Góc nhìn nước ngoài, Nguyễn Huệ, Nguyễn Ánh, lòng dân theo ai?

Muốn thắng kẻ thù thì phải sống ngàn thu!
Cuộc tranh giành quyền lực giữa Nguyễn Tấn Dũng và Nguyễn Phú Trọng là bài học gần nhất! Trọng chết rồi thì gia tộc Nguyễn Tấn Dũng quay trở lại ngai vàng!
 
:haha:
Số con rồng thì dù có 2 chân vào cửa tử rồi vẫn có kẻ lôi về, bắt phải sống.
Nguyễn Ánh bị dí quá, lạc quân tướng đói lả, đem gương ra tự cắt cổ, bổng bờ sông kêu rào rào chít chít thì lại có đám rái cá từ đâu vác cả đống cá tới cho ăn, lại nướng cá ăn. Thế là sống lại đi tiếp.
 
Phượng Hoàng Trung Đô mà thành lập được chắc h bọn mày nói tiếng trọ trẹ hết cả rồi. vãi lol anh vua đổi họ.
 
Vua Quang Trung sai Bắc Kỳ Nồn dựng thành trong 3 ngày, đéo được thì chém đầu. Thế mà dân BKN vẫn làm xong được. Tộc này cứ dí súng vào đầu, bảo chúng chế bom hạt nhân chúng cũng chế ra
Đéo phải dựng thành mà là dựng lũy đất để che pháo và bảo vệ thành
Và câu chuyện 3 ngày hình như là giáo sĩ kể lại
 
Lính và tướng thiện chiến nhất của Nguyễn Ánh là lính đồng nai Gia Định và miền tây
Vụ Cù Lao Phố đéo thù mới lại. Đến cả cục gạch nó cũng cạy đem về xây thành Quy Nhơn, còn xác dân chết kẹt luôn dòng sông mấy tháng. Đến giờ khéo đám con cháu còn sót lại ở đó giờ cũng đang phất cờ iu lũ cướp thôi, trong khi tổ tiên nó bị cướp giết hiếp quăng mẹ xuống sông ngay đó.
 
Vua Quang Trung sai Bắc Kỳ Nồn dựng thành trong 3 ngày, đéo được thì chém đầu. Thế mà dân BKN vẫn làm xong được. Tộc này cứ dí súng vào đầu, bảo chúng chế bom hạt nhân chúng cũng chế ra
Trong khi chờ đợi, Quang Trung để đề phòng một cuộc xâm lăng bất ngờ đã cho xây trong 3 ngày 3 đêm liền, chung quanh điện vua Chiêu Thoũng, một mô đất dày 20 “piê”(57) và cao 12 “piê”. Về việc này, ông La Mothe đã phải thốt lên rằng: ʽʽ Thật là hiếm những người đáng sợ và quỉ quyệt như ông ta! Ông ta đã cho đem về Phú Xuân và về tân kinh đô của ông ( Quang Trung ) bằng đường bộ chứ không phải bằng đường thuỷ ( vì ông sợ tàu bè chất nặng quá có thể chìm xuống đáy biển hoặc gặp bão giữa đường) 2,3.000 cỗ đại bác và súng thần công ( chiến pháo), không biết bao nhiêu là súng dài và khí giới khác cùng với vô số tiền bạc và ( đại khái) tất cả những vật liệu quý giá bắt được của quân Trung Hoaʼʼ. Đó, kết quả của cuộc chinh phạt ấy là như vậy, nó đem đến đau đớn và nhục nhã cho quân Trung Hoa và lợi lộc cùng vẻ vang cho quân Tây Sơn.
 
:haha:
Số con rồng thì dù có 2 chân vào cửa tử rồi vẫn có kẻ lôi về, bắt phải sống.
Nguyễn Ánh bị dí quá, lạc quân tướng đói lả, đem gương ra tự cắt cổ, bổng bờ sông kêu rào rào chít chít thì lại có đám rái cá từ đâu vác cả đống cá tới cho ăn, lại nướng cá ăn. Thế là sống lại đi tiếp.
Đm đớp trộm cả cá của bọn súc vật, Ánh sống còn con cháu của tộc rái cá chết vì đói.
 
Ai cho tao cơm áo gạo tiền . Bỏ sức lao động nhận lại xứng đáng tiền mua hàng hiệu ăn đồ chất lượng có nhà có xe là tao theo .chứ có cái cc mà cảm tính .
 
Đúng rồi ấy
Giáo sĩ còn kêu Huệ khi đánh anh trai mình còn bắt cả đàn bà trẻ con ra trận.


Có khả năng cao Huệ gốc Chiêm Thành
Còn câu chuyện gốc Nghệ An là xạo chó thôi
được thì gửi t ít tài liệu đọc công trạng ông Nguyễn Ánh nhé. t cảm ơn
 
Tao thấy tụi mày chỉ toàn bàn luận chuyện vua Quang Trung,
Ít nhất vua Quang Trung còn không lật sử, edit sử nên tụi mày còn có nhiều dữ liệu nói về giai đoạn này.
Tụi mày nên dành time nghiên cứu lịch sử VN giai đoạn 1940 - 1950, mới thấy được nhiều cái mới bị che khuất.
 
Tao thấy tụi mày chỉ toàn bàn luận chuyện vua Quang Trung,
Ít nhất vua Quang Trung còn không lật sử, edit sử nên tụi mày còn có nhiều dữ liệu nói về giai đoạn này.
Tụi mày nên dành time nghiên cứu lịch sử VN giai đoạn 1940 - 1950, mới thấy được nhiều cái mới bị che khuất.
dễ bị ddos
 
Quang Trung hùng tài đại lược, cũng là một nhà kỹ trị và có tầm nhìn cải cách vượt thời đại, nhưng làm chính trị theo kiểu truyền thống Á Đông không quá giỏi, dẫn đến cái mầm hoạ về sau cho nhà Tây Sơn mà Quang Toản phải gánh chịu khi Quang Trung không còn nữa. Có mấy lí do như sau:
1. Về tính chính danh:
- Vua có đủ chiến công rực rỡ không chỉ ở nội chiến (phá Trịnh bình Nguyễn), mà còn cả chống giặc ngoại xâm (chiến thắng Ngọc Hồi Đống Đa ở Bắc và trận Rạch Gầm Xoài Mút ở phía Nam). Đây vốn là điều kiện kiên quyết của bất kỳ chính quyền nào nếu muốn được công nhận tính chính danh ở nước Việt. Chính quyền nhà Thanh cũng chính thức công nhận tước An Nam Quốc Vương của Nguyễn Huệ.
- Triều đình nhà Hậu Lê vốn đã coi nhà Tây Sơn là một triều đại chính thức, cùng tồn tại song song tại miền Nam, thể hiện qua việc Hoàng Đế Lê Chiêu Thống gặp trực tiếp Thái Đức Hoàng Đế nhà Tây Sơn với nghi lễ ngang hàng, một việc chưa từng có tiền lệ trong lịch sử. Vì vậy, Quang Trung hoàn toàn có đầy đủ tính chính danh như một Hoàng đế được công nhận bởi Nhà Lê, bởi lẽ chính Thái Đức đế đã nhường ngôi cho Nguyễn Huệ và chỉ xưng làm Tây Sơn Vương.
- Lê Ngọc Hân là một lá bài chính trị cực kỳ chiến lược, nếu xét trong bối cảnh Quang Trung muốn kiểm soát cả vùng Bắc Hà vốn trước đây được coi là một “nước” mà Tây Sơn không muốn ngó ngàng tới đất đai (theo lời Thái Đức Đế). Nếu xét trong lịch sử, có nhiều cuộc đổi ngôi thông qua hôn nhân mang tính chất mập mờ hơn rất nhiều (như là Trần Cảnh - Lý Chiêu Hoàng, như là Dương Vân Nga khoác áo hoàng bào lên người Lê Hoàn), thì cuộc hôn nhân của Lê Ngọc Hân và Nguyễn Huệ có đầy đủ sự chính danh và lễ nghi vì chính thức vua Lê Hiển Tông ban hôn. Hơn nữa chính vua Hiển Tông cũng nói rằng có vấn đề gì về chính sự phải tham khảo ý kiến của Nguyễn Huệ, trong lần Huệ ra Bắc Hà.
Tóm lại, Nguyễn Huệ - hoàng đế Quang Trung có đầy đủ điều kiện võ công, ân uy, và cả tính kế thừa hợp lý để làm chủ nước Việt một dải từ Bắc chí Nam.
2. Thế nhưng, trái với sự huy hoàng và rực rỡ của cá nhân ông, triều đại của ông chỉ tồn tại thêm một thời gian ngắn nữa. Điều này ngoài các lý do về quân sự, còn có một nguyên nhân rất lớn (thậm chí là chủ yếu) đó là các vấn đề của chính Quang Trung và của cả nhà Tây Sơn trong việc xử lý các yếu tố chính trị theo truyền thống Á Đông cụ thể như sau:
- Vết rạn nứt trong lòng: Việc Nguyễn Huệ tấn công Nguyễn Nhạc (Thái Đức Đế) rồi sau đó chấp nhận giảng hoà và để anh mình xưng làm Tây Sơn Vương, lại để cho đóng giữ địa bàn cực kỳ trọng yếu là Bình Định tuy tưởng là hiệu quả, nhưng đã để lại một vết nứt không thể hàn gắn trong lòng Tây Sơn. Đỉnh điểm là việc cháu của Nguyễn Nhạc làm phản và sau đó bị Quang Toản hành quyết càng đào sâu rạn nứt giữa huynh đệ một nhà. Đây là một trong những điểm cốt yếu để khiến cho Nguyễn Ánh tận dụng để tái chiếm khu vực phía Nam bất ổn, do khả năng liên kết và phòng thủ của Tây Sơn không còn quá chặt chẽ ở đây.
- Sự ủng hộ của người Hoa: rõ ràng, Tây Sơn đã quá tàn bạo với người Hoa, vì mất lòng tin với dân tộc này cũng như vì ý thức hệ dân tộc quá mạnh mẽ của Nguyễn Huệ nói riêng và nhà Tây Sơn nói chung. Thực chất, người Hoa di dân chỉ đơn giản là tìm kiếm sự ổn định và cơ hội lập nghiệp, khai khẩn đất hoang. Họ không thực sự trung thành với một lực lượng nào, chỉ đơn giản đi theo các chúa Nguyễn vì được bảo trợ và hỗ trợ phát triển kinh tế, khám phá các vùng đất mới… Vì vậy, việc tấn công và tận diệt người Hoa khiến cho Tây Sơn mất đi một lực lượng mạnh về kinh tế, thương mại, và có liên kết sâu sắc với khu vực phía Nam.
- Vấn đề sĩ phu Bắc Hà, dù cho có 3 yếu tố ở phía trên, Tây Sơn vẫn không hoàn toàn lấy được niềm tin và sự tôn trọng từ sĩ phu Bắc Hà, bởi một số lý do như sau:
(+) Nhà Thanh đến Bắc Hà là do lời kêu gọi chủ động từ Lê Chiêu Thống, một hoàng đế chính danh của triều đại Lê trung hưng. Họ Lê tuy đã mất quyền lực thực tế từ lâu, tuy nhiên quá trình trị vị trên danh nghĩa của họ Lê, dựa trên sức ảnh hưởng của họ Trịnh vẫn là một giai đoạn mà Bắc Hà thịnh trị và phát triển cao độ, ngoại trừ giai đoạn loạn lạc ngắn ngủi cuối thời Trịnh Sâm. Ân uy của nhà Lê vẫn rất lớn, lòng dân vẫn thương nhớ và ngưỡng mộ Thái Tổ, Thánh Tông và các bậc tiên đế khác. Nhà Thanh đến Bắc Hà cũng chưa đủ lâu, chưa thật sự gieo rắc được quá nhiều tội nghiệp giống như trường hợp của nhà Minh trước đây. Vì vậy, công lao của Quang Trung trong việc phá Thanh bị giảm đi phần nào.
(+) Vấn đề kinh đô và các cải cách của Quang Trung khiến cho tầng lớp sĩ phu bảo thủ không thật sự thoải mái. Thăng Long là đô thành ngàn năm, việc không còn là trung tâm chính trị khiến cho bất mãn xuất hiện. Dù việc định đô ở Phú Xuân là một lựa chọn cân nhắc kỹ càng do đất nước đã không còn chỉ có miền Bắc mà đã được mở rộng hơn rất nhiều, ngoài ra chắc hẳn triều Tây Sơn cũng khá lo ngại sự nghi kỵ của dân Bắc Hà nên chưa thoải mái thật sự nếu định đô ở Thăng Long… Tuy nhiên, đây cũng là một vấn đề khiến cho tính chính danh của triều đại bị suy giảm. Ngoài ra, việc Quang Trung muốn cải cách, giao thương với phương Tây nhiều hơn, thay đổi chữ viết sang chữ quốc ngữ… đều là những chủ trương đúng, nhưng trong bối cảnh đương thời thì đó là những thứ quá mới mẻ với nhóm trí thức cổ điển. Đây chính là những lý do mà khi Tây Sơn để mất vùng đất căn bản (Phú Xuân, Huế, Quy Nhơn, Nghệ An) và chạy ra Thăng Long thì nhanh chóng thất bại và Quang Toản bị nhân dân bắt trói đem nộp nhà Nguyễn.
(+) Sự khôn ngoan của Nguyễn Ánh: ngược lại với Tây Sơn, Nguyễn Ánh được dân Bắc Hà ủng hộ, không phải là vì họ muốn nhà Nguyễn làm vua, mà chỉ đơn giản, người dân Bắc Hà vẫn coi Ánh là một phiên thần trung thành của nhà Lê, có mong muốn trung hưng tông thất nhà Lê giống như các vị tiên chúa Nguyễn Kim Nguyễn Hoàng. Thật sự thì Nguyễn Ánh khi lên ngôi vua Gia Long cũng không dám đóng đô ở Thăng Long, và các đời vua Nguyễn luôn tìm cách hạ thấp vai trò trung tâm chính trị của thành phố này.

Tổng kết lại, đây là một giai đoạn hào hùng, bi tráng lẫn đau thương của dân tộc. Bánh xe lịch sử đã lựa chọn nhà Nguyễn làm triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam, không phải bởi Nguyễn Ánh hay Nguyễn Huệ ai tài hơn ai, mà chỉ đơn giản là đó là sự sắp xếp của số phận. Mọi phân tích, nhận định cần phải được phân tích trong bối cảnh thực tiễn và tôn trọng sự thật khách quan. Nếu vua Quang Trung sống thêm 20 năm nữa, hoặc có thể mọi sự sẽ rất khác, nhưng điều đó không có nghĩa rằng nước Việt sẽ tốt hơn (hoặc sẽ tốt hơn, nhưng lại xấu đi theo một cách khác…) Thế nên lịch sử là để chiêm nghiệm và suy ngẫm chứ ko nên đặt nặng phán xét/
 
Quang Trung hùng tài đại lược, cũng là một nhà kỹ trị và có tầm nhìn cải cách vượt thời đại, nhưng làm chính trị theo kiểu truyền thống Á Đông không quá giỏi, dẫn đến cái mầm hoạ về sau cho nhà Tây Sơn mà Quang Toản phải gánh chịu khi Quang Trung không còn nữa. Có mấy lí do như sau:
1. Về tính chính danh:
- Vua có đủ chiến công rực rỡ không chỉ ở nội chiến (phá Trịnh bình Nguyễn), mà còn cả chống giặc ngoại xâm (chiến thắng Ngọc Hồi Đống Đa ở Bắc và trận Rạch Gầm Xoài Mút ở phía Nam). Đây vốn là điều kiện kiên quyết của bất kỳ chính quyền nào nếu muốn được công nhận tính chính danh ở nước Việt. Chính quyền nhà Thanh cũng chính thức công nhận tước An Nam Quốc Vương của Nguyễn Huệ.
- Triều đình nhà Hậu Lê vốn đã coi nhà Tây Sơn là một triều đại chính thức, cùng tồn tại song song tại miền Nam, thể hiện qua việc Hoàng Đế Lê Chiêu Thống gặp trực tiếp Thái Đức Hoàng Đế nhà Tây Sơn với nghi lễ ngang hàng, một việc chưa từng có tiền lệ trong lịch sử. Vì vậy, Quang Trung hoàn toàn có đầy đủ tính chính danh như một Hoàng đế được công nhận bởi Nhà Lê, bởi lẽ chính Thái Đức đế đã nhường ngôi cho Nguyễn Huệ và chỉ xưng làm Tây Sơn Vương.
- Lê Ngọc Hân là một lá bài chính trị cực kỳ chiến lược, nếu xét trong bối cảnh Quang Trung muốn kiểm soát cả vùng Bắc Hà vốn trước đây được coi là một “nước” mà Tây Sơn không muốn ngó ngàng tới đất đai (theo lời Thái Đức Đế). Nếu xét trong lịch sử, có nhiều cuộc đổi ngôi thông qua hôn nhân mang tính chất mập mờ hơn rất nhiều (như là Trần Cảnh - Lý Chiêu Hoàng, như là Dương Vân Nga khoác áo hoàng bào lên người Lê Hoàn), thì cuộc hôn nhân của Lê Ngọc Hân và Nguyễn Huệ có đầy đủ sự chính danh và lễ nghi vì chính thức vua Lê Hiển Tông ban hôn. Hơn nữa chính vua Hiển Tông cũng nói rằng có vấn đề gì về chính sự phải tham khảo ý kiến của Nguyễn Huệ, trong lần Huệ ra Bắc Hà.
Tóm lại, Nguyễn Huệ - hoàng đế Quang Trung có đầy đủ điều kiện võ công, ân uy, và cả tính kế thừa hợp lý để làm chủ nước Việt một dải từ Bắc chí Nam.
2. Thế nhưng, trái với sự huy hoàng và rực rỡ của cá nhân ông, triều đại của ông chỉ tồn tại thêm một thời gian ngắn nữa. Điều này ngoài các lý do về quân sự, còn có một nguyên nhân rất lớn (thậm chí là chủ yếu) đó là các vấn đề của chính Quang Trung và của cả nhà Tây Sơn trong việc xử lý các yếu tố chính trị theo truyền thống Á Đông cụ thể như sau:
- Vết rạn nứt trong lòng: Việc Nguyễn Huệ tấn công Nguyễn Nhạc (Thái Đức Đế) rồi sau đó chấp nhận giảng hoà và để anh mình xưng làm Tây Sơn Vương, lại để cho đóng giữ địa bàn cực kỳ trọng yếu là Bình Định tuy tưởng là hiệu quả, nhưng đã để lại một vết nứt không thể hàn gắn trong lòng Tây Sơn. Đỉnh điểm là việc cháu của Nguyễn Nhạc làm phản và sau đó bị Quang Toản hành quyết càng đào sâu rạn nứt giữa huynh đệ một nhà. Đây là một trong những điểm cốt yếu để khiến cho Nguyễn Ánh tận dụng để tái chiếm khu vực phía Nam bất ổn, do khả năng liên kết và phòng thủ của Tây Sơn không còn quá chặt chẽ ở đây.
- Sự ủng hộ của người Hoa: rõ ràng, Tây Sơn đã quá tàn bạo với người Hoa, vì mất lòng tin với dân tộc này cũng như vì ý thức hệ dân tộc quá mạnh mẽ của Nguyễn Huệ nói riêng và nhà Tây Sơn nói chung. Thực chất, người Hoa di dân chỉ đơn giản là tìm kiếm sự ổn định và cơ hội lập nghiệp, khai khẩn đất hoang. Họ không thực sự trung thành với một lực lượng nào, chỉ đơn giản đi theo các chúa Nguyễn vì được bảo trợ và hỗ trợ phát triển kinh tế, khám phá các vùng đất mới… Vì vậy, việc tấn công và tận diệt người Hoa khiến cho Tây Sơn mất đi một lực lượng mạnh về kinh tế, thương mại, và có liên kết sâu sắc với khu vực phía Nam.
- Vấn đề sĩ phu Bắc Hà, dù cho có 3 yếu tố ở phía trên, Tây Sơn vẫn không hoàn toàn lấy được niềm tin và sự tôn trọng từ sĩ phu Bắc Hà, bởi một số lý do như sau:
(+) Nhà Thanh đến Bắc Hà là do lời kêu gọi chủ động từ Lê Chiêu Thống, một hoàng đế chính danh của triều đại Lê trung hưng. Họ Lê tuy đã mất quyền lực thực tế từ lâu, tuy nhiên quá trình trị vị trên danh nghĩa của họ Lê, dựa trên sức ảnh hưởng của họ Trịnh vẫn là một giai đoạn mà Bắc Hà thịnh trị và phát triển cao độ, ngoại trừ giai đoạn loạn lạc ngắn ngủi cuối thời Trịnh Sâm. Ân uy của nhà Lê vẫn rất lớn, lòng dân vẫn thương nhớ và ngưỡng mộ Thái Tổ, Thánh Tông và các bậc tiên đế khác. Nhà Thanh đến Bắc Hà cũng chưa đủ lâu, chưa thật sự gieo rắc được quá nhiều tội nghiệp giống như trường hợp của nhà Minh trước đây. Vì vậy, công lao của Quang Trung trong việc phá Thanh bị giảm đi phần nào.
(+) Vấn đề kinh đô và các cải cách của Quang Trung khiến cho tầng lớp sĩ phu bảo thủ không thật sự thoải mái. Thăng Long là đô thành ngàn năm, việc không còn là trung tâm chính trị khiến cho bất mãn xuất hiện. Dù việc định đô ở Phú Xuân là một lựa chọn cân nhắc kỹ càng do đất nước đã không còn chỉ có miền Bắc mà đã được mở rộng hơn rất nhiều, ngoài ra chắc hẳn triều Tây Sơn cũng khá lo ngại sự nghi kỵ của dân Bắc Hà nên chưa thoải mái thật sự nếu định đô ở Thăng Long… Tuy nhiên, đây cũng là một vấn đề khiến cho tính chính danh của triều đại bị suy giảm. Ngoài ra, việc Quang Trung muốn cải cách, giao thương với phương Tây nhiều hơn, thay đổi chữ viết sang chữ quốc ngữ… đều là những chủ trương đúng, nhưng trong bối cảnh đương thời thì đó là những thứ quá mới mẻ với nhóm trí thức cổ điển. Đây chính là những lý do mà khi Tây Sơn để mất vùng đất căn bản (Phú Xuân, Huế, Quy Nhơn, Nghệ An) và chạy ra Thăng Long thì nhanh chóng thất bại và Quang Toản bị nhân dân bắt trói đem nộp nhà Nguyễn.
(+) Sự khôn ngoan của Nguyễn Ánh: ngược lại với Tây Sơn, Nguyễn Ánh được dân Bắc Hà ủng hộ, không phải là vì họ muốn nhà Nguyễn làm vua, mà chỉ đơn giản, người dân Bắc Hà vẫn coi Ánh là một phiên thần trung thành của nhà Lê, có mong muốn trung hưng tông thất nhà Lê giống như các vị tiên chúa Nguyễn Kim Nguyễn Hoàng. Thật sự thì Nguyễn Ánh khi lên ngôi vua Gia Long cũng không dám đóng đô ở Thăng Long, và các đời vua Nguyễn luôn tìm cách hạ thấp vai trò trung tâm chính trị của thành phố này.

Tổng kết lại, đây là một giai đoạn hào hùng, bi tráng lẫn đau thương của dân tộc. Bánh xe lịch sử đã lựa chọn nhà Nguyễn làm triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam, không phải bởi Nguyễn Ánh hay Nguyễn Huệ ai tài hơn ai, mà chỉ đơn giản là đó là sự sắp xếp của số phận. Mọi phân tích, nhận định cần phải được phân tích trong bối cảnh thực tiễn và tôn trọng sự thật khách quan. Nếu vua Quang Trung sống thêm 20 năm nữa, hoặc có thể mọi sự sẽ rất khác, nhưng điều đó không có nghĩa rằng nước Việt sẽ tốt hơn (hoặc sẽ tốt hơn, nhưng lại xấu đi theo một cách khác…) Thế nên lịch sử là để chiêm nghiệm và suy ngẫm chứ ko nên đặt nặng phán xét/
Đi quật mộ đối phương là điều tối kỵ của binh gia, đó là sai lầm chết người của Nguyễn Huệ.
Các triều đại trước đây cũng chỉ xử người sống chứ không ai xử người chết. Ở nước ngoài cũng vậy.
Ông Huệ tự vác nghiệp trả thù cho con cháu.
"Chó chạy cùng rào dễ làm chó điên"
 
Đi quật mộ đối phương là điều tối kỵ của binh gia, đó là sai lầm chết người của Nguyễn Huệ.
Các triều đại trước đây cũng chỉ xử người sống chứ không ai xử người chết. Ở nước ngoài cũng vậy.
Ông Huệ tự vác nghiệp trả thù cho con cháu.
"Chó chạy cùng rào dễ làm chó điên"
Việc quật mộ thì là do sử nhà Nguyễn nêu, có thể có ở mức độ xâm hại mồ mả nhưng theo cá nhân tao thì cũng không đến nỗi tàn khốc như chính sử nêu (ném xương xuống sông…). Nên trong bài này tao cũng ko đưa nhận định gì. Nếu có thì là sai về đạo đức, cũng giống việc Nguyễn Anh giày vò thi thể Nguyễn Huệ sau này thôi
 
Sửa lần cuối:
Việc quật mộ thì là do sử nhà Nguyễn nêu, có thể có ở mức độ xâm hại mồ mả nhưng theo cá nhân tao thì cũng không đến nỗi tàn khốc như chính sử nêu (ném xương xuống sông…). Nên trong bài này tao cũng ko đưa nhận định gì. Nếu có thì là sai về đạo đức, cũng giống việc Nguyễn Anh giày vò thi thể Nguyễn Huệ sau này thôi
Thế mày nghĩ nhà Nguyễn tự ném xương tổ tiên mình xuống sông rồi đổ thừa cho Huệ?
Tội của Huệ thì đéo cần quật mộ chúa Nguyễn thì cũng dư đủ bị tru di cửu tộc rồi
Nhà Nguyễn có cần bôi nhọ Huệ không?
Trong khi rõ ràng câu chuyện này có nhân chứng vật chứng đủ cả
Về Huế có cái lăng sọ và miếu thờ ông lái đò vớt sọ cha của ông Ánh lên đó.
Huệ đào mộ chúa Nguyễn và cha Ánh ném sông là ông ta đã tuyệt vọng lắm rồi mới phải dùng đến hạ sách đó
 
Quang Trung hùng tài đại lược, cũng là một nhà kỹ trị và có tầm nhìn cải cách vượt thời đại, nhưng làm chính trị theo kiểu truyền thống Á Đông không quá giỏi, dẫn đến cái mầm hoạ về sau cho nhà Tây Sơn mà Quang Toản phải gánh chịu khi Quang Trung không còn nữa. Có mấy lí do như sau:
1. Về tính chính danh:
- Vua có đủ chiến công rực rỡ không chỉ ở nội chiến (phá Trịnh bình Nguyễn), mà còn cả chống giặc ngoại xâm (chiến thắng Ngọc Hồi Đống Đa ở Bắc và trận Rạch Gầm Xoài Mút ở phía Nam). Đây vốn là điều kiện kiên quyết của bất kỳ chính quyền nào nếu muốn được công nhận tính chính danh ở nước Việt. Chính quyền nhà Thanh cũng chính thức công nhận tước An Nam Quốc Vương của Nguyễn Huệ.
- Triều đình nhà Hậu Lê vốn đã coi nhà Tây Sơn là một triều đại chính thức, cùng tồn tại song song tại miền Nam, thể hiện qua việc Hoàng Đế Lê Chiêu Thống gặp trực tiếp Thái Đức Hoàng Đế nhà Tây Sơn với nghi lễ ngang hàng, một việc chưa từng có tiền lệ trong lịch sử. Vì vậy, Quang Trung hoàn toàn có đầy đủ tính chính danh như một Hoàng đế được công nhận bởi Nhà Lê, bởi lẽ chính Thái Đức đế đã nhường ngôi cho Nguyễn Huệ và chỉ xưng làm Tây Sơn Vương.
- Lê Ngọc Hân là một lá bài chính trị cực kỳ chiến lược, nếu xét trong bối cảnh Quang Trung muốn kiểm soát cả vùng Bắc Hà vốn trước đây được coi là một “nước” mà Tây Sơn không muốn ngó ngàng tới đất đai (theo lời Thái Đức Đế). Nếu xét trong lịch sử, có nhiều cuộc đổi ngôi thông qua hôn nhân mang tính chất mập mờ hơn rất nhiều (như là Trần Cảnh - Lý Chiêu Hoàng, như là Dương Vân Nga khoác áo hoàng bào lên người Lê Hoàn), thì cuộc hôn nhân của Lê Ngọc Hân và Nguyễn Huệ có đầy đủ sự chính danh và lễ nghi vì chính thức vua Lê Hiển Tông ban hôn. Hơn nữa chính vua Hiển Tông cũng nói rằng có vấn đề gì về chính sự phải tham khảo ý kiến của Nguyễn Huệ, trong lần Huệ ra Bắc Hà.
Tóm lại, Nguyễn Huệ - hoàng đế Quang Trung có đầy đủ điều kiện võ công, ân uy, và cả tính kế thừa hợp lý để làm chủ nước Việt một dải từ Bắc chí Nam.
2. Thế nhưng, trái với sự huy hoàng và rực rỡ của cá nhân ông, triều đại của ông chỉ tồn tại thêm một thời gian ngắn nữa. Điều này ngoài các lý do về quân sự, còn có một nguyên nhân rất lớn (thậm chí là chủ yếu) đó là các vấn đề của chính Quang Trung và của cả nhà Tây Sơn trong việc xử lý các yếu tố chính trị theo truyền thống Á Đông cụ thể như sau:
- Vết rạn nứt trong lòng: Việc Nguyễn Huệ tấn công Nguyễn Nhạc (Thái Đức Đế) rồi sau đó chấp nhận giảng hoà và để anh mình xưng làm Tây Sơn Vương, lại để cho đóng giữ địa bàn cực kỳ trọng yếu là Bình Định tuy tưởng là hiệu quả, nhưng đã để lại một vết nứt không thể hàn gắn trong lòng Tây Sơn. Đỉnh điểm là việc cháu của Nguyễn Nhạc làm phản và sau đó bị Quang Toản hành quyết càng đào sâu rạn nứt giữa huynh đệ một nhà. Đây là một trong những điểm cốt yếu để khiến cho Nguyễn Ánh tận dụng để tái chiếm khu vực phía Nam bất ổn, do khả năng liên kết và phòng thủ của Tây Sơn không còn quá chặt chẽ ở đây.
- Sự ủng hộ của người Hoa: rõ ràng, Tây Sơn đã quá tàn bạo với người Hoa, vì mất lòng tin với dân tộc này cũng như vì ý thức hệ dân tộc quá mạnh mẽ của Nguyễn Huệ nói riêng và nhà Tây Sơn nói chung. Thực chất, người Hoa di dân chỉ đơn giản là tìm kiếm sự ổn định và cơ hội lập nghiệp, khai khẩn đất hoang. Họ không thực sự trung thành với một lực lượng nào, chỉ đơn giản đi theo các chúa Nguyễn vì được bảo trợ và hỗ trợ phát triển kinh tế, khám phá các vùng đất mới… Vì vậy, việc tấn công và tận diệt người Hoa khiến cho Tây Sơn mất đi một lực lượng mạnh về kinh tế, thương mại, và có liên kết sâu sắc với khu vực phía Nam.
- Vấn đề sĩ phu Bắc Hà, dù cho có 3 yếu tố ở phía trên, Tây Sơn vẫn không hoàn toàn lấy được niềm tin và sự tôn trọng từ sĩ phu Bắc Hà, bởi một số lý do như sau:
(+) Nhà Thanh đến Bắc Hà là do lời kêu gọi chủ động từ Lê Chiêu Thống, một hoàng đế chính danh của triều đại Lê trung hưng. Họ Lê tuy đã mất quyền lực thực tế từ lâu, tuy nhiên quá trình trị vị trên danh nghĩa của họ Lê, dựa trên sức ảnh hưởng của họ Trịnh vẫn là một giai đoạn mà Bắc Hà thịnh trị và phát triển cao độ, ngoại trừ giai đoạn loạn lạc ngắn ngủi cuối thời Trịnh Sâm. Ân uy của nhà Lê vẫn rất lớn, lòng dân vẫn thương nhớ và ngưỡng mộ Thái Tổ, Thánh Tông và các bậc tiên đế khác. Nhà Thanh đến Bắc Hà cũng chưa đủ lâu, chưa thật sự gieo rắc được quá nhiều tội nghiệp giống như trường hợp của nhà Minh trước đây. Vì vậy, công lao của Quang Trung trong việc phá Thanh bị giảm đi phần nào.
(+) Vấn đề kinh đô và các cải cách của Quang Trung khiến cho tầng lớp sĩ phu bảo thủ không thật sự thoải mái. Thăng Long là đô thành ngàn năm, việc không còn là trung tâm chính trị khiến cho bất mãn xuất hiện. Dù việc định đô ở Phú Xuân là một lựa chọn cân nhắc kỹ càng do đất nước đã không còn chỉ có miền Bắc mà đã được mở rộng hơn rất nhiều, ngoài ra chắc hẳn triều Tây Sơn cũng khá lo ngại sự nghi kỵ của dân Bắc Hà nên chưa thoải mái thật sự nếu định đô ở Thăng Long… Tuy nhiên, đây cũng là một vấn đề khiến cho tính chính danh của triều đại bị suy giảm. Ngoài ra, việc Quang Trung muốn cải cách, giao thương với phương Tây nhiều hơn, thay đổi chữ viết sang chữ quốc ngữ… đều là những chủ trương đúng, nhưng trong bối cảnh đương thời thì đó là những thứ quá mới mẻ với nhóm trí thức cổ điển. Đây chính là những lý do mà khi Tây Sơn để mất vùng đất căn bản (Phú Xuân, Huế, Quy Nhơn, Nghệ An) và chạy ra Thăng Long thì nhanh chóng thất bại và Quang Toản bị nhân dân bắt trói đem nộp nhà Nguyễn.
(+) Sự khôn ngoan của Nguyễn Ánh: ngược lại với Tây Sơn, Nguyễn Ánh được dân Bắc Hà ủng hộ, không phải là vì họ muốn nhà Nguyễn làm vua, mà chỉ đơn giản, người dân Bắc Hà vẫn coi Ánh là một phiên thần trung thành của nhà Lê, có mong muốn trung hưng tông thất nhà Lê giống như các vị tiên chúa Nguyễn Kim Nguyễn Hoàng. Thật sự thì Nguyễn Ánh khi lên ngôi vua Gia Long cũng không dám đóng đô ở Thăng Long, và các đời vua Nguyễn luôn tìm cách hạ thấp vai trò trung tâm chính trị của thành phố này.

Tổng kết lại, đây là một giai đoạn hào hùng, bi tráng lẫn đau thương của dân tộc. Bánh xe lịch sử đã lựa chọn nhà Nguyễn làm triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam, không phải bởi Nguyễn Ánh hay Nguyễn Huệ ai tài hơn ai, mà chỉ đơn giản là đó là sự sắp xếp của số phận. Mọi phân tích, nhận định cần phải được phân tích trong bối cảnh thực tiễn và tôn trọng sự thật khách quan. Nếu vua Quang Trung sống thêm 20 năm nữa, hoặc có thể mọi sự sẽ rất khác, nhưng điều đó không có nghĩa rằng nước Việt sẽ tốt hơn (hoặc sẽ tốt hơn, nhưng lại xấu đi theo một cách khác…) Thế nên lịch sử là để chiêm nghiệm và suy ngẫm chứ ko nên đặt nặng phán xét/
Bài này đéo phải của mày viết
Mày lấy ở đâu về thế?
 
Thế mày nghĩ nhà Nguyễn tự ném xương tổ tiên mình xuống sông rồi đổ thừa cho Huệ?
Tội của Huệ thì đéo cần quật mộ chúa Nguyễn thì cũng dư đủ bị tru di cửu tộc rồi
Nhà Nguyễn có cần bôi nhọ Huệ không?
Trong khi rõ ràng câu chuyện này có nhân chứng vật chứng đủ cả
Về Huế có cái lăng sọ và miếu thờ ông lái đò vớt sọ cha của ông Ánh lên đó.
Huệ đào mộ chúa Nguyễn và cha Ánh ném sông là ông ta đã tuyệt vọng lắm rồi mới phải dùng đến hạ sách đó
Bài này đéo phải của mày viết
Mày lấy ở đâu về thế?
Bài tao viết tao việc đéo gì phải lấy từ đâu. Mày con cháu chúa Nguyễn à mà cay nghiệt thế? Tao thì nhìn nhận khách quan và logic thôi, cái gì chưa đủ sở cứ thì tao bảo chưa đủ, và tao tự nhận định theo logic quyền lực và bối cảnh chính trị chứ ko nói bừa. Nguyễn Huệ là người thực dụng, điều này được thể hiện qua hành động và các quyết sách của ông ta đương thời. Trong bối cảnh thắng thế, việc quật mồ lên thì chỉ có lí do duy nhất là vì muốn phá long mạch chúa Nguyễn, chứ không phải như Nguyễn Ánh sau này, sống trong khiếp đảm tột độ vì bị Tây Sơn truy đuổi, tàn sát gia tộc nên mang nỗi hận thù kèm sợ hãi kinh hoàng này trút vào quân tướng Tây Sơn bại trận… Việc phá mồ mả xét góc độ đạo đức thì là sai, ko có gì phải bàn cãi, nhưng xét trong chiến tranh thì tao thấy cũng nhiều cuộc chiến có cảnh này xảy ra rồi.
Với lại, mày nói Nguyễn Huệ có tội, thì là tội gì, tội với ai, mày nói rõ ra đi xem nào?
 
Bài tao viết tao việc đéo gì phải lấy từ đâu. Mày con cháu chúa Nguyễn à mà cay nghiệt thế? Tao thì nhìn nhận khách quan và logic thôi, cái gì chưa đủ sở cứ thì tao bảo chưa đủ, và tao tự nhận định theo logic quyền lực và bối cảnh chính trị chứ ko nói bừa. Nguyễn Huệ là người thực dụng, điều này được thể hiện qua hành động và các quyết sách của ông ta đương thời. Trong bối cảnh thắng thế, việc quật mồ lên thì chỉ có lí do duy nhất là vì muốn phá long mạch chúa Nguyễn, chứ không phải như Nguyễn Ánh sau này, sống trong khiếp đảm tột độ vì bị Tây Sơn truy đuổi, tàn sát gia tộc nên mang nỗi hận thù kèm sợ hãi kinh hoàng này trút vào quân tướng Tây Sơn bại trận… Việc phá mồ mả xét góc độ đạo đức thì là sai, ko có gì phải bàn cãi, nhưng xét trong chiến tranh thì tao thấy cũng nhiều cuộc chiến có cảnh này xảy ra rồi.
Với lại, mày nói Nguyễn Huệ có tội, thì là tội gì, tội với ai, mày nói rõ ra đi xem nào?
Tội của Huệ chất như núi khủng khiếp nhất lịch sử Việt Nam
Còn cái bài viết của mày sai be bét
 

Có thể bạn quan tâm

Top