Truyện số 1: https://xamvn.com/r/chuyen-lang-so-1.592461
Truyện số 2: https://xamvn.com/r/chuyen-lang-so-2.592758
Truyện số 3: https://xamvn.com/r/chuyen-lang-so-3.593455
Truyện số 4: https://xamvn.com/r/chuyen-lang-so-4.593941
Truyện số 5:
ÔNG THOẠI
Ông Thoại từng bị đi tù. Những ai sinh sau đẻ muộn, nếu không được người lớn kể cho nghe thì cũng không biết đến chuyện này. Cái lý do ông Thoại phải đi tù, thời nay mà kể ra, nó lại thành chuyện khôi hài. Vì thế mà theo thời gian, người ta cũng không coi đó là vết nhơ mà kỳ thị ông.
Vào thời bao cấp, hợp tác xã, nôm na gọi là "thời kì xây dựng Chủ nghĩa Xã hội ở miền Bắc", không có cái gì gọi là của riêng. Người nuôi lợn lớn đến khi có thể thịt được, phải xin giấy phép để mổ lợn. Rõ ràng đó là tài sản do mình làm ra đấy, nhưng phải bán cho nhà nước với giá khung. Nhà nước sẽ sung kho, chia đều cho mọi người.
Lợn gà đơn thuần chỉ là thực phẩm đã thế, trâu bò lại là một món cao cấp hơn, vì nó có thêm tài sản là sức lao động. Cụ thể là sức kéo, sức cày bừa, đắc lực cho nhà nông. Ấy thế mà ông Thoại dám tự ý mổ bò.
Ông Thoại mổ bò của nhà ông nuôi chứ không phải đi ăn trộm. Người ta bảo, nửa đêm ông dắt bò xuống sâu dưới cánh đồng giết thịt, gần sáng thì xe thịt đi bán, bị bắt giữa đường. Ông bị kết tội "phá hoại tài sản Xã hội Chủ nghĩa", phạt tù hơn ba năm.
Từ đấy ông có cái biệt danh là "Thoại bò".
Nhiều người không khỏi tò mò. Làm thế nào mà ông Thoại có thể xoay sở, giữa đêm hôm khuya khoắt, một mình giết được con bò? Không ai dám hỏi ông vì tế nhị, người ta chỉ ngầm hiểu, hẳn là ông phải rất khoẻ.
Ông Thoại khoẻ thật. Quanh năm chỉ thấy ông đi chân đất, mặc độc cái quần đùi (xà lỏn) màu bộ đội nhăn tít. Mùa đông thì ông mặc thêm cái áo thun, còn lại thì toàn cởi trần. Lưng ông Thoại bóng nhẫy, sống lưng hằn xuống thành một rãnh sâu. Mặt ông cũng đen bóng như người, nên đôi khi người ta cũng gọi ông là "Thoại đen".
Đen bóng nhẫy thì biết rồi đấy. Hẳn là hôi, bẩn.
Cái tính ở bẩn của ông, nhiều khi làm người ta kinh. Đấy là lần ông mở hàng tráng bánh cuốn. Ban đầu thì cũng có khách mua, về sau, người ta kháo nhau ông mất vệ sinh lắm, chẳng ai dám ăn nữa. Có ông kia kể lại, sáng sớm đến mua bánh cuốn, thấy ông Thoại tiện tay xé lá từ cây chuối cạnh chuồng xí, xoa xoa vài cái lên quần rồi bọc bánh cho. Ông khách sợ quá, quay đầu lủi mất.
Tính ra thì ông Thoại cũng là người có đầu óc khác người. Chỉ riêng cái việc mổ bò, ông đã là một tay không chịu bó gối, đi trước thời đại rồi. Về sau, khi đã đổi mới, khoán ruộng, ông Thoại lại là người tiên phong thử nghiệm cấy lúa Ngoi. Lúa Ngoi là giống lúa chịu được nước sâu, không biết ông Thoại kiếm ở đâu về, cấy khắp các sông, cừ (mương). Nhà ai cũng được chia ruộng để tự cày cấy đã đành, chỉ riêng ông Thoại lại nhìn ra, những khoảng sông ngòi, mương máng cứ bỏ không thế thì phí quá.
Ban đầu thấy ông trồng lúa Ngoi, ai cũng cười. Sau ông được thu hoạch, năng suất cũng ra trò, người ta lại quay ra ghen tị.
Nhưng không phải việc khác người nào của ông cũng thành công. Đáng kể nhất phải là cái lần ông mua gạch "nhọ mõm".
Gạch nhọ mõm là thứ gạch nung hỏng, bị loại. Vốn thời đó có công nghệ nung gạch bằng lò Triều Tiên, gạch hỏng rất nhiều. Vì lò nung không có đắp kín, chỉ gạch ở giữa mới đủ nhiệt để chín; gạch ngoài rìa nhận được ít nhiệt, chỉ chín một nửa, một nửa còn lại ám khói đen sì, mới gọi là gạch "nhọ mõm". Ông Thoại mua loại gạch đó cho rẻ, ý đồ mang về nung lại lần nữa; vì cứ theo ông nghĩ: "Cơm sượng hấp lại còn chín, gạch chắc cũng như vậy."
Nghĩ là một chuyện, còn thực tế có được như vậy không lại là chuyện khác. Ông Thoại nung gạch nhọ mõm, nhưng nó không cải thiện được tí nào, một đầu vẫn đen thùi lùi như lúc mua về. Tiếc của, ông vẫn cứ dùng chúng để xây nhà. Nhà thời đấy thì không có trát vữa, nên nhà ông xây, tường cứ loang lổ đen sì từng đoạn một. Người ta nhìn vào, ai cũng cười.
Người ta cười thì cứ cười thôi, ông Thoại chẳng bận tâm lắm. Việc ông muốn làm, ông cứ làm. Bất chấp lúc còn trẻ hay đã về già, ông vẫn là người tiên phong, có lối đi riêng. Đấy là chuyện về cái lần ông xuống Nền Quán vỡ hoang.
Ở sâu dưới cánh đồng làng Chiềng có một khoảng đất rộng, cao hẳn lên, gọi là Nền Quán. Vốn trước kia, Nền Quán nuôi dưỡng một cây đa đại thụ, thân to dễ đến năm sáu người ôm mới hết. Gốc đa tạo thành những cái hốc sâu, cò vạc cũng chui vào đấy trú ẩn. Người ta đồn, Nền Quán có nhiều ma lắm. Trẻ con người lớn đi vào, đều có một cảm giác gì đó rờn rợn, dù khi ấy đang là ban ngày. Nhiều người còn bảo, đi vào Nền Quán, lắng tai như nghe như có tiếng vang vọng từ ông cha cụ kị đang gọi về.
Lại có dạo, làng Chiềng rầm rộ tin đồn, Nền Quán là nơi chôn giấu vàng bạc của tầng lớp Địa chủ, cường hào thời xưa. Đêm đến, người ta lũ lượt rủ nhau thành từng tốp, soi đèn, cầm thuốn đi tìm vàng. Thuốn là một đoạn sắt to bằng ngón tay, dài cỡ một mét rưỡi, mài nhọn một đầu để thọc xuống đất, thăm dò vật cứng. Người đi tìm vàng về kể lại, thuốn dò cũng thấy nhiều hũ sành, chum đất, nhưng khi đào lên, mở ra thì toàn là trống không. Có lẽ đã có người biết bí mật mà đến trước để lấy đi rồi chăng?
Không rõ có ai vớ được vàng bạc gì không, việc ấy cũng chỉ kéo dài mấy tháng rồi im hẳn.
Nền Quán bớt thiêng đi, người làng cũng không có ý giữ gìn gì nữa. Cây đa dần dà cứ bị lũ trẻ con chăn bò phá hoại. Hun cò, đốt gốc. Mấy năm liền như thế thì nó chết, bị bật cả gốc lên, ngã kềnh ra như gã khổng lồ kiệt sức. Bẵng đi một thời gian, khi thân cây đa đã khô mục nhưng vẫn còn nằm chỏng trơ, người ta thấy ông Thoại mang cuốc xuống Nền Quán vỡ hoang. Người làng nhìn thấy thế, cứ ngỡ là ông bị dở hơi.
Nhưng ông Thoại không đùa, ông dựng lều, ngủ luôn ở Nền Quán.
Chiều chiều, người ta thấy một ông già lưng trần bóng nhẫy, cắp theo khi thì phích nước, khi thì bó rơm, đi xuống đồng sâu. Mấy tháng ăn ngủ ở dưới đồng như thế, người làng đã không còn cười ông Thoại nữa. Người ta lại quay sang tò mò, ông không sợ ma hay ông đánh được cả ma?
Lại bẵng đi một thời gian, người làm đồng gần đó có thể nhìn thấy Nền Quán phủ một lớp xanh rì. Ông Thoại trồng dưa lê. Dưa to, ngọt lắm chứ chẳng phải chơi. Bấy giờ, người làm đồng ghé ông mua dưa ăn cho mát ruột, lại thầm gật gù khen ông phải.
Ông Thoại phơi gió nằm sương, cũng phải được đến ba mùa dưa chính vụ. Không biết có phải do ông đến tuổi phải già, hay đất Nền Quán độc hơn đất khác, ông yếu đi thấy rõ. Đôi tay ông để không mà nó cũng cứ run lên từng cơn. Con ông trước đã không bằng lòng, nhưng ông cậy khoẻ, nó không cản được. Nay thấy ông như vậy thì xót ruột quá, nó gọi anh em họ hàng xuống đồng, dỡ hết lều trại, cho ông lên xe bò kéo về làng.
Từ đấy Nền Quán lại im lìm. Dưa héo, lều tan. Cũng không có ai muốn làm ông Thoại thứ hai nữa.
Xác cây đa vẫn nằm cô đơn trơ trọi.
Truyện số 2: https://xamvn.com/r/chuyen-lang-so-2.592758
Truyện số 3: https://xamvn.com/r/chuyen-lang-so-3.593455
Truyện số 4: https://xamvn.com/r/chuyen-lang-so-4.593941
Truyện số 5:
ÔNG THOẠI
Ông Thoại từng bị đi tù. Những ai sinh sau đẻ muộn, nếu không được người lớn kể cho nghe thì cũng không biết đến chuyện này. Cái lý do ông Thoại phải đi tù, thời nay mà kể ra, nó lại thành chuyện khôi hài. Vì thế mà theo thời gian, người ta cũng không coi đó là vết nhơ mà kỳ thị ông.
Vào thời bao cấp, hợp tác xã, nôm na gọi là "thời kì xây dựng Chủ nghĩa Xã hội ở miền Bắc", không có cái gì gọi là của riêng. Người nuôi lợn lớn đến khi có thể thịt được, phải xin giấy phép để mổ lợn. Rõ ràng đó là tài sản do mình làm ra đấy, nhưng phải bán cho nhà nước với giá khung. Nhà nước sẽ sung kho, chia đều cho mọi người.
Lợn gà đơn thuần chỉ là thực phẩm đã thế, trâu bò lại là một món cao cấp hơn, vì nó có thêm tài sản là sức lao động. Cụ thể là sức kéo, sức cày bừa, đắc lực cho nhà nông. Ấy thế mà ông Thoại dám tự ý mổ bò.
Ông Thoại mổ bò của nhà ông nuôi chứ không phải đi ăn trộm. Người ta bảo, nửa đêm ông dắt bò xuống sâu dưới cánh đồng giết thịt, gần sáng thì xe thịt đi bán, bị bắt giữa đường. Ông bị kết tội "phá hoại tài sản Xã hội Chủ nghĩa", phạt tù hơn ba năm.
Từ đấy ông có cái biệt danh là "Thoại bò".
Nhiều người không khỏi tò mò. Làm thế nào mà ông Thoại có thể xoay sở, giữa đêm hôm khuya khoắt, một mình giết được con bò? Không ai dám hỏi ông vì tế nhị, người ta chỉ ngầm hiểu, hẳn là ông phải rất khoẻ.
Ông Thoại khoẻ thật. Quanh năm chỉ thấy ông đi chân đất, mặc độc cái quần đùi (xà lỏn) màu bộ đội nhăn tít. Mùa đông thì ông mặc thêm cái áo thun, còn lại thì toàn cởi trần. Lưng ông Thoại bóng nhẫy, sống lưng hằn xuống thành một rãnh sâu. Mặt ông cũng đen bóng như người, nên đôi khi người ta cũng gọi ông là "Thoại đen".
Đen bóng nhẫy thì biết rồi đấy. Hẳn là hôi, bẩn.
Cái tính ở bẩn của ông, nhiều khi làm người ta kinh. Đấy là lần ông mở hàng tráng bánh cuốn. Ban đầu thì cũng có khách mua, về sau, người ta kháo nhau ông mất vệ sinh lắm, chẳng ai dám ăn nữa. Có ông kia kể lại, sáng sớm đến mua bánh cuốn, thấy ông Thoại tiện tay xé lá từ cây chuối cạnh chuồng xí, xoa xoa vài cái lên quần rồi bọc bánh cho. Ông khách sợ quá, quay đầu lủi mất.
Tính ra thì ông Thoại cũng là người có đầu óc khác người. Chỉ riêng cái việc mổ bò, ông đã là một tay không chịu bó gối, đi trước thời đại rồi. Về sau, khi đã đổi mới, khoán ruộng, ông Thoại lại là người tiên phong thử nghiệm cấy lúa Ngoi. Lúa Ngoi là giống lúa chịu được nước sâu, không biết ông Thoại kiếm ở đâu về, cấy khắp các sông, cừ (mương). Nhà ai cũng được chia ruộng để tự cày cấy đã đành, chỉ riêng ông Thoại lại nhìn ra, những khoảng sông ngòi, mương máng cứ bỏ không thế thì phí quá.
Ban đầu thấy ông trồng lúa Ngoi, ai cũng cười. Sau ông được thu hoạch, năng suất cũng ra trò, người ta lại quay ra ghen tị.
Nhưng không phải việc khác người nào của ông cũng thành công. Đáng kể nhất phải là cái lần ông mua gạch "nhọ mõm".
Gạch nhọ mõm là thứ gạch nung hỏng, bị loại. Vốn thời đó có công nghệ nung gạch bằng lò Triều Tiên, gạch hỏng rất nhiều. Vì lò nung không có đắp kín, chỉ gạch ở giữa mới đủ nhiệt để chín; gạch ngoài rìa nhận được ít nhiệt, chỉ chín một nửa, một nửa còn lại ám khói đen sì, mới gọi là gạch "nhọ mõm". Ông Thoại mua loại gạch đó cho rẻ, ý đồ mang về nung lại lần nữa; vì cứ theo ông nghĩ: "Cơm sượng hấp lại còn chín, gạch chắc cũng như vậy."
Nghĩ là một chuyện, còn thực tế có được như vậy không lại là chuyện khác. Ông Thoại nung gạch nhọ mõm, nhưng nó không cải thiện được tí nào, một đầu vẫn đen thùi lùi như lúc mua về. Tiếc của, ông vẫn cứ dùng chúng để xây nhà. Nhà thời đấy thì không có trát vữa, nên nhà ông xây, tường cứ loang lổ đen sì từng đoạn một. Người ta nhìn vào, ai cũng cười.
Người ta cười thì cứ cười thôi, ông Thoại chẳng bận tâm lắm. Việc ông muốn làm, ông cứ làm. Bất chấp lúc còn trẻ hay đã về già, ông vẫn là người tiên phong, có lối đi riêng. Đấy là chuyện về cái lần ông xuống Nền Quán vỡ hoang.
Ở sâu dưới cánh đồng làng Chiềng có một khoảng đất rộng, cao hẳn lên, gọi là Nền Quán. Vốn trước kia, Nền Quán nuôi dưỡng một cây đa đại thụ, thân to dễ đến năm sáu người ôm mới hết. Gốc đa tạo thành những cái hốc sâu, cò vạc cũng chui vào đấy trú ẩn. Người ta đồn, Nền Quán có nhiều ma lắm. Trẻ con người lớn đi vào, đều có một cảm giác gì đó rờn rợn, dù khi ấy đang là ban ngày. Nhiều người còn bảo, đi vào Nền Quán, lắng tai như nghe như có tiếng vang vọng từ ông cha cụ kị đang gọi về.
Lại có dạo, làng Chiềng rầm rộ tin đồn, Nền Quán là nơi chôn giấu vàng bạc của tầng lớp Địa chủ, cường hào thời xưa. Đêm đến, người ta lũ lượt rủ nhau thành từng tốp, soi đèn, cầm thuốn đi tìm vàng. Thuốn là một đoạn sắt to bằng ngón tay, dài cỡ một mét rưỡi, mài nhọn một đầu để thọc xuống đất, thăm dò vật cứng. Người đi tìm vàng về kể lại, thuốn dò cũng thấy nhiều hũ sành, chum đất, nhưng khi đào lên, mở ra thì toàn là trống không. Có lẽ đã có người biết bí mật mà đến trước để lấy đi rồi chăng?
Không rõ có ai vớ được vàng bạc gì không, việc ấy cũng chỉ kéo dài mấy tháng rồi im hẳn.
Nền Quán bớt thiêng đi, người làng cũng không có ý giữ gìn gì nữa. Cây đa dần dà cứ bị lũ trẻ con chăn bò phá hoại. Hun cò, đốt gốc. Mấy năm liền như thế thì nó chết, bị bật cả gốc lên, ngã kềnh ra như gã khổng lồ kiệt sức. Bẵng đi một thời gian, khi thân cây đa đã khô mục nhưng vẫn còn nằm chỏng trơ, người ta thấy ông Thoại mang cuốc xuống Nền Quán vỡ hoang. Người làng nhìn thấy thế, cứ ngỡ là ông bị dở hơi.
Nhưng ông Thoại không đùa, ông dựng lều, ngủ luôn ở Nền Quán.
Chiều chiều, người ta thấy một ông già lưng trần bóng nhẫy, cắp theo khi thì phích nước, khi thì bó rơm, đi xuống đồng sâu. Mấy tháng ăn ngủ ở dưới đồng như thế, người làng đã không còn cười ông Thoại nữa. Người ta lại quay sang tò mò, ông không sợ ma hay ông đánh được cả ma?
Lại bẵng đi một thời gian, người làm đồng gần đó có thể nhìn thấy Nền Quán phủ một lớp xanh rì. Ông Thoại trồng dưa lê. Dưa to, ngọt lắm chứ chẳng phải chơi. Bấy giờ, người làm đồng ghé ông mua dưa ăn cho mát ruột, lại thầm gật gù khen ông phải.
Ông Thoại phơi gió nằm sương, cũng phải được đến ba mùa dưa chính vụ. Không biết có phải do ông đến tuổi phải già, hay đất Nền Quán độc hơn đất khác, ông yếu đi thấy rõ. Đôi tay ông để không mà nó cũng cứ run lên từng cơn. Con ông trước đã không bằng lòng, nhưng ông cậy khoẻ, nó không cản được. Nay thấy ông như vậy thì xót ruột quá, nó gọi anh em họ hàng xuống đồng, dỡ hết lều trại, cho ông lên xe bò kéo về làng.
Từ đấy Nền Quán lại im lìm. Dưa héo, lều tan. Cũng không có ai muốn làm ông Thoại thứ hai nữa.
Xác cây đa vẫn nằm cô đơn trơ trọi.
Sửa lần cuối: