Johnny Lê Nữu Vượng
Già làng
Chúa Ánh là cháu nội của chúa Nguyễn Phúc Khoát, vị chúa Nguyễn áp chót ở Đàng Trong. Sau khi gia tộc chúa Nguyễn bị quân Tây Sơn lật đổ vào năm 1777, ông trốn chạy và bắt đầu cuộc chiến 25 năm với Tây Sơn để khôi phục ngôi vị.
Chúa Ánh thời còn bôn ba
Từ năm 1600 khi Nguyễn Hoàng trốn về Nam đến khi Nguyễn Ánh diệt Tây Sơn đất nước đã chia cắt hơn 200 năm, trải qua nhiều gian đoạn khói lửa chiến tranh. Thời gian Trịnh Nguyễn phân tranh tuy kéo dài nhưng so với Tây Sơn vẫn là thời gian khá yên bình vì 2 đàng đều cố gắng phát triển để có sức mạnh mà đối trọng với phía đối thủ, nên dân chúng vẫn có vài chục năm hoà bình an yên.
Đến năm 1771 Tây Sơn nổi lên đất nước bắt đầu bước vào thời kỳ đen tối bậc nhất trong lịch sử nội chiến nước nhà hơn 30 năm khốn khổ, chiến tranh loạn lạc dân chúng lầm than, không năm nào là không đánh nhau, mà lo vào đánh nhau thì làm sao có lực lượng lao động sản xuất, không có lao động sản xuất thì đói khổ vô bờ, con mất cha, chồng mất vợ (có nhiều làng ở xứ Thuận Quảng hay Thanh Nghệ không còn một bóng dáng người đàn ông) dù là đội quân thiện chiến được dẫn dắt bởi những lãnh đạo suất sắc như Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ...Dù trong thời gian đỉnh cao của Hoàng Triều, Tây Sơn vẫn không thống nhất được sơn hà, vì lý do chiến lược và vì lý do mất đoàn kết nội bộ và hơn hết thiên mệnh không dành cho Tây Sơn.
Đến năm 1802 khi Nguyễn Ánh thu phục lại được cơ đồ tổ tiên, đánh đuổi lực lượng Tây Sơn ra khỏi lãnh thổ Đàng Trong. Vua Gia Long đã mất bao lâu để tiêu diệt lực lượng Tây Sơn còn sót lại ở Bắc Hà và thống nhất giang sơn?
Dù binh bại trước Nguyễn Ánh phải lui về phía Bắc sông Gianh nhưng Tây Sơn vẫn còn đó một tìm lực khổng lồ, những danh tướng như Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng hay Bùi Thị Xuân...Và đội quân tinh nhuệ lên đến hàng vạn, và quan trọng hơn hết Tây Sơn có cả đất Bắc Hà, có dân chúng Bắc Hà, có lương thực, có của cải của toàn bộ xứ Bắc Hà gồm tất cả 14 Trấn, 47 Phủ, 187 Huyện, 40 Châu trong tay nhưng vẫn bị tiêu diệt và lại bị diệt rất nhanh, cụ thể chỉ trong vòng 1 tháng, theo chiếu lệnh bố cáo thiên hạ năm 1802 như sau:
"Từ khi ta lấy lại được Kinh thành, quân giặc chạy ra miền Bắc. Bờ cõi hai trăm năm núi rừng ngăn cách, phong tục đổi thay, 13 đạo thừa tuyên như nước ngập sâu, như lửa đốt bỏng. Đánh kẻ có tội để yên dân, thực không thể chậm được. Nay cử đại binh, đến đâu cũng thắng. Ngày 17 tháng 5, đặc mệnh cho Khâm sai chưởng Tả quân bình Tây tướng quân quận công Lê Văn Duyệt lãnh các đạo bộ binh, Khâm sai chưởng Trung quân bình Tây đại tướng quân quận công Nguyễn Văn Trương lãnh các đạo thủy bình, định ngày cùng tiến. Ngày 21 xa giá ra đi. Ngày 27 thủy bình thẳng đến Hoành Sơn, đánh phá đồn giặc, bọn đô đốc giặc Nguyễn Văn Ngũ đều thua chạy. Ngày 28, tiến lấy được Hà Trung. Ngày 29, bộ bình tiến lấy được Đại Nại. Ngày mồng 1 tháng 6 thủy bình tiến lấy được Vĩnh Dính (trấn lỵ Nghệ An), Thiếu phó giặc Đặng Văn Đằng đầu hàng, bắt được em Nguyễn Quang Toản là tên Thất và đô đốc giặc là Ngũ. Ngày mồng 2, bộ binh tiến lấy được Tiên Lý, Đô đốc giặc là Ý đầu hàng. Ngày mồng 5 tiến lấy được Dương Xá (trấn ly Thanh Hoa), bắt được Quang Bàn là em Quang Toản và bố con Đống lý giặc là Nguyễn Văn Thận.

Ngày mồng 7, Phó đô thống chế Võ Doãn Văn bắt được bọn tướng giặc Trần Quang Diệu, Từ Văn Chiêu, Nguyễn Văn Giáp, Lê Văn Hưng và tướng tốt rất nhiều. Dân Thanh Hoa lại bắt được Võ Văn Dũng giải nộp. Ngày mồng 9, bộ binh tiến đánh đồn Tam Điệp, Tư mã giặc là Nguyễn Văn Dụng, Nguyễn Văn Tứ chạy trốn. Ngày mồng 10, bộ binh tiến đánh Thanh Hoa ngoại, Đô đốc giặc là Tài đầu hàng. Ngày 12 tiến lấy được Châu Cầu (trấn lỵ Sơn Nam thượng). Thủy binh thẳng tới Vị Hoàng (trấn lỵ Sơn Nam hạ), Đô đốc giặc là Thọ đầu hàng. Ngày 17, bộ binh tiến lấy thành Thăng Long. Dân Kinh Bắc bắt được giặc Nguyễn Quang Toản, và thái tế là Quang Duy, Nguyên soái là Quang Thiệu, Tư mã là Nguyễn Văn Dụng, Nguyễn Văn Tứ giải nộp. Quang Thùy thắt cổ chết. Trước sau bắt được hơn trăm thớt voi chiến, khí giới, lương thực, thuyền ghe không xiết kế. Ngày 21, xa giá đến thành Thăng Long. Bọn ngụy quan kéo nhau đến lạy xin hàng. Giặc cướp đều quét sạch, công lớn đã hoàn thành..."
Chúa Ánh thời còn bôn ba
Từ năm 1600 khi Nguyễn Hoàng trốn về Nam đến khi Nguyễn Ánh diệt Tây Sơn đất nước đã chia cắt hơn 200 năm, trải qua nhiều gian đoạn khói lửa chiến tranh. Thời gian Trịnh Nguyễn phân tranh tuy kéo dài nhưng so với Tây Sơn vẫn là thời gian khá yên bình vì 2 đàng đều cố gắng phát triển để có sức mạnh mà đối trọng với phía đối thủ, nên dân chúng vẫn có vài chục năm hoà bình an yên.
Đến năm 1771 Tây Sơn nổi lên đất nước bắt đầu bước vào thời kỳ đen tối bậc nhất trong lịch sử nội chiến nước nhà hơn 30 năm khốn khổ, chiến tranh loạn lạc dân chúng lầm than, không năm nào là không đánh nhau, mà lo vào đánh nhau thì làm sao có lực lượng lao động sản xuất, không có lao động sản xuất thì đói khổ vô bờ, con mất cha, chồng mất vợ (có nhiều làng ở xứ Thuận Quảng hay Thanh Nghệ không còn một bóng dáng người đàn ông) dù là đội quân thiện chiến được dẫn dắt bởi những lãnh đạo suất sắc như Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ...Dù trong thời gian đỉnh cao của Hoàng Triều, Tây Sơn vẫn không thống nhất được sơn hà, vì lý do chiến lược và vì lý do mất đoàn kết nội bộ và hơn hết thiên mệnh không dành cho Tây Sơn.
Đến năm 1802 khi Nguyễn Ánh thu phục lại được cơ đồ tổ tiên, đánh đuổi lực lượng Tây Sơn ra khỏi lãnh thổ Đàng Trong. Vua Gia Long đã mất bao lâu để tiêu diệt lực lượng Tây Sơn còn sót lại ở Bắc Hà và thống nhất giang sơn?
Dù binh bại trước Nguyễn Ánh phải lui về phía Bắc sông Gianh nhưng Tây Sơn vẫn còn đó một tìm lực khổng lồ, những danh tướng như Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng hay Bùi Thị Xuân...Và đội quân tinh nhuệ lên đến hàng vạn, và quan trọng hơn hết Tây Sơn có cả đất Bắc Hà, có dân chúng Bắc Hà, có lương thực, có của cải của toàn bộ xứ Bắc Hà gồm tất cả 14 Trấn, 47 Phủ, 187 Huyện, 40 Châu trong tay nhưng vẫn bị tiêu diệt và lại bị diệt rất nhanh, cụ thể chỉ trong vòng 1 tháng, theo chiếu lệnh bố cáo thiên hạ năm 1802 như sau:
"Từ khi ta lấy lại được Kinh thành, quân giặc chạy ra miền Bắc. Bờ cõi hai trăm năm núi rừng ngăn cách, phong tục đổi thay, 13 đạo thừa tuyên như nước ngập sâu, như lửa đốt bỏng. Đánh kẻ có tội để yên dân, thực không thể chậm được. Nay cử đại binh, đến đâu cũng thắng. Ngày 17 tháng 5, đặc mệnh cho Khâm sai chưởng Tả quân bình Tây tướng quân quận công Lê Văn Duyệt lãnh các đạo bộ binh, Khâm sai chưởng Trung quân bình Tây đại tướng quân quận công Nguyễn Văn Trương lãnh các đạo thủy bình, định ngày cùng tiến. Ngày 21 xa giá ra đi. Ngày 27 thủy bình thẳng đến Hoành Sơn, đánh phá đồn giặc, bọn đô đốc giặc Nguyễn Văn Ngũ đều thua chạy. Ngày 28, tiến lấy được Hà Trung. Ngày 29, bộ bình tiến lấy được Đại Nại. Ngày mồng 1 tháng 6 thủy bình tiến lấy được Vĩnh Dính (trấn lỵ Nghệ An), Thiếu phó giặc Đặng Văn Đằng đầu hàng, bắt được em Nguyễn Quang Toản là tên Thất và đô đốc giặc là Ngũ. Ngày mồng 2, bộ binh tiến lấy được Tiên Lý, Đô đốc giặc là Ý đầu hàng. Ngày mồng 5 tiến lấy được Dương Xá (trấn ly Thanh Hoa), bắt được Quang Bàn là em Quang Toản và bố con Đống lý giặc là Nguyễn Văn Thận.
Ngày mồng 7, Phó đô thống chế Võ Doãn Văn bắt được bọn tướng giặc Trần Quang Diệu, Từ Văn Chiêu, Nguyễn Văn Giáp, Lê Văn Hưng và tướng tốt rất nhiều. Dân Thanh Hoa lại bắt được Võ Văn Dũng giải nộp. Ngày mồng 9, bộ binh tiến đánh đồn Tam Điệp, Tư mã giặc là Nguyễn Văn Dụng, Nguyễn Văn Tứ chạy trốn. Ngày mồng 10, bộ binh tiến đánh Thanh Hoa ngoại, Đô đốc giặc là Tài đầu hàng. Ngày 12 tiến lấy được Châu Cầu (trấn lỵ Sơn Nam thượng). Thủy binh thẳng tới Vị Hoàng (trấn lỵ Sơn Nam hạ), Đô đốc giặc là Thọ đầu hàng. Ngày 17, bộ binh tiến lấy thành Thăng Long. Dân Kinh Bắc bắt được giặc Nguyễn Quang Toản, và thái tế là Quang Duy, Nguyên soái là Quang Thiệu, Tư mã là Nguyễn Văn Dụng, Nguyễn Văn Tứ giải nộp. Quang Thùy thắt cổ chết. Trước sau bắt được hơn trăm thớt voi chiến, khí giới, lương thực, thuyền ghe không xiết kế. Ngày 21, xa giá đến thành Thăng Long. Bọn ngụy quan kéo nhau đến lạy xin hàng. Giặc cướp đều quét sạch, công lớn đã hoàn thành..."
.Đĩ mẹ bọn lươn lẹo này mặt ngoài thì vẫn cúng bái như anh hùng , sau lưng toàn bán đứng