Ngưỡng miễn thuế 200 triệu đồng/năm theo đề xuất hiện nay đang trở thành tâm điểm gây tranh luận, nhiều ý kiến cho rằng con số này “không còn ý nghĩa” trong bối cảnh chi phí tăng mạnh. Đồng thời, mức thuế suất áp dụng đối với nhóm hộ có doanh thu 200 triệu đồng đến dưới 3 tỉ đồng cũng chưa phù hợp.
Chị Lê Hằng – chủ cửa hàng gà rán trên đường Lạc Long Quân (Hà Nội) cho biết, doanh thu có thể cao nhưng lợi nhuận thực tế lại rất thấp, do chi phí nguyên liệu, vận hành và nhân công tăng đều.
“Tôi không ủng hộ việc áp thuế trên doanh thu. Nếu tính trên lợi nhuận sẽ hợp lý hơn" - chị nói. Theo tính toán, mỗi ngày chị bán khoảng 140 suất gà chiên với giá 50.000 đồng/suất, tương đương doanh thu 7 triệu đồng/ngày và khoảng 210 triệu đồng mỗi tháng nếu duy trì đều.
Tuy nhiên, chi phí nguyên liệu đã chiếm 50% doanh thu, khoảng 105 triệu đồng/tháng. Tiền thuê mặt bằng 20 triệu đồng, chi phí điện – nước – gas khoảng 10 triệu đồng, lương ba nhân viên làm việc 14 tiếng mỗi ngày hơn 31,5 triệu đồng. Khấu hao đầu tư ban đầu xấp xỉ 20 triệu đồng mỗi tháng.
Với doanh thu vượt 200 triệu đồng/năm, hộ kinh doanh thuộc nhóm chịu thuế suất 4,5% trên doanh thu, tương ứng số thuế 9,45 triệu đồng mỗi tháng. Sau khi cộng tất cả các khoản chi, tổng chi phí gần 196 triệu đồng, lợi nhuận ròng chỉ còn khoảng 14,05 triệu đồng. “Khoản này chưa bao gồm chi phí quảng cáo, hoa hồng nền tảng, hao hụt nguyên liệu, hàng tồn phải bỏ, bảo hiểm xã hội bắt buộc hay sửa chữa thiết bị. Nếu tính hết thì còn thấp hơn nữa" - chị Hằng chia sẻ.
Từ những thực tế như trên, nhiều ý kiến cho rằng cần xem xét lại mức doanh thu chịu thuế để phù hợp hơn với bối cảnh chi phí vận hành ngày càng tăng, đồng thời đảm bảo chính sách thuế không tạo gánh nặng quá lớn cho nhóm hộ kinh doanh nhỏ lẻ.
Bà Yến nêu ví dụ, trường hợp một quán cơm có thuê mặt bằng, hoạt động ổn định, doanh thu khoảng 200 triệu đồng/tháng. Nếu theo quy định mới, hộ này phải nộp thuế 4,5% trên doanh thu, tương đương 9 triệu đồng/tháng.
“Với một hộ nhỏ, 9 triệu đồng tiền thuế trong tổng doanh thu 200 triệu là quá cao. Nếu khai trung thực toàn bộ doanh thu, hộ này gần như không còn khả năng xoay xở" - bà nhận xét.
Theo phân tích của bà, mức lợi nhuận của ngành hàng ăn uống thường chỉ khoảng 20%. Với doanh thu 200 triệu đồng, lợi nhuận gộp khoảng 40 triệu đồng. Nhưng số này tiếp tục phải trừ hàng loạt chi phí cố định và chi phí vận hành: Tiền mặt bằng 10–15 triệu đồng, điện nước khoảng 5 triệu đồng, chi phí bao bì – gia vị – vật tư, chi phí phục vụ và 9 triệu đồng tiền thuế.
Sau tất cả, hộ kinh doanh chỉ còn khoảng 11 triệu đồng, chưa tính công của chủ hộ và nhân viên. “Nếu tính đủ, rất nhiều trường hợp thậm chí không có lãi" - bà nói.
Không chỉ nhóm hàng ăn, bà Yến cho biết mức thuế suất theo doanh thu cũng tạo áp lực lớn đối với ngành dịch vụ. Với dịch vụ gội đầu, một salon có doanh thu 200 triệu đồng/tháng phải chịu thuế suất 7%, tương đương 14 triệu đồng tiền thuế mỗi tháng. “Đây là con số thực khi tính theo doanh thu đúng, không trốn tránh hay che giấu" - bà khẳng định.
Theo bà Yến, trước đây thuế khoán được xác định dựa trên doanh thu ước tính, nên số thuế thực tế thấp hơn nhiều: Chỉ vài trăm nghìn đến 1–2 triệu đồng/tháng. Khi chuyển sang mô hình kê khai doanh thu thật và áp thuế suất trực tiếp, mức thuế tăng mạnh, khiến nhiều hộ bất ngờ và gặp khó khăn.
“Chỉ cần doanh thu khoảng 200 triệu một tháng – tương đương 2 tỉ đồng/năm – thì mức thuế đã 9–14 triệu mỗi tháng. Đây là con số quá lớn so với khả năng chịu đựng của các hộ kinh doanh” - bà nhấn mạnh.
Bà cho rằng việc chuyển đổi sang cơ chế mới là cần thiết để minh bạch hóa quản lý thuế. Tuy nhiên, nếu không đánh giá đúng biên lợi nhuận từng ngành và mức thuế suất phù hợp, nhiều hộ sẽ rơi vào cảnh không còn động lực kinh doanh.
còn bhxh nữa