ở phường Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa) mức án 3 năm tù về tội Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. Kiệt bị xác định đã quan hệ tình dục với vợ là chị T. vào năm 2021, khi người này chưa đủ 16 tuổi.Sau phán quyết của Tòa án, nhiều người cho rằng đây là mức phạt có phần nặng tay và nên có sự điều chỉnh nhằm đảm bảo tính nhân văn của pháp luật. Bạn đọc Ngoc Thang Ta viết: "Không nên để cuộc sống những đứa trẻ thêm phần bi đát. Án phạt vẫn phải đưa ra, nhưng hưởng án treo có quản thúc, cấm đi khỏi nơi cư trú là hợp tình, hợp lý".
"Hình phạt là để răn đe và giáo dục, không phải để đẩy họ tới đường cùng. Người vi phạm chưa hiểu luật nhưng có tình yêu thật sự, không phải xâm hại tình dục, bởi vậy nên cho họ hưởng án treo để đảm bảo sự nghiêm minh nhưng cũng rất khoan hồng của pháp luật", chủ tài khoản Trai Nguyen tiếp lời.
Anh Phong Đặng bình luận: "Giả sử người chồng cưỡng hiếp và bỏ bê con thì phạt tù xứng đáng, còn đây họ là một gia đình yên ấm, tự dưng bắt người chồng thì ai lo cho vợ con? Theo tôi án tù treo là đủ sức răn đe rồi".
Vậy theo quy định pháp luật, với tội danh bị xét xử, có cơ sở để xin án treo cho bị cáo Kiệt hay không?

Vợ chồng bị cáo cùng các con (Ảnh: Nguyễn Huỳnh).
Luật sư Trần Hoàng Linh (Đoàn Luật sư TP Hà Nội) cho biết theo Điều 145 Bộ luật Hình sự 2015, người phạm tội Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể đối mặt khung hình phạt 1-5 năm tù. Trường hợp phạm tội từ 2 lần trở lên hoặc làm nạn nhân có thai, mức phạt có thể áp dụng là phạt tù 3-10 năm.
Trường hợp này, các cơ quan tiến hành tố tụng xác định Kiệt đã quan hệ 3 lần với vợ là chị T. hồi năm 2021, thời điểm người này chưa đủ 16 tuổi. Bởi vậy, nếu xét về tội danh, việc TAND tỉnh Khánh Hòa tuyên phạt bị cáo 3 năm tù là đúng người, đúng tội với mức phạt thấp nhất của khung hình phạt bị cáo bị truy tố.
Tuy nhiên, pháp luật luôn có sự linh động, và việc bị cáo bị truy tố với khung hình phạt 3-10 năm không đồng nghĩa với việc bắt buộc phải đưa ra mức phạt nằm trong khung hình phạt này.
Theo Điều 54 Bộ luật Hình sự 2015, trường hợp người phạm tội có ít nhất 2 tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 1, Điều 51 Bộ luật này, Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật.
Ngoài ra, Điều 65 Bộ luật này quy định trong trường hợp người phạm tội bị xử phạt tù không quá 3 năm, căn cứ nhân thân người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách 1-5 năm và thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định pháp luật.
Còn theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP sửa đổi, bổ sung năm 2022 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao, người phạm tội có thể được xem xét cho hưởng án treo nếu đủ 6 điều kiện gồm:
(i) Bị xử phạt tù không quá 3 năm;
(ii) Người bị xử phạt có nhân thân là ngoài lần phạm tội này, người phạm tội chấp hành chính sách, pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú, nơi làm việc;
(iii) Có từ 2 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên, trong đó có ít nhất 1 tình tiết quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự và không có tình tiết tăng nặng quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật này. Trường hợp có tình tiết tăng nặng thì số tình tiết giảm nhẹ phải nhiều hơn số tình tiết tăng nặng từ 02 tình tiết trở lên, trong đó có ít nhất 1 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật này;
(iv) Có nơi cư trú rõ ràng hoặc nơi làm việc ổn định để cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giám sát, giáo dục.
(v) Xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù nếu người phạm tội có khả năng tự cải tạo và việc cho họ hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội; không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
(vi) Khi xem xét, quyết định cho bị cáo hưởng án treo Tòa án phải xem xét thận trọng, chặt chẽ các điều kiện để bảo đảm việc cho hưởng án treo đúng quy định, đặc biệt đối với các trường hợp hướng dẫn tại khoản 2, khoản 4 và khoản 5 Điều 3 Nghị quyết này.
Đối chiếu các quy định của pháp luật với trường hợp của bị cáo Kiệt, dù bị truy tố với khung hình phạt 3-10 năm tù nhưng nếu có từ 2 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên, Tòa án hoàn toàn có thể tuyên phạt bị cáo mức phạt dưới 3 năm tù.
Về việc xem xét cho bị cáo được hưởng án treo, cần đánh giá các điều kiện theo quy định của pháp luật để xác định Kiệt có thuộc trường hợp được xét áp dụng hình phạt này hay không. Trong trường hợp bị cáo có mức phạt từ 3 năm tù trở xuống, có nơi cư trú rõ ràng, chấp hành pháp luật tại địa phương hay xét thấy việc cho hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội, Tòa án có thể cho bị cáo hưởng án treo, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật, đồng thời cho bị cáo cơ hội được ở lại xã hội và tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc gia đình nhỏ của mình.