nungcacsang
Pần cùng đạo tặc
Đế quốc Mông Cổ là một trong những đế quốc hùng mạnh nhất thế giới, những cuộc chinh phục của họ khiến khắp thế giới run sợ. Năm 1279, đại quân Mông Cổ đánh bại nhà Tống, đánh dấu thời kỳ hùng mạnh nhất với phần lãnh thổ trải dài đến 24 triệu km2. Tuy nhiên đế quốc nào rồi cũng có lúc phải lùi vào dòng chảy lịch sử.
Nhà Nguyên cùng ba Hãn Quốc lớn
Do lãnh thổ quá rộng lớn rất khó quản lý, vì thế mà Đế quốc Mông Cổ chia làm 4 Hãn Quốc lớn là:
Hãn Quốc Kim Trướng: Bao gồm các nước như Nga, Ukraina, Moldova, Kazakhstan và hầu hết các nước thuộc Đông âu ngày nay. Khả Hãn đầu tiên là Bạt Đô (con trưởng của Truật Xích, cháu nội của Thành cát Tư Hãn).
Người Nga hay gọi Hãn Quốc này là “Kim Trướng” bởi những người Mông Cổ đến đây thích ở trong lều bạt, chỉ có lều của Khả Hãn mang màu vàng. “Kim Trướng” nghĩa là lều vàng. Người Nga phải đóng thuế cho Kim Trướng Hãn Quốc để nhờ họ chống lại các cuộc cướp phá từ phía tây.
Bản đồ Hãn Quốc Kim Trướng.
Hãn Quốc Sát Hợp Đài: Đây là Hãn Quốc của Sát Hợp Đài – con trai thứ hai của Thành Cát Tư Hãn.
Bản đồ Hãn Quốc Sát Hợp Đài.
Hãn Quốc Oa Khoát Đài: Oa Khoát Đài là con trai thứ 3 và cũng là người kế vị Thành Cát Tư Hãn. Sau này người cháu của ông là Hải Đô thành lập được Hãn Quốc Oa Khoát Đài.
Hãn Quốc Y Nhi: Hãn Quốc này bao gồm các nước Mông Cổ, Iran, Iraq, Afghanistan, Turkmenistan, Armenia, Azerbaijan, Gruzia, Thổ Nhĩ Kỳ, và Pakistan ngày nay.
Bản đồ Hãn Quốc Y Nhi.
Sau này Hãn Quốc Oa Khoát Đài sáp nhập vào Hãn Quốc Sát Hợp Đài, Hải Đô dù không làm Khả Hãn nhưng lại chọn người làm Khả Hãn và cai quản Hãn Quốc này. Lúc này chỉ còn lại 3 Hãn Quốc.
Năm 1271, Đại Hãn Hốt Tất Liệt lập ra triều Nguyên, lấy hiệu là Nguyên Thế Tổ, chuyển Kinh đô đến đóng ở Đại Đô (Bắc Kinh ngày nay).
Năm 1279, đại quân Mông Cổ diệt xong nhà Tống, lãnh thổ rộng đến đỉnh điểm 24 triệu km2, đặt dưới sự quản lý của nhà Nguyên cùng 3 Hãn Quốc lớn.
Tuy nhiên nhà Nguyên cùng 3 Hãn Quốc thường hay mâu thuẫn và đánh lẫn nhau. Trên danh nghĩa thì Nguyên Thế Tổ Hiết Tất Liệt là người nắm quyền lực tối cao, nhưng 3 Hãn Quốc đều không phục.
Cuộc nội chiến
Năm 1285, nhà Nguyên tập trung lương thực và quân đội nhằm tiến đánh Đại Việt Việt ở phía nam, khiến dân chúng phải cống nạp lương thực và làm phu dịch rất vất vả. Cuối năm 1287, quân Nguyên bắt đầu tiến quân, nhưng đến năm 1288 thì đại quân thất trận trở về. Cuộc chiến này khiến nhà Nguyên suy yếu, dân chúng nổi lên, các Hãn Quốc nhân cơ hội cũng tiến quân.
Cháu nội của Đại Hãn Oa Khoát Đài là Hải Đô là người ảnh hưởng đến Hãn Quốc Sát Hợp Đài tấn công nhà Nguyên. Tình thế cấp bách khiến Hốt Tất Liệt phải đích thân cầm quân ra phía bắc cầm cự, cuộc chiến diễn ra nhiều năm khiến Đế quốc Mông Cổ suy yếu.
Hải Đô đưa Đô Oa lên làm Khả Hãn của Sát Hợp Đài, rồi thường đưa quân tiến đánh Hãn Quốc Y Nhi.
Bức họa Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt vào năm 1294.
Năm 1294, Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt mất, Hải Đô nhân cơ hội này đem quân Hãn Quốc Sát Hợp Đài tấn công. Nguyên Thành Tông nối ngôi đưa quân chống lại, cuộc chiến diễn ra nhiều năm. Đến năm 1300, Nguyên Thành Tông đưa quân tấn cống. Năm 1301, quân Nguyên tiến vào Cáp Lạp Hòa Lâm (Kinh đỗ cũ của Mông Cổ), Hải Đô thua trận và qua đời sau đó. Đô Oa phải đầu hàng, xin quy thuận và triều cống cho nhà Nguyên.
Năm 1304, con trai của Hải Đô, Hãn Quốc của Sát Hợp Đài là Đô Oa cùng các Hãn Quốc Kim Trướng và Y Nhi đồng lòng dâng thư lên Nguyên Thành Tông, dẹp bỏ hết mọi mâu thuẫn cùng hiềm khích trước đây, cùng tôn Nguyên Thành Tông là Chúa tể tối cao, cùng chung hưởng hòa bình và thiết lập bang giao.
Nguyên Thành Tông.
Đáp lại, Nguyên Thành Tông cho rằng tất cả đều là hậu duệ của Thành Cát Tư Hãn và là huynh đệ của nhau, tránh đánh phá lẫn nhau vì sẽ tự làm suy yếu, đồng ý quan hệ giao hảo.
Bị đồng hóa theo người bản địa
Dù Đế quốc Mông Cổ không còn mâu thuẫn đánh nhau, nhưng vẫn dần suy yếu do văn hóa. Các dân tộc bản địa bị xâm chiếm vẫn giữ được bản sắc văn hóa của dân tộc mình, khiến người Mông Cổ nơi đây dần bị đồng hóa theo dân tộc của người bản địa.
Nhà Nguyên ở Trung Hoa bị Hán hóa, Hãn Quốc Y Nhi bị Hồi giáo hóa, Hãn Quốc Sát Hợp Đài bị dân bản địa Turk (bao gồm người Kazakh, Uzbek, Kyrgyz, Uyghur, Azerbaijan, Turkmen, Tatar, Qashkai, Bashkir, Chuvash, Afshar và Thổ Nhĩ Kỳ) đồng hóa.
Từ năm 1295, những người cai trị ở Hãn Quốc Y Nhi đều theo tín ngưỡng Hồi giáo. Người Mông Cổ ở Hãn Quốc Sát Hợp Đài dần bị Turk hóa, quân đội có hàng chục vạn nhưng toàn người bản địa. Hãn Quốc Kim Trướng sang thế kỷ 14 thì công nhận Hồi giáo là quốc giáo.
Sự thay đổi rất nhanh về văn hóa dẫn đến các mâu thuẫn và xung đột về kinh tế và chính trị, các Hãn cai trị vì xung đột lợi ích nên thường đánh lẫn nhau khiến suy yếu. Quyền lực của tầng lớp cai trị Mông Cổ suy giảm cũng là lúc người bản địa nổi lên, họ lợi dụng sự mẫu thuẫn giữa các Hãn để làm giảm dần thế lực của người Mông Cổ.
Người bản địa giành quyền tự trị
Tại Hãn Quốc Sát Hợp Đài, năm 1346, một Tù trưởng địa phương đã nổi dậy giết chết Đại hãn Hợp Tán. Các Bộ lạc bản địa nắm quyền quản lý đất nước mình ở phía tây Hãn Quốc là Transoxiana (thuộc Uzbekistan, Tajikistan, miền nam Kyrgyzstan và tây nam Kazakhstan ngày nay). Tuy nhiên các bộ lạc có mối liên minh lỏng lẻo nên đã quyết định để hậu duệ của Thành Cát Tư Hãn ngồi trên ngai vàng nhưng chỉ là bù nhìn.
Năm 1358, Thốc Hốt Lỗ từ phía đông tấn công sang phía tây Hãn Quốc nhằm duy trì lại trật tự như cũ. Các thủ lĩnh người Turk run sợ vội cử Thiếp Mộc Nhi (Timur) đến gặp Thốc Hốt Lỗ bang giao để tránh cuộc chiến. Thiếp Mộc Nhi là Tộc trưởng Barlas, được chọn vì ông xưng là hậu duệ Thành Cát Tư Hãn, nhưng trong gia phả cho thấy ông xuất thân gần với dân Thổ (Turk) hơn.
Thiếp Mộc Nhi đến gặp Thốc Hốt Lỗ rồi kết đồng minh, cùng đưa quân tấn công vào miền tây. Nhờ được lòng dân chúng và giới quý tộc, dần dần quân của Thiếp Mộc Nhi ngày càng mạnh và làm chủ được vùng đất phía tây Transoxiana của Hãn Quốc Sát Hợp Đài.
Một bộ phận người Mông Cổ chạy sang phía đông lập ra Hãn quốc Đông Sát Hợp Đài (Mughalistan), đưa quân giáo chiến với quân ở phía tây Transoxiana nhưng đều bị đánh bại.
Năm 1340 thì dịch bệnh “cái chết đen” bắt đầu xuất hiện, sau đó bao phủ khắp Hãn Quốc Kim Trướng. Việc giao thương bị đình trệ, người Nga không kham nổi các khoản thuế liền liên kết cùng chống lại Mông Cổ. Cùng lúc đó hãn Jani Beg bị ám sát khiến Hãn Quốc này rơi vào cuộc chiến quyền lực kéo dài, đỉnh cao có thời kỳ mỗi năm có một vị xưng Hãn.
Các Công quốc Nga cùng liên minh chống lại Mông Cổ, không chịu đóng thuế như trước. Quân Mông Cổ liền tiến đánh, trận đánh lớn nhất là trận Kulikovo năm 1380 giữa 5 vạn quân Nga và 10 vạn quân Mông Cổ cùng chư hầu. Ban đầu quân Mông Cổ ở thế chủ động tấn công và khả năng vượt qua được quân Nga. Tuy nhiên quân Nga đã chuẩn bị từ trước đội quân bổ sung vào phút cuối, khiến quân Mông Cổ bị bất ngờ.
Kết quả quân Mông Cổ thảm bại, gần như bị tiêu diệt hoàn toàn, phía Nga có 2 vạn quân tử trận. Đây là chiến thắng lớn đầu tiên của người Nga trước sự cai trị của Mông Cổ, là một trong những chiến thắng quan trọng nhất của nước Nga và được xem là trận đánh “khai sinh nước Nga”.
Trận Kulikovo giữa quân Nga và quân Mông Cổ diễn ra ở phía tây (tức Bạch Trướng Hãn Quốc), còn phía đông (Thanh Trướng Hãn Quốc) không bị ảnh hưởng.
Năm 1368, người Hán đã đánh bại nhà Nguyên, Chu Nguyên Chương lên ngôi Vua, lập ra nhà Minh. Còn nhà Nguyên sau khi thua trận rút về Mông Cổ lập ra nhà Bắc Nguyên. Đế quốc Mông Cổ còn lại nhà Bắc Nguyên cùng 3 Hãn Quốc lớn.
Thống nhất hai miền Hãn Quốc Kim Trướng
Lúc này ở Thanh Trướng Hãn Quốc có Thoát Thoát Mê Thất vốn là dòng của Truật Xích (con trưởng Thành Cát Tư Hãn) không phục tùng Hãn của Thanh Trướng liền đưa quân tiến đánh. Nhưng quân của Thoát Thoát Mê Thất nhiều lần thất bại phải bỏ chạy sang phía tây Transoxiana của Hãn Quốc Sát Hợp Đài, nương nhờ Thiếp Mộc Nhi.
Thiếp Mộc Nhi tra gia phả thì thấy Thoát Thoát Mê Thất đúng là hậu duệ Thành Cát Tư Hãn, liền giúp đỡ xây dựng quân đội. Năm 1379, Thát Thoát Mê Thất đưa quân tiến đánh Thanh Trướng Hãn Quốc, tiến quân vào Kinh đô Sarai, làm chủ được Thanh Trướng Hãn Quốc.
Năm 1380 xảy ra cuộc chiến ở cánh đồng Kulikovo, các Công quốc Nga đánh bại đại quân Mông Cổ. Lợi dụng lúc đó Thoát Thoát Mê Thất đưa quân vượt sông Volga tiến sang Bạch Trướng Hãn Quốc đánh bại quân Nga, thống nhất được hai miền đông – tây cũa Hãn Quốc Kim Trướng. Người Nga phải đầu hàng và chịu cống nạp.
Hãn quốc Y Nhi suy yếu
Hãn Quốc Y Nhi rất rộng lớn, vùng đất trải khắp vùng Tây á gồm Pakistan, Afghanistan, Iran, Iraq, Syria và một phần Tân Cương ngày nay.
Năm 1335, Đại Hãn ở Y Nhi mất nhưng không có con nối dõi, quan Tể tướng đưa Dã Xưng Vi lên nối ngôi. Tuy nhiên Dã Xưng Vi không nhiệt tình với Đạo Hồi, vì thế mà cả người Ba Tư, người Thổ và người Mông Cổ đều không phục tùng Hãn mới. Nội chiến nổ ra liên miên, Hãn Quốc Y Nhi phân thành 6 nước nhỏ hơn.
Lợi dụng tình thế này, năm 1381, Thiếp Mộc Nhi đưa quân Hãn Quốc Sát Hợp Đài tấn công Hãn Quốc Y Nhi ở vùng đất thuộc Ba Tư bấy giờ. Đến năm 1385 thì Thiếp Mộc Nhi làm chủ vùng đất phía đông Ba Tư.
Thấy thế năm 1385, Thoát Thoát Mê Thất vội đưa quân Hãn Quốc Kim Trướng tấn công vào Hãn Quốc Y Nhi, đánh chiếm thành phố Tabriz (thành phố lớn của Iran ngày nay) thu được rất nhiều chiến lợi phẩm cùng nô lệ.
Cuộc chiến giữa Thoát Thoát Mê Thất và Thiếp Mộc Nhi
Thấy quân Kim Trướng lợi dụng mình đánh Y Nhi để thu lợi, Thiếp Mộc Nhi gửi thư cho Thoát Thoát Mê Thất yêu cầu quân Kim Trướng dừng lại, nhưng không có hồi âm.
Năm 1386, Thiếp Mộc Nhi đưa quân đến Azerbaijan trú đông thì bất ngờ gặp quân của Hãn Quốc Kim Trướng. Bị đánh bất ngờ nhưng quân Hãn Quốc Sát Hợp Đài không rối loạn mà kiên cường chống đỡ, 40 vị tướng chỉ huy tử trận. Khi Thiếp Mộc Nhi lâm nguy thì con trai ông là Miran Shah kịp thời đưa quân đến giải vây. Quân Sát Hợp Đài đuổi quân Kim Trướng tận đến biên giới. Thiếp Mộc Nhi bắt được nhiều tù binh, nhưng ông đối đãi tử tế, cho ăn uống rồi tiễn về nước.
Chân dung Thiếp Mộc Nhi (Timur) mô phỏng từ xương sọ.
Sau đó từ năm 1388 đến 1899, quân Kim Trướng 3 lần đưa quân tiến đánh quân của Hãn Quốc Sát Hợp Đài ở Hãn Quốc Y Nhi. Năm 1391 diễn ra trận đánh lớn ở sông Kondurcha, quân Kim Trướng tấn công vào hai cánh quân Sát Hợp Đài nhưng họ vẫn vững vàng. Sau khi chặn đứng quân Kim Trướng ở hai cánh, Thiếp Mộc Nhi mới cho trung quân tấn công thẳng vào trung tâm chỉ huy quân của Kim Trướng. Quân Kim Trướng dù rất tinh nhuệ nhưng vẫn nhận thất bại, Thoát Thoát Mê Thất phải đưa quân bỏ chạy.
Thiếp Mộc Nhi đưa quân tiến vào Hãn Quốc Kim Trướng, hướng đến Moskva. Tuy nhiên khi gần đến sông sông Oka thì quyết định rút lui vì Thoát Thoát Mê Thất đang làm chủ phía nam, nên ông không muốn mạo hiểm giao chiến với người Nga. Trước khi rút đi, Thiếp Mộc Nhi đưa Hốt Cách Lỗ Đặc làm Đại Hãn (bù nhìn) của Hãn Quốc Kim Trướng.
Năm 1395, Thiếp Mộc Nhi đưa quân vào Hãn Quốc Kim Trướng giao chiến với quân của Thoát Thoát Mê Thất. Trận đánh quyết định diễn ra ở sông Terek. Sau 2 ngày giao chiến, quân của Thiếp Mộc Nhi lại giành được thắng lợi. Quân Sát Hợp Đài truy đuổi khiến Thoát Thoát Mê Thất phải chạy dài.
Thiếp Mộc Nhi đưa quân tiêu diệt các Hãn vẫn còn trung thành với Thoát Thoát Mê Thất, đánh chiếm các thành phố rồi tiến về phía Moskva.
Trước sức mạnh của quân Mông Cổ, người Nga hoảng loạn, đội quân của họ không thể chống nổi đội quân Mông Cổ thiện chiến. Các giáo sĩ đã mang biểu tượng Đức Mẹ Vladimir đến Moskva để ban phước cho các chiến binh trong đoàn quân, dọc đường đi, dân chúng Nga quỳ gối bên đường: “Lạy Mẹ Thiên Chúa, xin cứu lấy nước Nga!”.
Đột nhiên, đội quân Mông Cổ bỗng quay lại rút đi vào ngày 26/8/1395 trong sự hân hoan của người Nga. Có nhiều lý giải cho việc quân Mông Cổ rút đi như họ đã cướp được rất nhiều của cải, nô lệ bị bắt đi theo cũng nhiều đến mức không quản lý nổi… vì thế mà không có lý do gì đến Moskva nữa, nhưng phải chăng lời cầu nguyện của người Nga đã có tác dụng?
Thiếp Mộc Nhi – Kẻ chinh phục vĩ đại
Thiếp Mộc Nhi đưa quân đánh chiếm Hãn Quốc Y Nhi ở vùng đất thuộc Ba Tư ngày nay, sau đó chiếm giữ Moskva 1 năm, rồi đưa quân chinh phục khắp châu Âu, châu Á, trở thành người chinh phục vĩ đại nhất vào lúc đó.
Lúc này nhà Minh đuổi người Mông Cổ ra khỏi đất nước khiến Thiếp Mộc Nhi không chấp nhận được. Tuy nhiên ông đang bận các cuộc chinh phục khắp nơi trong đó có Ấn Độ. Đến năm 1404, Thiếp Mộc Nhi liên minh cùng Bắc Nguyên đưa quân tấn công nhà Minh.
Tháng 12/1404, Thiếp Mộc Nhi thống lĩnh 20 vạn quân tiến đánh. Tuy nhiên con đường đến Trung Quốc khá xa, thời tiết khắc nghiệt khiến quân Mông Cổ phải dừng lại ở Kazakhstan, trải qua một mùa đông khắc nghiệt nhất trong lịch sử ở nơi đây.
Đầu năm 1405, Thiếp Mộc Nhi bị cảm lạnh và mất vào tháng 2/1405. Cuộc tiến binh phải hủy bỏ. Thi hài của ông được đưa về Samarkand, ông được xây lăng với tấm bia: “Đây là nơi nghỉ ngơi của một vị vua hùng mạnh và vĩ đại, vị vua vĩ đại nhất, chiến binh hùng mạnh nhất, Chúa Timur (Thiếp Mộc Nhi), Đấng Chiến thắng của Thế giới”.
Lăng mộ của Thiếp Mộc Nhi (Timur) nằm ở Samarkand, Uzbekistan.
Nhà Nguyên cùng ba Hãn Quốc lớn
Do lãnh thổ quá rộng lớn rất khó quản lý, vì thế mà Đế quốc Mông Cổ chia làm 4 Hãn Quốc lớn là:
Hãn Quốc Kim Trướng: Bao gồm các nước như Nga, Ukraina, Moldova, Kazakhstan và hầu hết các nước thuộc Đông âu ngày nay. Khả Hãn đầu tiên là Bạt Đô (con trưởng của Truật Xích, cháu nội của Thành cát Tư Hãn).
Người Nga hay gọi Hãn Quốc này là “Kim Trướng” bởi những người Mông Cổ đến đây thích ở trong lều bạt, chỉ có lều của Khả Hãn mang màu vàng. “Kim Trướng” nghĩa là lều vàng. Người Nga phải đóng thuế cho Kim Trướng Hãn Quốc để nhờ họ chống lại các cuộc cướp phá từ phía tây.

Bản đồ Hãn Quốc Kim Trướng.
Hãn Quốc Sát Hợp Đài: Đây là Hãn Quốc của Sát Hợp Đài – con trai thứ hai của Thành Cát Tư Hãn.

Bản đồ Hãn Quốc Sát Hợp Đài.
Hãn Quốc Oa Khoát Đài: Oa Khoát Đài là con trai thứ 3 và cũng là người kế vị Thành Cát Tư Hãn. Sau này người cháu của ông là Hải Đô thành lập được Hãn Quốc Oa Khoát Đài.
Hãn Quốc Y Nhi: Hãn Quốc này bao gồm các nước Mông Cổ, Iran, Iraq, Afghanistan, Turkmenistan, Armenia, Azerbaijan, Gruzia, Thổ Nhĩ Kỳ, và Pakistan ngày nay.

Bản đồ Hãn Quốc Y Nhi.
Sau này Hãn Quốc Oa Khoát Đài sáp nhập vào Hãn Quốc Sát Hợp Đài, Hải Đô dù không làm Khả Hãn nhưng lại chọn người làm Khả Hãn và cai quản Hãn Quốc này. Lúc này chỉ còn lại 3 Hãn Quốc.
Năm 1271, Đại Hãn Hốt Tất Liệt lập ra triều Nguyên, lấy hiệu là Nguyên Thế Tổ, chuyển Kinh đô đến đóng ở Đại Đô (Bắc Kinh ngày nay).
Năm 1279, đại quân Mông Cổ diệt xong nhà Tống, lãnh thổ rộng đến đỉnh điểm 24 triệu km2, đặt dưới sự quản lý của nhà Nguyên cùng 3 Hãn Quốc lớn.
Tuy nhiên nhà Nguyên cùng 3 Hãn Quốc thường hay mâu thuẫn và đánh lẫn nhau. Trên danh nghĩa thì Nguyên Thế Tổ Hiết Tất Liệt là người nắm quyền lực tối cao, nhưng 3 Hãn Quốc đều không phục.
Cuộc nội chiến
Năm 1285, nhà Nguyên tập trung lương thực và quân đội nhằm tiến đánh Đại Việt Việt ở phía nam, khiến dân chúng phải cống nạp lương thực và làm phu dịch rất vất vả. Cuối năm 1287, quân Nguyên bắt đầu tiến quân, nhưng đến năm 1288 thì đại quân thất trận trở về. Cuộc chiến này khiến nhà Nguyên suy yếu, dân chúng nổi lên, các Hãn Quốc nhân cơ hội cũng tiến quân.
Cháu nội của Đại Hãn Oa Khoát Đài là Hải Đô là người ảnh hưởng đến Hãn Quốc Sát Hợp Đài tấn công nhà Nguyên. Tình thế cấp bách khiến Hốt Tất Liệt phải đích thân cầm quân ra phía bắc cầm cự, cuộc chiến diễn ra nhiều năm khiến Đế quốc Mông Cổ suy yếu.
Hải Đô đưa Đô Oa lên làm Khả Hãn của Sát Hợp Đài, rồi thường đưa quân tiến đánh Hãn Quốc Y Nhi.

Bức họa Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt vào năm 1294.
Năm 1294, Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt mất, Hải Đô nhân cơ hội này đem quân Hãn Quốc Sát Hợp Đài tấn công. Nguyên Thành Tông nối ngôi đưa quân chống lại, cuộc chiến diễn ra nhiều năm. Đến năm 1300, Nguyên Thành Tông đưa quân tấn cống. Năm 1301, quân Nguyên tiến vào Cáp Lạp Hòa Lâm (Kinh đỗ cũ của Mông Cổ), Hải Đô thua trận và qua đời sau đó. Đô Oa phải đầu hàng, xin quy thuận và triều cống cho nhà Nguyên.
Năm 1304, con trai của Hải Đô, Hãn Quốc của Sát Hợp Đài là Đô Oa cùng các Hãn Quốc Kim Trướng và Y Nhi đồng lòng dâng thư lên Nguyên Thành Tông, dẹp bỏ hết mọi mâu thuẫn cùng hiềm khích trước đây, cùng tôn Nguyên Thành Tông là Chúa tể tối cao, cùng chung hưởng hòa bình và thiết lập bang giao.

Nguyên Thành Tông.
Đáp lại, Nguyên Thành Tông cho rằng tất cả đều là hậu duệ của Thành Cát Tư Hãn và là huynh đệ của nhau, tránh đánh phá lẫn nhau vì sẽ tự làm suy yếu, đồng ý quan hệ giao hảo.
Bị đồng hóa theo người bản địa
Dù Đế quốc Mông Cổ không còn mâu thuẫn đánh nhau, nhưng vẫn dần suy yếu do văn hóa. Các dân tộc bản địa bị xâm chiếm vẫn giữ được bản sắc văn hóa của dân tộc mình, khiến người Mông Cổ nơi đây dần bị đồng hóa theo dân tộc của người bản địa.
Nhà Nguyên ở Trung Hoa bị Hán hóa, Hãn Quốc Y Nhi bị Hồi giáo hóa, Hãn Quốc Sát Hợp Đài bị dân bản địa Turk (bao gồm người Kazakh, Uzbek, Kyrgyz, Uyghur, Azerbaijan, Turkmen, Tatar, Qashkai, Bashkir, Chuvash, Afshar và Thổ Nhĩ Kỳ) đồng hóa.
Từ năm 1295, những người cai trị ở Hãn Quốc Y Nhi đều theo tín ngưỡng Hồi giáo. Người Mông Cổ ở Hãn Quốc Sát Hợp Đài dần bị Turk hóa, quân đội có hàng chục vạn nhưng toàn người bản địa. Hãn Quốc Kim Trướng sang thế kỷ 14 thì công nhận Hồi giáo là quốc giáo.
Sự thay đổi rất nhanh về văn hóa dẫn đến các mâu thuẫn và xung đột về kinh tế và chính trị, các Hãn cai trị vì xung đột lợi ích nên thường đánh lẫn nhau khiến suy yếu. Quyền lực của tầng lớp cai trị Mông Cổ suy giảm cũng là lúc người bản địa nổi lên, họ lợi dụng sự mẫu thuẫn giữa các Hãn để làm giảm dần thế lực của người Mông Cổ.
Người bản địa giành quyền tự trị
Tại Hãn Quốc Sát Hợp Đài, năm 1346, một Tù trưởng địa phương đã nổi dậy giết chết Đại hãn Hợp Tán. Các Bộ lạc bản địa nắm quyền quản lý đất nước mình ở phía tây Hãn Quốc là Transoxiana (thuộc Uzbekistan, Tajikistan, miền nam Kyrgyzstan và tây nam Kazakhstan ngày nay). Tuy nhiên các bộ lạc có mối liên minh lỏng lẻo nên đã quyết định để hậu duệ của Thành Cát Tư Hãn ngồi trên ngai vàng nhưng chỉ là bù nhìn.
Năm 1358, Thốc Hốt Lỗ từ phía đông tấn công sang phía tây Hãn Quốc nhằm duy trì lại trật tự như cũ. Các thủ lĩnh người Turk run sợ vội cử Thiếp Mộc Nhi (Timur) đến gặp Thốc Hốt Lỗ bang giao để tránh cuộc chiến. Thiếp Mộc Nhi là Tộc trưởng Barlas, được chọn vì ông xưng là hậu duệ Thành Cát Tư Hãn, nhưng trong gia phả cho thấy ông xuất thân gần với dân Thổ (Turk) hơn.
Thiếp Mộc Nhi đến gặp Thốc Hốt Lỗ rồi kết đồng minh, cùng đưa quân tấn công vào miền tây. Nhờ được lòng dân chúng và giới quý tộc, dần dần quân của Thiếp Mộc Nhi ngày càng mạnh và làm chủ được vùng đất phía tây Transoxiana của Hãn Quốc Sát Hợp Đài.
Một bộ phận người Mông Cổ chạy sang phía đông lập ra Hãn quốc Đông Sát Hợp Đài (Mughalistan), đưa quân giáo chiến với quân ở phía tây Transoxiana nhưng đều bị đánh bại.
Năm 1340 thì dịch bệnh “cái chết đen” bắt đầu xuất hiện, sau đó bao phủ khắp Hãn Quốc Kim Trướng. Việc giao thương bị đình trệ, người Nga không kham nổi các khoản thuế liền liên kết cùng chống lại Mông Cổ. Cùng lúc đó hãn Jani Beg bị ám sát khiến Hãn Quốc này rơi vào cuộc chiến quyền lực kéo dài, đỉnh cao có thời kỳ mỗi năm có một vị xưng Hãn.
Các Công quốc Nga cùng liên minh chống lại Mông Cổ, không chịu đóng thuế như trước. Quân Mông Cổ liền tiến đánh, trận đánh lớn nhất là trận Kulikovo năm 1380 giữa 5 vạn quân Nga và 10 vạn quân Mông Cổ cùng chư hầu. Ban đầu quân Mông Cổ ở thế chủ động tấn công và khả năng vượt qua được quân Nga. Tuy nhiên quân Nga đã chuẩn bị từ trước đội quân bổ sung vào phút cuối, khiến quân Mông Cổ bị bất ngờ.
Kết quả quân Mông Cổ thảm bại, gần như bị tiêu diệt hoàn toàn, phía Nga có 2 vạn quân tử trận. Đây là chiến thắng lớn đầu tiên của người Nga trước sự cai trị của Mông Cổ, là một trong những chiến thắng quan trọng nhất của nước Nga và được xem là trận đánh “khai sinh nước Nga”.
Trận Kulikovo giữa quân Nga và quân Mông Cổ diễn ra ở phía tây (tức Bạch Trướng Hãn Quốc), còn phía đông (Thanh Trướng Hãn Quốc) không bị ảnh hưởng.
Năm 1368, người Hán đã đánh bại nhà Nguyên, Chu Nguyên Chương lên ngôi Vua, lập ra nhà Minh. Còn nhà Nguyên sau khi thua trận rút về Mông Cổ lập ra nhà Bắc Nguyên. Đế quốc Mông Cổ còn lại nhà Bắc Nguyên cùng 3 Hãn Quốc lớn.
Thống nhất hai miền Hãn Quốc Kim Trướng
Lúc này ở Thanh Trướng Hãn Quốc có Thoát Thoát Mê Thất vốn là dòng của Truật Xích (con trưởng Thành Cát Tư Hãn) không phục tùng Hãn của Thanh Trướng liền đưa quân tiến đánh. Nhưng quân của Thoát Thoát Mê Thất nhiều lần thất bại phải bỏ chạy sang phía tây Transoxiana của Hãn Quốc Sát Hợp Đài, nương nhờ Thiếp Mộc Nhi.
Thiếp Mộc Nhi tra gia phả thì thấy Thoát Thoát Mê Thất đúng là hậu duệ Thành Cát Tư Hãn, liền giúp đỡ xây dựng quân đội. Năm 1379, Thát Thoát Mê Thất đưa quân tiến đánh Thanh Trướng Hãn Quốc, tiến quân vào Kinh đô Sarai, làm chủ được Thanh Trướng Hãn Quốc.
Năm 1380 xảy ra cuộc chiến ở cánh đồng Kulikovo, các Công quốc Nga đánh bại đại quân Mông Cổ. Lợi dụng lúc đó Thoát Thoát Mê Thất đưa quân vượt sông Volga tiến sang Bạch Trướng Hãn Quốc đánh bại quân Nga, thống nhất được hai miền đông – tây cũa Hãn Quốc Kim Trướng. Người Nga phải đầu hàng và chịu cống nạp.
Hãn quốc Y Nhi suy yếu
Hãn Quốc Y Nhi rất rộng lớn, vùng đất trải khắp vùng Tây á gồm Pakistan, Afghanistan, Iran, Iraq, Syria và một phần Tân Cương ngày nay.
Năm 1335, Đại Hãn ở Y Nhi mất nhưng không có con nối dõi, quan Tể tướng đưa Dã Xưng Vi lên nối ngôi. Tuy nhiên Dã Xưng Vi không nhiệt tình với Đạo Hồi, vì thế mà cả người Ba Tư, người Thổ và người Mông Cổ đều không phục tùng Hãn mới. Nội chiến nổ ra liên miên, Hãn Quốc Y Nhi phân thành 6 nước nhỏ hơn.
Lợi dụng tình thế này, năm 1381, Thiếp Mộc Nhi đưa quân Hãn Quốc Sát Hợp Đài tấn công Hãn Quốc Y Nhi ở vùng đất thuộc Ba Tư bấy giờ. Đến năm 1385 thì Thiếp Mộc Nhi làm chủ vùng đất phía đông Ba Tư.
Thấy thế năm 1385, Thoát Thoát Mê Thất vội đưa quân Hãn Quốc Kim Trướng tấn công vào Hãn Quốc Y Nhi, đánh chiếm thành phố Tabriz (thành phố lớn của Iran ngày nay) thu được rất nhiều chiến lợi phẩm cùng nô lệ.
Cuộc chiến giữa Thoát Thoát Mê Thất và Thiếp Mộc Nhi
Thấy quân Kim Trướng lợi dụng mình đánh Y Nhi để thu lợi, Thiếp Mộc Nhi gửi thư cho Thoát Thoát Mê Thất yêu cầu quân Kim Trướng dừng lại, nhưng không có hồi âm.
Năm 1386, Thiếp Mộc Nhi đưa quân đến Azerbaijan trú đông thì bất ngờ gặp quân của Hãn Quốc Kim Trướng. Bị đánh bất ngờ nhưng quân Hãn Quốc Sát Hợp Đài không rối loạn mà kiên cường chống đỡ, 40 vị tướng chỉ huy tử trận. Khi Thiếp Mộc Nhi lâm nguy thì con trai ông là Miran Shah kịp thời đưa quân đến giải vây. Quân Sát Hợp Đài đuổi quân Kim Trướng tận đến biên giới. Thiếp Mộc Nhi bắt được nhiều tù binh, nhưng ông đối đãi tử tế, cho ăn uống rồi tiễn về nước.

Chân dung Thiếp Mộc Nhi (Timur) mô phỏng từ xương sọ.
Sau đó từ năm 1388 đến 1899, quân Kim Trướng 3 lần đưa quân tiến đánh quân của Hãn Quốc Sát Hợp Đài ở Hãn Quốc Y Nhi. Năm 1391 diễn ra trận đánh lớn ở sông Kondurcha, quân Kim Trướng tấn công vào hai cánh quân Sát Hợp Đài nhưng họ vẫn vững vàng. Sau khi chặn đứng quân Kim Trướng ở hai cánh, Thiếp Mộc Nhi mới cho trung quân tấn công thẳng vào trung tâm chỉ huy quân của Kim Trướng. Quân Kim Trướng dù rất tinh nhuệ nhưng vẫn nhận thất bại, Thoát Thoát Mê Thất phải đưa quân bỏ chạy.
Thiếp Mộc Nhi đưa quân tiến vào Hãn Quốc Kim Trướng, hướng đến Moskva. Tuy nhiên khi gần đến sông sông Oka thì quyết định rút lui vì Thoát Thoát Mê Thất đang làm chủ phía nam, nên ông không muốn mạo hiểm giao chiến với người Nga. Trước khi rút đi, Thiếp Mộc Nhi đưa Hốt Cách Lỗ Đặc làm Đại Hãn (bù nhìn) của Hãn Quốc Kim Trướng.
Năm 1395, Thiếp Mộc Nhi đưa quân vào Hãn Quốc Kim Trướng giao chiến với quân của Thoát Thoát Mê Thất. Trận đánh quyết định diễn ra ở sông Terek. Sau 2 ngày giao chiến, quân của Thiếp Mộc Nhi lại giành được thắng lợi. Quân Sát Hợp Đài truy đuổi khiến Thoát Thoát Mê Thất phải chạy dài.
Thiếp Mộc Nhi đưa quân tiêu diệt các Hãn vẫn còn trung thành với Thoát Thoát Mê Thất, đánh chiếm các thành phố rồi tiến về phía Moskva.
Trước sức mạnh của quân Mông Cổ, người Nga hoảng loạn, đội quân của họ không thể chống nổi đội quân Mông Cổ thiện chiến. Các giáo sĩ đã mang biểu tượng Đức Mẹ Vladimir đến Moskva để ban phước cho các chiến binh trong đoàn quân, dọc đường đi, dân chúng Nga quỳ gối bên đường: “Lạy Mẹ Thiên Chúa, xin cứu lấy nước Nga!”.
Đột nhiên, đội quân Mông Cổ bỗng quay lại rút đi vào ngày 26/8/1395 trong sự hân hoan của người Nga. Có nhiều lý giải cho việc quân Mông Cổ rút đi như họ đã cướp được rất nhiều của cải, nô lệ bị bắt đi theo cũng nhiều đến mức không quản lý nổi… vì thế mà không có lý do gì đến Moskva nữa, nhưng phải chăng lời cầu nguyện của người Nga đã có tác dụng?
Thiếp Mộc Nhi – Kẻ chinh phục vĩ đại
Thiếp Mộc Nhi đưa quân đánh chiếm Hãn Quốc Y Nhi ở vùng đất thuộc Ba Tư ngày nay, sau đó chiếm giữ Moskva 1 năm, rồi đưa quân chinh phục khắp châu Âu, châu Á, trở thành người chinh phục vĩ đại nhất vào lúc đó.
Lúc này nhà Minh đuổi người Mông Cổ ra khỏi đất nước khiến Thiếp Mộc Nhi không chấp nhận được. Tuy nhiên ông đang bận các cuộc chinh phục khắp nơi trong đó có Ấn Độ. Đến năm 1404, Thiếp Mộc Nhi liên minh cùng Bắc Nguyên đưa quân tấn công nhà Minh.
Tháng 12/1404, Thiếp Mộc Nhi thống lĩnh 20 vạn quân tiến đánh. Tuy nhiên con đường đến Trung Quốc khá xa, thời tiết khắc nghiệt khiến quân Mông Cổ phải dừng lại ở Kazakhstan, trải qua một mùa đông khắc nghiệt nhất trong lịch sử ở nơi đây.
Đầu năm 1405, Thiếp Mộc Nhi bị cảm lạnh và mất vào tháng 2/1405. Cuộc tiến binh phải hủy bỏ. Thi hài của ông được đưa về Samarkand, ông được xây lăng với tấm bia: “Đây là nơi nghỉ ngơi của một vị vua hùng mạnh và vĩ đại, vị vua vĩ đại nhất, chiến binh hùng mạnh nhất, Chúa Timur (Thiếp Mộc Nhi), Đấng Chiến thắng của Thế giới”.

Lăng mộ của Thiếp Mộc Nhi (Timur) nằm ở Samarkand, Uzbekistan.