Tiệm cơm trong văn hoá, Tiếng Nói Miền Nam
Ngày nay một số người Miền Nam đề bảng "Quán Cơm Sườn", "Quán Cơm Chay" , "Quán Hủ Tiếu" là sai. Người Miền Nam phải ghi "Tiệm Cơm Sườn", "Tiệm Cơm Chay", "Tiệm Hủ Tíu" mới trúng
Chữ tiệm là chữ của Miền Nam
Thường nghe nói là "Tới giờ tui đóng cửa tiệm nhen!". Rồi tiệm nước, tiệm ăn, tiệm may, tiệm sửa xe Honda
Người Miền Nam kêu những người không ăn cơm nhà nấu, hay ăn cơm dĩa ở lề đường là "ăn cơm tiệm". Thí dụ hỏi "Về Sài Gòn học mày ăn cơm ở đâu con?" thì trả lời :"Dạ! con ăn cơm tiệm thím bảy ơi!"
Từ trước 1975 tới những năm 1995 Sài Gòn có nhiều "tiệm hủ tíu", "tiệm phở", "tiệm nước", "tiệm chạp phô". Nhưng gần đây thì truyền thông cứ quán cafe, quán phở, quán hủ tíu , quán cơm sinh viên miết
Cái chữ "tiệm" chẳng biết từ đâu, nhưng không tìm ra nó có bà con với tiếng Quảng Đông
Thí dụ chữ 飯店 mà âm Quảng Đông đọc là fàn diàn là tiệm cơm. Chữ 粉店 đọc là fěn diàn (phảnh tim) là tiệm phở. Chữ 雜貨舖 đọc là zá huò pù là tiệm tạp hóa
Trong đó chữ diàn 店 (điếm) nghĩa là cái tiệm, cái quán, còn chữ 舖 (phô hoặc phố) cũng có nghĩa là cái tiệm. Từ chữ diàn 店 (điếm) đọc thành chữ tiệm cũng có thể không ta?
Những cái tiệm ở Miền Nam nổi tiếng xin kể ra:
- Tiệm chạp phô
Tiệm chạp phô hay tiệm tạp hóa là một cửa hàng nhỏ trong làng xóm của người Nam Kỳ có từ xưa lơ xưa lắc rồi
Đọc là "chạp phô" là theo âm của người Quảng Đông, chạp là đồ hằm bà lằng, đồ tạp nhạp, là tạp hóa, nghĩa là cửa hàng bán những thứ vặt vãnh, lẫn lộn, nhiều cái góp lại
Qủa thiệt, tiệm chạp phô bán đủ món, từ bánh, kẹo, đường, đậu, sữa, nước mắm, nước tương, nhang đèn, bóng đèn hột vịt,d ầu hôi, dầu phộng, dầu mè, kim chỉ ….tới băng vệ sinh, bao cao su. Người dân cần gì tiệm có bán cái đó. Số lượng mặt hàng đa chủng loại của nó nhiều gấp mấy trăm lần cái siêu thị
Những tiệm chạp phô trên đất Sài Gòn Gia Định đầu tiên là của người Quảng Đông
Ra đời và phát triển rầm rộ cũng cỡ những năm 1940 trở lại thôi,vì truyện Hồ Biểu Chánh không hề nhắc tới tiệm chạp phô
Hồi mới ra đời, mấy chú Tàu Quảng Đông mở tiệm chạp phô để bán các thứ thực phẩm khô như hột vịt, hột gà, tôm khô, cá khô, lạp xưởng, xì pỉn. Sau dần dà thêm vô đủ thứ món khác
Chạp phô bán tạp nhạp,hằm bà lằng món trong xóm,vì chứa quá nhiều nên tiệm chạp phô không bao giờ sạch sẽ, nhìn nó dơ dáy , ẩm thấp, nghe mùi hăng hắc, bụi bặm
Ngày nay chạp phô ít ai còn kêu, nó là tiệm tạp hóa, người Việt tham gia nhiều hơn
Ai dè có vài người Miền Nam mất gốc bắt chước đề tên tiệm tạp hoa mình là "bách hoá" coi bực ghê chưa!
-Tiệm may
Trước 1975 thợ may rất có giá. Vì nghề may sống khá lắm,có của dư dã
Mấy cô học trò học hành lươn ươn, thi rớt thì cha mẹ cho nghĩ học chữ xách đít đi học may, xong về mở tiệm, chừng sạch sạch ngộ ngộ là có trai tới cưới liền
Có bốn loại tiệm may, một là tiệm may áo dài, hai là may áo bà ba, đồ kiểu của nữ, ba là may quần tây áo sơ mi, bốn là may đồ lớn (veston)
Ông bà ta có câu:
“Thợ may ăn giẻ
Thợ vẽ ăn hồ
Thợ bồ ăn nan
Thợ hàn ăn thiếc”
Mấy cái tiệm may trong xóm trong làng rất đắt, lúc nào cũng có khách ,gần tết may ngày may đêm
Một cái tiệm may bày trí như vầy: Trước cửa là cái tủ kiếng lớn đựng đồ mẫu, hai bên hông là hai dãy máy may của mấy anh chị đi học nghề, giữa nhà là cái bàn cắt, trong nhà là bàn máy của bà chủ tiệm
Tiệm may lúc nào cũng đông khách, nhứt là mấy anh trai ấp đi vô dê mấy cô học may
“Tay cầm cây kéo cây kim
Vai mang đồ lụa đi tìm thợ may
Thợ may anh đây không kiếm
Nhất định rồi anh chỉ kiếm mình em”
Muốn học may phải tốn ít nhứt là 4 chỉ vàng và tiền mua cái bàn máy may.
Sau 1975 nghề may vẫn còn ăn ngon lành. Tới những năm 1995 thì thợ may chết ngắc vì đồ vựa, đồ may sẳn rẻ rề bán đầy đường đầy chợ,đầy siêu thị. Ngày nay muốn kiếm một tiệm may đặng may quần tây cũng hơi khó
-Tiệm cafe và tiệm nước
Tiệm cafe và tiệm nước đôi khi bán những món cũng giống nhau thôi. Có cafe đen, cafe sữa, pạc sỉu, trà ngon...Cái khác là tiệm nước có chủ là người Tàu phần nhiều
-Tiệm cơm
Tiệm cơm là tiệm bán cơm, món ăn ngày ngày của người Việt. Ban đầu là bán cơm bình dân kiểu gia đình, tức là thịt kho hột vịt,cá chiên, cá kho, canh này nọ cho công chức và thợ thuyền, dân lao động ở bến xe, bến cảng
Nhìn chung tới những năm 1945 Sài Gòn vẫn chưa xuất hiện trò ăn cơm dĩa ngoài lề đường. Trong nhà hàng Tàu,cơm chiên Dương Châu, cơm chiên Hải Nam vẫn bỏ trong dĩa hột xoài và người ta xài muỗng múc ra chén nhỏ ăn
Trong dân gian Nam Kỳ xưa thì cơm tấm nhuyễn nhuyễn là món ăn của người bình dân, lao động, vác banh, thợ hồ, bạn chèo ghe mướn
Thập niên 1950 thì xuất hiện cơm tấm dĩa sườn bì chả nổi tiếng sài Gòn,thí dụ kiểu cơm tấm Thuận Kiều
Cơm tấm xài dĩa là để bày ra trước nhứt,nó có cơm,có đồ chua,một miếng sườn nướng vàng ngon,một miếng chả thịt trộn bún Tàu với hột vịt,rồi bì heo xá xíu heo trộn đậu phộng,thêm miếng mỡ hành xanh tươi và một chén nước mắm màu cánh gián pha ớt đỏ
Nhưng cơm dĩa lề đường,cơm dĩa quán tiệm chỉ là ăn cho qua ngày tháng,ăn qua quýt cho nhanh, cho hết đói chứ nó không phải là văn hóa gia đình Việt Nam. Mỹ có tiệm bán đồ ăn nhanh thì Sài Gòn có quán cơm tấm,cơm bình dân
Cơm tiệm chỉ là cơm cho lữ khách dọc đường,cho kẻ xa nhà tha phương phải cầu thực,cho những em học sinh,sinh viên ăn nhanh còn vô học,cho dân văn phòng
-Tiệm hủ tíu
Nói về hủ tíu tới khuya chưa hết vì đây là món vô địch ở Miền Nam xưa.Hủ tíu là văn minh Nam Kỳ Lục Tỉnh của chúng ta
-Tiệm vàng
Người Nam Kỳ thích vàng lắm,thành ra tiệm vàng mở ra rất nhiều.Tiệm vàng bán đồ nữ trang.Người Nam Kỳ không gọi là đồ tế nhuyễn như Bắc Kỳ,kêu vàng là đồ nữ trang
Vàng Nam Kỳ chủ yếu có hai loại là vàng y tức vàng ròng 24 K (vàng mười) và vàng Tây 18 K
“Thông ngôn ký lục bạc chục không màng
Lấy chồng thợ bạc đeo vàng đỏ tay”
-Tiệm thuốc bắc
Thời xưa ,xa lắc xa lơ,cái thời mà người Nam Kỳ mình còn chưa có khái niệm ”Thuốc Tây” và "Nhà thương" thì bị bịnh toàn uống thuốc bắc,thuốc nam
Thuốc bắc là thuốc từ Tàu đưa qua.Thuốc nam là của Việt Nam ,tất nhiên toàn cây cỏ mà thôi. Các bạn trẻ có chạy ngang Lương Nhữ Học nghe mùi thuốc bắc hăng hắc muốn banh lổ mũi sẽ biết
“Cha con thầy thuốc về làng
Hồi hương ,phụ tử, thì chàng đối chi?
Con vua đi sứ cửa trời
Thiên môn, quân tử, đã tỏ lời chưa em?”
Thuốc bắc thường bán trong tiệm mà cái tên bắt đầu bằng chữ”đường”,ví như :Bạch Ngọc Đường,Nhơn Ngãi Đường
Thuốc bắc hồi xưa là cái nghề làm giàu không thua tiệm vàng.Nghề mua giạ bán phân bán ly ,bán lượng kiểu cân tiểu ly
Lúc này Tây y chưa rộng khắp,người dân Nam Kỳ bịnh là vô tiệm hốt thuốc về uống. Chủ tiệm thuốc bắc phần đông là người Tàu ,miệng xí xồ ,tay cân thuốc mà mình trần trùng trục
Người Nam Kỳ xưa ít kêu tiệm thuốc Tây mà kêu thẳng là “Pharmacie”,bịnh là đi phòng mạch đốc tờ docteur (bác sĩ),mua thuốc vô pharmacie .Cái chữ tiệm thuốc tây cũng thông dụng.Sau có nhà thuốc tây
-Tiệm nhảy
Người Miền Nam kêu vũ trường là tiệm nhảy .Vô nhảy nhót cho vui mà
Sài Gòn ban đêm có rạp chớp bóng và tiệm nhảy sáng đèn
Sài Gòn ban đêm thì không có xứ nào qua được.Sài Gòn đèn đỏ đèn xanh,Sài Gòn gió lộng từ sông Sài Gòn thổi vào và Sài Gòn của những phòng trà vũ trường
Sài Gòn by night ngọc ngà kiêu sa khiến lữ khách khó quên được vì những dạ vũ kéo dài thâu đêm suốt sáng
“Anh sinh ra làm lính chiến
Em trọn kiếp đến vũ trường
Những băn khoăn của lòng anh
Những chua cay của đời em
Chôn vùi vào trong câu hát
Lãng quên theo từng nhịp chân
Thôi thì vì chút tuổi xuân chóng tàn”
Vũ trường ,phòng trà Tự Do góc Tự Do-Thái Lập Thành (Đồng Khởi – Đông Du) giai đoạn 1971 có hai giọng ca thượng hạng Khánh Ly và Lệ Thu
Vậy mà đêm 16 tháng 9 năm 1971 vũ trường này bị VC đặt bom khiến ít nhứt có 4 người chết.
Từ fb Nguyễn Gia Việt.
Sưu tầm.