Giải ảo một số câu chuyện của lịch sử Việt Nam: Lê Văn Thịnh và câu chuyện hóa hổ âm mưu ám sát vua Lý Nhân Tông

Cuộc chiến Đại Việt Chiêm Thành thời Lý Thánh Tông
Sau khi Lê Hoàn mở cuộc nam chinh lần đầu tiên trong lịch sử thì Chiêm Thành xác nhận là chư hầu của Đại Việt
Hàng năm đều triều cống suốt đời Lê Hoàn và Lý Thái Tổ
Khi Thái Tông lên Chăm có 16 năm không triều cống từ 1028 đến 1044 chính vì lý do này Lý Thái Tông tiến hành chinh phạt và giết vua Chiêm bắt Mỵ Ê là vợ vua Chiêm về khiến bà phải tự sát.
Sang đời Thánh Tông vua Chiêm Thành có 4 năm không triều cống và đây là lý do Lý Thánh Tông chinh phạt Chiêm Thành
vua Lý dâng biểu sang vua Tống nói rằng : ” Chiêm-thành đã lâu không tới cống, tôi tự đem quân sang đánh, bắt được chúa nó về ” (TS 488). Hai tài liệu xưa ấy chứng rằng trong bốn năm (1065-1069) Chiêm-thành không tới cống vua Lý, và ta vin vào cớ này để đánh nước ấy.
 
Nguyên nhân sự chiến tranh Chiêm-Việt là sâu xa hơn, chứ không phải vì cớ trên mà thôi.

Một mặt, Lý Thánh-Tông là vua ta đầu tiên có óc lập một đế quốc, có danh ngang với một nước thiên tử. Vua đặt quốc hiệu Đại-Việt (1054), tôn các vua trước là Thái-Tổ, Thái-Tông, (TS 488 và LNDV 2), coi các nước nhỏ là chư hầu, và muốn ngăn cấm Chiêm-thành thần phục Tống.

Một mặt, Chiêm-thành trước bị Lý Thái-Tông đánh phá kinh đô, giết chúa, bắt dân, tự nhiên đã trở nên thâm thù với ta. Chiêm-thành lẩn lút sang thần phục Tống và tìm cách dựa thế Tống để trả thù ta. Năm Tống Hoàng-Hựu thứ 7 (1035), Quảng-tây an-vũ-sứ tâu rằng : ” Chiêm-thành vốn không hay tập binh. Ở gần Giao-chỉ, thường hay bị lấn. Nay Chiêm-thành soạn sửa quân bị đe åchống Giao-chỉ ” (TS 489)

Từ lúc Rudravarman III, mà sử ta gọi Chế-Củ, (TT) hay là Đệ-Củ (VSL), lên ngôi vào khoảng cuối năm 1061, chí báo thù của Chiêm lại càng mạnh. TS 489 chép rằng ” vừa mới lên ngôi, Dang-pu-sơ-li Lu-đa-ban-ma-đê-ba (Yan Pu Cri Rudravarmandra, theo Le Royaume du Champa của Maspéro) tổ chức vũ bị, luyện tập binh lính. Lại sai sứ sang Tống cống phương vật và xin mua ngựa. Vua Tống ban cho một con ngựa bạch và cho phép mua lừa ở Quảng-châu “.


Xem thế thì ta cũng không lấy gì làm lạ rằng Rudravarman III không chịu cống vua Lý nữa, và vua Lý Thánh-Tông nhân đó đánh Chiêm-thành. Xét chính sách triều Lý, sau này, ta sẽ thấy rằng các vua Lý có định tâm lấn nước Tống để mở bờ cõi miền bắc. Đối với Chiêm-thành hèn yếu hơn Tống vạn bội, chắc rằng vua Lý Thánh-Tông cũng muốn xâm chiếm đất đai.
 
Theo lời sứ Chiêm tâu với vua Tống (1074), thì từ kinh đô Chiêm đến kinh đô Giao-chỉ phải đi 40 ngày và toàn đường núi (TS 489)
Tức quảng đường di chuyển từ Bình Định đến Thăng Long tầm 40 ngày
Lý Thánh Tông chọn di chuyển bằng đường thủy.
Ngày Mậu-tuất tháng hai năm Kỷ-dậu là ngày dương lịch 24 tháng hai 1069 (4) vua Lý Thánh-Tông hạ chiếu thân chinh Chiêm-thành (VSL). Quân có 5 vạn (TT). Lý Thường-Kiệt được chọn làm đại tướng quân và đi tiền phong (VĐUL và bia NBS), kiêm chức nguyên soái (VSL). Ông xin cho em, là Thường-Hiến đi theo ; Hiến được trao chức tán kỵ vũ uý (bia NBS).
Vua thân chinh xuất binh giao quyền nhiếp chính cho thái sư Lý Đạo Thành
Đại Việt sử ký toàn thư có ghi Lý Thánh Tông xuất binh giao quyền nhiếp chính cho Ỷ Lan là hết sức vô lý
Ỷ Lan chỉ là phi còn chưa phải hoàng hậu
Địa vị trong hậu cung còn thấp hơn hoàng hậu Thượng Dương
Để một phi trong hậu cung làm nhiếp chính là hết sức vô lý.
 
Bảy ngày sau khi dời khỏi Thăng-long, thuyền đến Nghệ-an ; vào ngày Đinh-tị (DL 15-3). Từ đó đến cửa Nam-giới, thuyền đi mất ba ngày. Cửa Nam-giới, nay gọi là cửa Sót, ở phía Nam núi Hồng-lĩnh, thuộc phủ Thạch-ha, tỉnh Hà-tĩnh
Năm ngày sau (A. Su, DL 23-3), quân đến cửa Nhật-lệ là cửa Đông-hải ngày nay. Đây là cửa bể thứ ba của Chiêm-thành, kể từ núi Hoành-sơn vào.
Lúc thuyền quân ta tới Nhật-lệ, thủy quân Chàm chặn đánh. Lý Thánh-Tông sai tướng đại-liêu-ban Hoàng Kiện tiến đánh. Quân Chiêm thua.
Thủy quân Chiêm đã bị phá. Cho nên thuyền ta vào nghỉ ở Tư-dung không bị cản trở gì. Rồi Thánh-Tông lại theo bờ bể xuống miền nam.

Thuyền đi được ba ngày, có ” rồng ” hiện ở ngự chu là thuyền Cảnh-thắng. Sáu ngày khi dời bỏ cửa Tư-dung, quân ta tới cửa çri Bonei (Sơ-li-po-nai) nhằm vào ngày Bính-tý (11) đầu tháng ba (DL 3-4). Cửa Sơ-li-po-nai ở đâu ? Maspéro Le Royaume du champa) diễn ra çri Bonei, nhưng không nói địa điểm nào. VSL chép bằng hán tự đọc theo tiếng ta là Thi-lị-bì-nại. Ta biết rằng cửa bể lớn Qui-nhân tên xưa là Thi-nại. Lấy nghĩa, thì tên ấy không có nghĩa. Chắc là phiên âm tiếng Chàm. So sánh tên ấy với tên Thi-lị-bì-nại, thì ta có thể chắc rằng hai tên chỉ là một. Chỉ vì theo thói ta hay rút ngắn các tiếng dài để gọi cho tiện, cho nên cửa Thi-lị-bì-nại thành ra cửa Thi-nại. Và tính ngày đường thì từ Tư-dung đi sáu ngày đến Qui-nhân là phải. Từ Thăng-long đến çri Bonei, đã đi hết 26 ngày (12).
Như vậy quảng đường di chuyển của Lý Thánh Tông và 5 vạn quân từ Thăng Long đến Bình Định chỉ mất 26 ngày
Cho nên sau này Nguyễn Huệ di chuyển quân từ Huế ra Thăng Long trong 35-40 ngày không thể gọi là thần tốc được
 
Bảy ngày sau khi dời khỏi Thăng-long, thuyền đến Nghệ-an ; vào ngày Đinh-tị (DL 15-3). Từ đó đến cửa Nam-giới, thuyền đi mất ba ngày. Cửa Nam-giới, nay gọi là cửa Sót, ở phía Nam núi Hồng-lĩnh, thuộc phủ Thạch-ha, tỉnh Hà-tĩnh
Năm ngày sau (A. Su, DL 23-3), quân đến cửa Nhật-lệ là cửa Đông-hải ngày nay. Đây là cửa bể thứ ba của Chiêm-thành, kể từ núi Hoành-sơn vào.
Lúc thuyền quân ta tới Nhật-lệ, thủy quân Chàm chặn đánh. Lý Thánh-Tông sai tướng đại-liêu-ban Hoàng Kiện tiến đánh. Quân Chiêm thua.
Thủy quân Chiêm đã bị phá. Cho nên thuyền ta vào nghỉ ở Tư-dung không bị cản trở gì. Rồi Thánh-Tông lại theo bờ bể xuống miền nam.

Thuyền đi được ba ngày, có ” rồng ” hiện ở ngự chu là thuyền Cảnh-thắng. Sáu ngày khi dời bỏ cửa Tư-dung, quân ta tới cửa çri Bonei (Sơ-li-po-nai) nhằm vào ngày Bính-tý (11) đầu tháng ba (DL 3-4). Cửa Sơ-li-po-nai ở đâu ? Maspéro Le Royaume du champa) diễn ra çri Bonei, nhưng không nói địa điểm nào. VSL chép bằng hán tự đọc theo tiếng ta là Thi-lị-bì-nại. Ta biết rằng cửa bể lớn Qui-nhân tên xưa là Thi-nại. Lấy nghĩa, thì tên ấy không có nghĩa. Chắc là phiên âm tiếng Chàm. So sánh tên ấy với tên Thi-lị-bì-nại, thì ta có thể chắc rằng hai tên chỉ là một. Chỉ vì theo thói ta hay rút ngắn các tiếng dài để gọi cho tiện, cho nên cửa Thi-lị-bì-nại thành ra cửa Thi-nại. Và tính ngày đường thì từ Tư-dung đi sáu ngày đến Qui-nhân là phải. Từ Thăng-long đến çri Bonei, đã đi hết 26 ngày (12).
Như vậy quảng đường di chuyển của Lý Thánh Tông và 5 vạn quân từ Thăng Long đến Bình Định chỉ mất 26 ngày
Cho nên sau này Nguyễn Huệ di chuyển quân từ Huế ra Thăng Long trong 35-40 ngày không thể gọi là thần tốc được
tiếp đi
 
Rốt cuộc tụi mày có quan tâm hay không để tao còn viết tiếp
Tao quan tâm khi nào có cỗ máy của đô dê mon thì lịch sử mới chân thật dc, h đọc chơi phiên phiến vậy thôi..🤓
 
Tao quan tâm khi nào có cỗ máy của đô dê mon thì lịch sử mới chân thật dc, h đọc chơi phiên phiến vậy thôi..🤓
Đọc cho vui
Thằng thường nó cấm bàn chính trị thì biết nói gì nửa
 

Có thể bạn quan tâm

Top