Có một sự nhạy cảm không hề nhẹ là khi viết những gì hơi có xu hướng tốt hơn cho Trung Quốc - dù là quan sát và ghi chép từ thực tế hoặc có số liệu đàng hoàng - thì khả năng người viết sẽ bị tấn công cá nhân và chụp mũ từ những người có quan điểm khác hẳn. Nhưng từ góc độ một người nhiều năm làm chiến lược cho các tổ chức và tập đoàn lớn, mình cho rằng, “Biết người biết ta” thì mới có một chút may mắn tồn tại và có thể chút xíu may mắn hơn để thành công.
Với một thị trường như Trung Quốc - dù quan điểm là gì thì có một vài sự thật khó chối từ: (1) họ rất lớn; (2) họ có 1 thời gian dài phát triển tốc độ cao và (3) họ có lịch sử thành công trong mảng công nghệ.
Từ những con kỳ lân đời đầu như Alibaba rồi tới những câu chuyện cận đại như Temu, Shein, Tiktok,… Trung Quốc có một danh sách đủ dài để chứng minh họ có thể tạo ra kỳ lân với số lượng đủ nhiều để người ta phải để ý chứ không còn là việc ăn may nữa.
Rồi càng gần đây, các công ty kỳ lân của họ không còn bị giới hạn ở các "công ty nền tảng” nữa mà đã xuất hiện những cái tên trong mảng công nghệ sâu và khoa học đời sống. Danh sách những cái tên như Horizon Robotics, 01.AI, Elpiscience, Unitree Robotics, EpimAb Biotherapeutics, GenFleet Therapeutics, Innoscience, Cambricon Technologies,… ngày càng dài ra và thách thức Mỹ trong những mảng công nghệ lõi - từ AI, Robotics, semiconductor tới dược và công nghệ sinh học.
Nếu ở Mỹ có Silicon Valley và Boston area, thì ở Trung Quốc có Zhongguancun, Suzhou, Hangzhou, Wuxi, Shanghai, Shenzhen,… Các trung tâm đổi mới sáng tạo của Trung Quốc không chỉ ngày càng nhiều về số lượng mà ngày càng tăng về chất lượng. Zhongguancun được nhiều báo cáo cho rằng là trung tâm đổi mới sáng tạo hàng đầu thế giới - vượt mặt cả Silicon Valley lẫn Boston. Dù thứ hạng có thay đổi thế nào thì có một sự thật là, trong khu vực giữa đường vành đai 3 và 4 ở phía Tây Bắc Tử Cấm Thành Bắc Kinh này, sự kết hợp giữa các trường đại học hàng đầu như Thanh Hoa và Bắc Đại, các công ty công nghệ hàng đầu như DeepSeek hay Google, các quỹ đầu tư mạo hiểm hàng đầu như Tsinghua Capital hay HongShan (tiền thân là Sequoia Trung Quốc), đã và đang tạo ra những cái tên làm rung chuyển thế giới.
Nhưng những gì chúng ta thấy ngày hôm nay không xảy ra trong một sớm một chiều - nó là thành công trong 1 đêm được hun đúc trong vài thập kỷ -
“decades-long overnight success”. Và điều đó cũng có nghĩa là cả một thời gian rất dài, nền công nghệ Trung Quốc được xây dựng một cách lặng lẽ công khai. Chỉ khác chăng là giờ người ta mới đủ tin là ở đây có gì đó đáng để quan tâm thay vì giữ vững một niềm tin rằng “Trung Quốc chỉ có thể copy người khác”.
Vài thập kỷ “ẩn mình”
Đêm cuối ở Bắc Kinh trước khi về Hà Nội tuần trước, mình có cuộc nói chuyện vài tiếng đồng hồ ở sảnh một khách sạn ở cạnh khuôn viên đại học Thanh Hoa. Xung quanh mình là nhiều gương mặt trẻ măng từ nhiều quốc gia tới. Người ngồi nói chuyện với mình là một nhân vật thú vị - học Thanh Hoa rồi qua Stanford, làm trong các phòng thí nghiệm lớn nhất của châu Âu rồi chuyển hướng qua làm bộ phận đổi mới sáng tạo của 1 tập đoàn công nghệ châu Âu đặt tại Bắc Kinh rồi giờ lãnh đạo một tổ chức của Trung Quốc có khả năng thay đổi cục diện về phát triển công nghệ lõi tại Thanh Hoa. Thỉnh thoảng trong cuộc nói chuyện rất dài này, anh chỉ sang những người ngồi gần và nói với mình: “Team này đang bàn về việc spin-off công nghệ từ Thanh Hoa” hay “Team kia đang nói về huy động vốn”, bởi các cuộc nói chuyện đó bằng tiếng Trung và mình thì không biết một chữ tiếng Trung nào…
Ngồi vài tiếng với anh là một master-class về lịch sử phát triển của Zhongguancun và tại sao Trung Quốc có thể lặng lẽ đạt tới trình độ hiện nay.
Có vài điểm đáng chú ý:
1. Hệ thống luật pháp và người làm luật
Trước khi đi, mấy bạn hay làm việc với mình còn trêu mình rằng mình đang đi tham gia trò chơi sinh tồn vì tỷ lệ người biết tiếng Anh ở Trung Quốc RẤT thấp. Sang tới Trung Quốc là tự mình phải bơi khi “nhất dương chỉ” aka. ngôn ngữ kí hiệu có lẽ là thứ ngôn ngữ hiệu quả nhất cho một người không biết tiếng Trung như mình.
Rồi mình tới Thanh Hoa và được cho biết rằng, phần lớn họ nói thành thạo và có thể giao tiếp như người nước ngoài bằng tiếng Anh. Những cựu sinh viên Thanh Hoa giờ đang làm Bí thư các tỉnh thành lớn từ Quảng Đông tới Thượng Hải hay làm Bộ trưởng các bộ quan trọng như Bộ Khoa Học Công Nghệ đều có một thời gian rất dài ở nước ngoài - và tất nhiên họ hiểu thế giới như họ hiểu chính đất nước họ.
Một nhân vật quan trọng giúp đỡ đẻ cho các công ty công nghệ cao Trung Quốc thông qua hệ thống luật pháp là một cựu sinh viên Thanh Hoa, người 20 năm trước đã ở Silicon Valley làm nhà sáng lập, đã bán được công ty rồi về làm nhà đầu tư mạo hiểm ở Trung Quốc trước khi vào hệ thống nhà nước để lãnh đạo bộ phận “đưa nghiên cứu ra thị trường”. Bạn mình kể, người ta chọn các “profile” như vậy vì chỉ có những người đã đi qua tất cả các giai đoạn mới hiểu cần phải làm gì để có thể tạo ra công ty công nghệ thành công. Họ hiểu rằng, bằng sáng chế chỉ có giá trị kinh tế khi nó được ra thị trường - còn lại, thì chỉ có giá trị ghi điểm trong bảng xếp hạng. Và họ cũng hiểu rằng, từ bằng sáng chế để ra được sản phẩm là một quãng đường rất dài, từ sản phẩm để ra được thị trường cũng là một quãng đường dài không kém - còn từ khi ra được thị trường cho tới khi có công ty được gọi là đủ mạnh thì còn là một chặng đường cực kì gian nan. Họ hiểu được rằng nghiên cứu phát triển chỉ là một phần khởi đầu của một nền khoa học công nghệ vững mạnh và để tạo được ảnh hưởng kinh tế từ các công ty công nghệ lớn, kĩ năng tối quan trọng lại là “company building” chứ không chỉ là nghiên cứu phát triển. Tiếc là kỹ năng “company building” này không thể chỉ được dạy qua các khóa học - chỉ có người đã đi qua mới biết cần phải làm gì. Và đối với ngành công nghệ sâu thì kỹ năng “company building” này còn phải kết hợp với kiến thức chuyên môn về khoa học kĩ thuật - làm cho số lượng người đạt đủ các tiêu chí như vậy thực sự không hề nhiều.
Nói một cách khác, Trung Quốc đã học cách xây dựng hệ thống luật pháp cho ngành công nghệ trong vòng vài thập kỷ qua và đã dành gần 20 năm để tìm được đúng người và đặt họ đúng vào vị trí để hỗ trợ cho ngành qua hệ thống luật luôn được cập nhật và ngày càng hoàn chỉnh.
Anh nói rằng, Trung Quốc 20 năm trước cũng chưa có gì và nếu Trung Quốc mất 20 năm thì Việt Nam không cần mất từng đó thời gian vì có thể tránh được những sai lầm mà Trung Quốc hay các nước đi trước đã phải trả học phí.
2. Hệ sinh thái đổi mới sáng tạo
Một founder làm hardware ở Việt Nam nhiều lần tâm sự là bạn thích Shenzhen thế nào khi chỉ trong cùng 1 tòa nhà có đầy đủ mọi thứ để làm ra được sản phẩm. Người bạn làm đầu tư mạo hiểm ở Thanh Hoa lái xe đưa mình chạy vòng vòng trong khu vực từ Thanh Hoa qua Bắc Đại. Tới 1 ngã tư, bạn chỉ vào 1 tòa nhà và bảo mình rằng, ở chỗ đó, 1 kỹ sư có đủ mọi thứ để làm ra 1 cái máy tính mới. Từ thiết kế con chip, làm cái bo mạch cho tới đội thiết kế công nghiệp rồi chạy qua xưởng sản xuất và kiểm thử. Người làm công nghệ chẳng phải chạy từ tỉnh này qua tỉnh khác, chỉ cần chạy từ tầng này lên tầng kia là xong sản phẩm. Tất cả ở cùng một chỗ nên làm cái gì cũng nhanh và vì thế trở thành một lợi thế vô cùng lớn cho việc phát triển công nghệ.
Trong một panel về đầu tư vào Việt Nam tại GITEX Singapore tuần trước, anh đồng nghiệp ở quỹ Vertex Ventures SEA & India của mình có nhắc tới 1 lý do bọn mình đầu tư vào Coolmate - đó là lợi thế về chuỗi cung ứng. Việc ở gần chuỗi cung ứng cho phép việc sáng tạo sản phẩm nhanh hơn và đưa ra thị trường nhanh hơn hẳn so với đối thủ. Với startup, tốc độ là lợi thế lớn nhất so với các công ty lớn. Và việc gần chuỗi cung ứng làm cho lợi thế này được nhân lên nhiều lần.
Soi chiếu qua hệ sinh thái Trung Quốc, các trung tâm đổi mới sáng tạo của họ là một hệ sinh thái được nén vào 1 khu vực với mật độ cao - từ chất xám, bằng sáng chế, tới prototype, sản xuất, kiểm thử…Mật độ cao gần chuỗi cung ứng làm cho lợi thế tốc độ trong mảng công nghệ sâu của Trung Quốc được nhân lên nhiều lần và là một thế lực không thể bỏ qua khi nói tới sức mạnh của công nghệ Trung Quốc.
Nếu so sánh với các trung tâm của Mỹ hoặc châu Âu, thì chuỗi cung ứng của Mỹ và Châu Âu ngắn hơn rất nhiều - họ có độ đậm về chất xám, bằng sáng chế, prototype nhưng khi tới giai đoạn sản xuất, kiểm thử,… thì chuỗi cung ứng của họ bị cắt đột ngột. Việc phải đưa sang nơi khác sản xuất, kiểm thử, đánh giá thị trường làm cho thời gian hoàn thành cả vòng đời của phát triển sản phẩm và đưa nó ra thị trường bị dài hơn tương đối và đồng nghĩa với việc họ bị bất lợi rất nhiều trong quá trình đổi mới sáng tạo. Chẳng trách nước Mỹ nhất định phải mang chuỗi cung ứng công nghệ cao về lại đất Mỹ và Andreessen Horowitz (aka. a16z) có một quỹ riêng với cái tên
“American Dynamism” dành cho các ngành này.
Với hệ sinh thái như vậy, Trung Quốc không cần đi copy hay ăn cắp của ai như nhiều người lầm tưởng. Họ thực sự đi trước rất nhiều trong nhiều mảng công nghệ mà tới gần đây khi nhìn vào để hiểu Trung Quốc đã đi xa cỡ nào, người ta có thể bắt đầu hiểu được những dòng chảy của Project2025 của tổng thống Trump cũng như những động thái của ngành công nghệ cũng như địa chính trị trong thời đại chúng ta đang sống.
3. Hệ sinh thái tài chính cho đổi mới sáng tạo
Cuối cùng là “đầu tiên” - Tiền đâu?
Người ta vẫn hay nhắc tới đầu tư mạo hiểm quan trọng thế nào cho đổi mới sáng tạo. Điều này đúng - mình cũng đã từng viết về vấn đề này. Nhưng, chỉ nhìn vào đầu tư mạo hiểm thì cũng giống như thầy bói xem voi - chỉ thấy được cái tai hay cái chân của cả một con voi trong khi cả hệ sinh thái tài chính cho đổi mới sáng tạo và công nghệ cao lớn hơn rất nhiều so với chỉ có dòng vốn đầu tư mạo hiểm.
“Capital stack” là một từ cần được chú ý nhiều hơn là “venture capital”. Ở Trung Quốc, các công cụ tài chính từ grant cho tới venture capital cho tới debt financing, cho tới growth capital, corporate venture capital, … và hệ thống tài chính hỗ trợ cho thoái vốn và IPO được xây dựng và hình thành một thời gian dài từ những ngày đầu của hệ sinh thái đổi mới sáng tạo. Hệ sinh thái tài chính đó là một con số khổng lồ có thể cạnh tranh với bất kỳ hệ sinh thái nào trên thế giới. Trong một báo cáo, chính phủ Trung Quốc đã đầu tư hơn $912 tỷ đô la trong vòng 1 thập kỷ qua thông qua các quỹ đầu tư nhiều giai đoạn (và 23% trong số đó đã đầu tư vào hơn 1,4 triệu công ty AI ở Trung Quốc - vậy nên khi DeepSeek xuất hiện, đáng lẽ chúng ta không nên ngạc nhiên). Chỉ tính thời điểm hiện tại, thì tổng số tiền có trong các quỹ đầu tư mạo hiểm liên quan tới nhà nước ở Trung Quốc cũng có hàng trăm tỉ đô đang chờ được giải ngân vào những ngành công nghệ sâu đặc biệt quan trọng từ AI, robotics, semiconductor, công nghệ vật liệu, dược và công nghệ sinh học…. Bài này là bài Trung Quốc copy lại của Mỹ - vì tới cuối cùng, đầu tư từ chính phủ là xuất phát điểm dẫn tới những cái tên như Fairchild Semiconductor, làm tiền đề cho ngành đầu tư mạo hiểm và Silicon Valley như chúng ta biết tới ngày nay.
Ngoài việc mạnh vì gạo, bạo vì tiền, Trung Quốc cũng bắt đầu hình thành “văn hóa” đầu tư cho công nghệ qua một lịch sử thành công khi xây dựng công ty và thoái vốn trong thập kỷ qua. Văn hóa đầu tư công nghệ là một đặc điểm rất “Silicon Valley” - người trước hỗ trợ người sau, đầu tư thiên thần theo đúng nghĩa thiên thần và mong muốn nâng đỡ các thế hệ nhà sáng lập tiếp nối. Khi văn hóa này chưa được tiếp thu và thực hành thì khó có thể có “Silicon Valley” ở ngoài Mỹ. Nhưng khi người ta bắt đầu có văn hóa như vậy ở Trung Quốc, không quá ngạc nhiên khi họ “nhân bản” được Silicon Valley.
Và cũng phải nói tới con người.
Các nhà đầu tư công nghệ tại Trung Quốc thực sự hiểu công nghệ - và đặc biệt là công nghệ sâu. Đây là đặc điểm quan trọng và đặc thù cho ngành công nghệ cao.
Tuần trước ở panel về đầu tư công nghệ sâu tại GITEX Singapore, một founder Việt chia sẻ khó khăn khi đi tìm các nhà đầu tư công nghệ sâu tại Đông Nam Á cho công ty robotics của bạn ấy. Mình nói rằng, sở dĩ khó như vậy vì phần lớn các nhà đầu tư mạo hiểm ở khu vực này đều xuất thân từ đầu tư tài chính, rất khó cho họ để đánh giá một thương vụ đầu tư công nghệ sâu nếu như họ không có background công nghệ và kỹ thuật. Bạn founder này đồng ý - vì thực tế, quỹ đầu tư đầu tiên bỏ tiền vào cho các bạn lại có xuất phát điểm từ đại học công nghệ Tokyo.
Điều này đúng ở nhiều nơi trên thế giới. Khi mình qua Mỹ gặp các quỹ đầu tư công nghệ sâu có tiếng thì trong đội ngũ của họ ngoài người làm tài chính còn có những người là tiến sĩ và kỹ sư. Qũy đầu tư công nghệ sâu có nhiều hoạt động hàng đầu ở Nhật Bản cũng được sáng lập bởi 1 tiến sĩ ngành công nghệ sinh học.
Còn tại Trung Quốc, trong khuôn viên Zhongguancun mình tới thăm có rất nhiều các quỹ đầu tư công nghệ cao đặt trụ sở. Lãnh đạo của họ đều từng học kỹ thuật ở Thanh Hoa hoặc có bằng cấp cao về công nghệ và kỹ thuật trước khi họ trở thành nhà đầu tư công nghệ chuyên nghiệp.