Hồ sơ vũ khí nguyên tử của phát xít Nhật

  • Tạo bởi Tạo bởi PC06
  • Start date Start date

PC06

Trâu lái đò

Điều gì sẽ xảy ra nếu Nhật Bản là nước đầu tiên sử dụng bom nguyên tử trong Chiến tranh thế giới lần 2 và điều gì xảy ra nếu nghiên cứu tuyệt mật của nước này cung cấp nguồn lực cho mối đe dọa hạt nhân mà thế giới hiện đang phải đối mặt?

Đây là một số câu hỏi hóc búa trong cuốn sách gây tranh cãi của Robert K. Wilcox, “Cuộc chiến bí mật của Nhật Bản”, được xuất bản lần đầu tiên tại Mỹ vào năm 1995. Đó là cuốn sách lần đầu tiên xuất hiện ở Nhật Bản khi thế giới tưởng niệm 74 năm vụ đánh bom ở Hiroshima và Nagasaki.

Quả bom nguyên tử của Nhật Bản và kế hoạch đánh bom nước Mỹ


Robert K. Wilcox là tác giả một số cuốn sách về các bí ẩn trong lịch sử và thuyết âm mưu - từ Tấm vải liệm thành Torino đến vụ ám sát Kennedy.

Nhưng trong gần 24 năm kể từ lần xuất bản đầu tiên của “Cuộc chiến bí mật của Nhật Bản", với lời dẫn rằng "Làm cách nào để Nhật Bản chạy đua với thời gian để chế tạo quả bom của riêng mình”, tác giả người Mỹ tiếp tục nghiên cứu chương trình nguyên tử trong Chiến tranh thế giới lần 2 của Nhật Bản dựa vào các cuộc phỏng vấn trực tiếp với các nhà khoa học của đất nước này làm việc trong dự án vũ khí tối thượng, nói chuyện với giới quan chức Mỹ, thu thập các tài liệu được phân loại và giải mật từ nhiều quốc gia.

Wilcox lưu ý rằng giới quan chức Mỹ đã giúp Nhật Bản che đậy một số tội ác chiến tranh khủng khiếp, bao gồm các thí nghiệm sinh học tàn khốc với các tù nhân chiến tranh. Ông lập luận rằng chính phủ Mỹ cũng có thể đã giữ bí mật phần lớn những gì họ biết về chương trình hạt nhân của Nhật Bản.

Theo Wilcox, giới lãnh đạo và các nhà khoa học Nhật Bản “đã cam kết tạo ra một thiết bị như vậy” tại một thời điểm khi họ và các quốc gia khác “chạy đua nhau tạo ra vũ khí hạt nhân đầu tiên trong lịch sử. Mặc dù thất bại nhưng Nhật Bản đã tiến gần đến thành công hơn những gì mà lịch sử ghi nhận”.

thumb_660_53f0f067-1589-4ebb-b9b6-5e7f4be020d3.jpg
[td]Bức ảnh chụp từ trên không của thành phố Hiroshima, Nhật Bản, ngay sau khi quả bom nguyên tử “Little Boy” thả xuống.[/td]

Wilcox đưa ra một trường hợp Nhật Bản kích nổ thành công một thiết bị nguyên tử gần với khu vực gọi là Konan của CHDCND Triều Tiên vào khoảng ngày 12-8-1945, tức 6 ngày sau khi Hiroshima bị ném bom nguyên tử (vào ngày 6-8, giết chết hơn 90.000 dân thường) và vài ngày sau vụ ném bom nguyên tử xuống Nagasaki (vào ngày 9-8, giết chết ít nhất 40.000 người).

Quyết định chấp nhận đầu hàng vô điều kiện của Nhật Bản vào ngày 15-8, theo Wilcox, được đưa ra sau cuộc thử nghiệm bom nguyên tử của chính mình và có lẽ, họ cũng nhận ra rằng đã quá muộn để trả đũa bằng cùng loại vũ khí hủy diệt! Người Mỹ rất có khả năng nhận thức được rằng Nhật Bản đang cố gắng phát triển vũ khí nguyên tử vào đầu năm 1945.

Vào tháng 2-1945, nội bộ tổ chức OSS (tiền thân của Cục Tình báo trung ương Mỹ - CIA) lưu hành một báo cáo về một trong những chất thải nguyên tử được sử dụng để chống lại máy bay Đồng minh.

Vài tháng sau, các nguồn tin tình báo Đồng minh đệ trình một báo cáo khác về chuyện một nhà khoa học Nhật Bản thông báo trước Quý tộc viện (Quốc hội Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới lần 2) rằng ông là người đã nghiên cứu thành công một thứ vũ khí mạnh mẽ đến mức nó sẽ cần rất ít năng lượng tiềm năng để tiêu diệt hạm đội địch trong một vài khoảnh khắc.

Rõ ràng, giới chức Mỹ biết nhà khoa học này đang nói về một quả bom nguyên tử. Vì vậy, khi một tàu ngầm của Đức Quốc xã bị bắt sống vào tháng 5-1945 được cho là mang theo nửa tấn uranium tới Nhật Bản, người Mỹ đã rất hoảng hốt.

Sau khi chiến tranh kết thúc, các quan chức tình báo biết rằng quân đội Nhật Bản, ngay trước khi họ đầu hàng, đã thực sự phát triển và thử nghiệm thành công một thiết bị nguyên tử. Dự án được cho là triển khai tại (hoặc gần) Konan (tên tiếng Nhật của Hungnam), trên bờ biển ở phía bắc của bán đảo Triều Tiên.

Vấn đề càng trở nên tồi tệ hơn khi vào cuối năm 1945, Liên Xô – lúc này vẫn chưa có bom nguyên tử - đã có được phần lớn bán đảo Triều Tiên ở phía bắc vĩ tuyến 38 và kiểm soát nhà máy nơi bom nguyên tử của phát xít Nhật được phát triển!

3de6257e-1503-4d8e-9053-5aaff441031a.jpg
[td]Ông David Snell.[/td]

Vào mùa hè năm 1946, phóng viên David Snell đã viết về quả bom nguyên tử của phát xít Nhật một cách công khai trên tạp chí Hiến pháp Atlanta của Mỹ.

David Snell cho biết đã phỏng vấn một sĩ quan Nhật Bản phụ trách an ninh cho dự án bom nguyên tử. Snell viết: “Nhật Bản đã phát triển và thử nghiệm thành công một quả bom nguyên tử vào 3 ngày trước khi kết thúc chiến tranh. Thế nhưng các tài liệu bí mật và kế hoạch ném bom nguyên tử đã bị phá hủy chỉ vài giờ trước khi các đơn vị của Quân đội Liên Xô di chuyển đến Konan, nơi tiến hành dự án. Dự án sử dụng khoảng 40.000 công nhân Nhật Bản, trong đó khoảng 25.000 người là kỹ sư và nhà khoa học được đào tạo. Các công nhân bị hạn chế trong khu vực của họ. Khu biệt lập bên trong nhà máy nằm sâu trong một hang động. Ở đây chỉ có 400 chuyên gia làm việc”.

Bài viết của David Snell còn tóm tắt các mục tiêu chiến lược và chiến lược của dự án: “Khi các lực lượng đặc nhiệm mũi nhọn của Đồng minh mở rộng cuộc chiến đến gần hơn với lục địa Nhật Bản, Hải quân Nhật Bản đã tiến hành sản xuất bom nguyên tử để bảo vệ chống lại các hoạt động đổ bộ. Bom nguyên tử sẽ được sử dụng trong máy bay tự sát Kamikaze để tiêu diệt tàu của Đồng minh”.

Tuy nhiên, mọi người không biết được bao nhiêu về những nỗ lực nghiên cứu của Nhật Bản. Trong cuốn sách “Stalin và quả bom”, tác giả David Holloway cũng không đề cập đến chương trình hạt nhân của Nhật Bản. Trong khi đó, dường như phần lớn nghiên cứu của Nga được cho là dựa trên thông tin đánh cắp từ Dự án Manhattan của Mỹ.

Tuy nhiên trong cuốn sách của mình, Wilcox bắt đầu công bố nhiều tin sốt dẻo của năm 1946 và thêm nhiều chi tiết hơn. Nhật Bản đã xem xét về quả bom nguyên tử ngay từ đầu Chiến tranh thế giới lần 2 và chương trình nghiên cứu đã diễn ra vào cuối thập niên 1930. Kế hoạch ban đầu là kích nổ một quả bom nguyên tử ngay trên lục địa Mỹ.


Vào khoảng cuối năm 1942 hoặc đầu năm 1943, Thủ tướng Nhật Bản Hideki Tojo đã gọi Bộ trưởng Bộ Chiến tranh Toranosuke Kawashima đến văn phòng của ông. Ông cho biết “những dự án bom nguyên tử của Mỹ và Đức Quốc xã đang tiến triển. Nếu chúng ta đứng sau, chúng ta sẽ thua cuộc chiến”.
28b23a3a-8491-478c-83cc-02a7cce21884.jpg
[td]Cuốn sách “Cuộc chiến bí mật của Nhật Bản”, xuất bản ngày 15-8-1995.[/td]

Uranium: Con dao hai lưỡi
Các nhà khoa học Nhật Bản có kiến thức tốt về lý thuyết nguyên tử và họ biết rằng họ cần một lượng lớn uranium. Kế hoạch chế tạo bom nguyên tử bắt đầu một cách nghiêm túc và các nhà khoa học trên khắp đế chế Nhật Bản bắt đầu thực hiện dự án, đặc biệt là tại khu phức hợp Konan của CHDCND Triều Tiên khi ấy, nơi có rất nhiều năng lượng thủy điện và có thể là các mỏ uranium.

Do đó, Konan nghiễm nhiên trở thành “Los Alamos” trong “Dự án Manhattan” của Nhật Bản khi nước này bắt đầu tìm kiếm uranium trên toàn bộ đế chế của mình trước khi chuyển đến đồng minh Đức Quốc xã.

Trong Chiến tranh thế giới lần 2, Phòng thí nghiệm Quốc gia Los Alamos (Los Alamos National Laboratory, viết tắt là LANL) là nơi thực hiện Dự án Manhattan (dự án bí mật nghiên cứu sản xuất vũ khí nguyên tử).

Ba trái bom nguyên tử đầu tiên được nghiên cứu sản xuất tại đây, trong đó một quả bom được cho nổ thử nghiệm trong sa mạc Alamogordo thuộc bang New Mexico ngày 16-7-1945, còn hai quả kia ném xuống Hiroshima và Nagasaki.
Phòng thí nghiệm Quốc gia Los Alamos là một trong hai phòng thí nghiệm của Mỹ chuyên nghiên cứu chế tạo các loại vũ khí nguyên tử (còn lại là Phòng thí nghiệm Quốc gia Lawrence Livermore, thành lập năm 1952).

thumb_660_e994fa37-94c9-4051-9ded-19cc41dd9deb.png
[td]Quả bom Little Boy trong Chiến tranh thế giới lần 2.[/td]

Có những khoảnh khắc đen tối trong cuốn sách khi mô tả những nỗ lực của Nhật Bản để có đủ uranium từ đồng minh Đức Quốc xã. Yasukazu Kigoshi, chuyên gia kỹ thuật và tùy viên đại sứ quán với đội ngũ Nhật Bản tại Berlin, cho biết ban đầu Bộ Kinh tế Đức không hợp tác.

Trong cuộc phỏng vấn với Wilcox, Kigoshi nhớ lại: “Vì vậy, tôi đã rất tức giận và đã tự mình gửi một bức điện tín cho chính phủ Đức. Tôi nói với họ rằng Lý do chúng tôi cần khoáng vật pitchblende (có chứa urani) để phát triển năng lượng nguyên tử. Chúng tôi hiện đang theo Hiệp ước ba bên [thỏa thuận Trục] và cả hai chúng ta đang chiến đấu chống lại Mỹ và Anh. Vì vậy, những gì đang xảy ra mà khiến các ông không muốn hợp tác?".

Cuối cùng, Hitler trả lời sẽ cho Nhật Bản 2 tấn khoáng vật pitchblende. Đến cuối cuộc chiến, khi Đức Quốc xã sụp đổ, một chiếc tàu ngầm Đức được phái đến Nhật Bản cùng với hai sĩ quan Nhật Bản trên tàu và khoảng 600kg uranium oxide cho quân đội Nhật Bản, nếu được làm giàu thành công sẽ đủ để chế tạo một quả bom nguyên tử. Nhưng, Đức Quốc xã đã bị đánh bại và Hitler đã tự sát.

Chưa đầy một tuần sau đó con tàu đầu hàng lực lượng Đồng Minh vào ngày 14-5-1945, cách Cape Race, Newfoundland, khoảng hơn 800km. Việc phát hiện ra uranium đã gây hốt hoảng cho chính quyền Mỹ. J. Robert Oppenheimer, cha đẻ của bom nguyên tử Mỹ, được cho là đã đích thân đến kiểm tra hàng hóa. Sau đó, uranium đã được trưng dụng cho Dự án Manhattan.

Wilcox cho rằng một điều “trớ trêu” là uranium dùng để chế tạo bom nguyên tử của Nhật Bản “đã giúp Mỹ mang sự hủy diệt nguyên tử đến Nhật Bản”… với 3 quả bom ném xuống Hiroshima và Nagasaki vào tháng 8-1945.

Cuốn sách là một lịch sử


Yoshiaki Yano - người đã dịch cuốn sách Wilcox, trước đây là một tướng lĩnh lớn trong Lực lượng phòng vệ Nhật Bản và là chuyên gia nổi tiếng về răn đe hạt nhân - cũng bị thuyết phục rằng công trình mà các nhà khoa học Nhật Bản bỏ lại đã giúp tạo ra chương trình hạt nhân của một số nước khác.

Ông cũng có quan điểm rằng Nhật Bản nên có vũ khí hạt nhân riêng để phòng thủ. Rõ ràng rằng Mỹ, Liên Xô, và Trung Quốc đều phải biết sự thật về vũ khí hạt nhân của Nhật Bản. Do đó, Yano coi việc xuất bản cuốn sách là một điều tích cực.
 
Sửa lần cuối:


• ƯƠ U ƯỜ!! Chạy đê các cháu ơi! Lổ zồiiiii!! Choạy đuuueeeee… 🏃🏻‍➡️🏃🏻‍♀️‍➡️


• Khả lăng khả lăng khả lăng khả lăng khả lăng thôi thôi thôi thôi thôi (x3.14) giải tán thôi không ló lổ hết lị tiếc lắm các cháo ạ.


• [BÙMMM] Ơ ỪM… (lổ again). :vozvn (3): :vozvn (3):
 
lại chẳng lén nghiên cứu rồi, có chuyện cái là làm giàu ura lên chế bom ngay :vozvn (18):
 
Bảo vệ hay xích cổ nó lại, không chỉ nhật mà cả đức quốc xã nữa
Tính ra thì Mẽo nó thả Đức nhiều hơn, thắt cổ Nhật mạnh hơn, vì rõ ràng tiềm lực khoa học kỹ thuật của Nhật rất mạnh, không thua gì Đức hay Mỹ, tuy nhiên Đức còn có các nước Châu Âu góp phần kiềm chế, ở Châu Á thì ko có 1 quốc gia nào đủ sức kiềm chế Nhật, do đó Mẽo nó siết Nhật hơn Đức rất nhiều
 
Dạo này ko thấy bàn chánh chị chánh em. Toàn nói chuyện thế giới này lấy đéo đâu tin đi đồn hả thớt.
 
Tính ra thì Mẽo nó thả Đức nhiều hơn, thắt cổ Nhật mạnh hơn, vì rõ ràng tiềm lực khoa học kỹ thuật của Nhật rất mạnh, không thua gì Đức hay Mỹ, tuy nhiên Đức còn có các nước Châu Âu góp phần kiềm chế, ở Châu Á thì ko có 1 quốc gia nào đủ sức kiềm chế Nhật, do đó Mẽo nó siết Nhật hơn Đức rất nhiều
Mỹ đánh đức như chơi chết mấy mạng đâu. Đánh hải chiến với nhật 4 năm trời, chìm một tàu là chết mấy ngàn mạng. :vozvn (3): tàu nhiều hơn đông hơn mà đánh 4 năm mới bức de về nhật bản. Đổ bộ thì chết lần một đống
 
Có nhiều nguồn nói nhật có lượng plutonium và uranium đã làm giàu đủ để chế tạo bom hạt nhân lâu rồi.cỡ 50 tấn nguyên liệu.nếu là thật thì chắc nhật nó chế bom mẹ rồi chứ chờ gì nữa??? Quan trọng là có nhét đc vào đầu đạn tên lửa hay ko
 

Điều gì sẽ xảy ra nếu Nhật Bản là nước đầu tiên sử dụng bom nguyên tử trong Chiến tranh thế giới lần 2 và điều gì xảy ra nếu nghiên cứu tuyệt mật của nước này cung cấp nguồn lực cho mối đe dọa hạt nhân mà thế giới hiện đang phải đối mặt?

Đây là một số câu hỏi hóc búa trong cuốn sách gây tranh cãi của Robert K. Wilcox, “Cuộc chiến bí mật của Nhật Bản”, được xuất bản lần đầu tiên tại Mỹ vào năm 1995. Đó là cuốn sách lần đầu tiên xuất hiện ở Nhật Bản khi thế giới tưởng niệm 74 năm vụ đánh bom ở Hiroshima và Nagasaki.

Quả bom nguyên tử của Nhật Bản và kế hoạch đánh bom nước Mỹ


Robert K. Wilcox là tác giả một số cuốn sách về các bí ẩn trong lịch sử và thuyết âm mưu - từ Tấm vải liệm thành Torino đến vụ ám sát Kennedy.

Nhưng trong gần 24 năm kể từ lần xuất bản đầu tiên của “Cuộc chiến bí mật của Nhật Bản", với lời dẫn rằng "Làm cách nào để Nhật Bản chạy đua với thời gian để chế tạo quả bom của riêng mình”, tác giả người Mỹ tiếp tục nghiên cứu chương trình nguyên tử trong Chiến tranh thế giới lần 2 của Nhật Bản dựa vào các cuộc phỏng vấn trực tiếp với các nhà khoa học của đất nước này làm việc trong dự án vũ khí tối thượng, nói chuyện với giới quan chức Mỹ, thu thập các tài liệu được phân loại và giải mật từ nhiều quốc gia.

Wilcox lưu ý rằng giới quan chức Mỹ đã giúp Nhật Bản che đậy một số tội ác chiến tranh khủng khiếp, bao gồm các thí nghiệm sinh học tàn khốc với các tù nhân chiến tranh. Ông lập luận rằng chính phủ Mỹ cũng có thể đã giữ bí mật phần lớn những gì họ biết về chương trình hạt nhân của Nhật Bản.

Theo Wilcox, giới lãnh đạo và các nhà khoa học Nhật Bản “đã cam kết tạo ra một thiết bị như vậy” tại một thời điểm khi họ và các quốc gia khác “chạy đua nhau tạo ra vũ khí hạt nhân đầu tiên trong lịch sử. Mặc dù thất bại nhưng Nhật Bản đã tiến gần đến thành công hơn những gì mà lịch sử ghi nhận”.

thumb_660_53f0f067-1589-4ebb-b9b6-5e7f4be020d3.jpg
[td]Bức ảnh chụp từ trên không của thành phố Hiroshima, Nhật Bản, ngay sau khi quả bom nguyên tử “Little Boy” thả xuống.[/td]

Wilcox đưa ra một trường hợp Nhật Bản kích nổ thành công một thiết bị nguyên tử gần với khu vực gọi là Konan của CHDCND Triều Tiên vào khoảng ngày 12-8-1945, tức 6 ngày sau khi Hiroshima bị ném bom nguyên tử (vào ngày 6-8, giết chết hơn 90.000 dân thường) và vài ngày sau vụ ném bom nguyên tử xuống Nagasaki (vào ngày 9-8, giết chết ít nhất 40.000 người).

Quyết định chấp nhận đầu hàng vô điều kiện của Nhật Bản vào ngày 15-8, theo Wilcox, được đưa ra sau cuộc thử nghiệm bom nguyên tử của chính mình và có lẽ, họ cũng nhận ra rằng đã quá muộn để trả đũa bằng cùng loại vũ khí hủy diệt! Người Mỹ rất có khả năng nhận thức được rằng Nhật Bản đang cố gắng phát triển vũ khí nguyên tử vào đầu năm 1945.

Vào tháng 2-1945, nội bộ tổ chức OSS (tiền thân của Cục Tình báo trung ương Mỹ - CIA) lưu hành một báo cáo về một trong những chất thải nguyên tử được sử dụng để chống lại máy bay Đồng minh.

Vài tháng sau, các nguồn tin tình báo Đồng minh đệ trình một báo cáo khác về chuyện một nhà khoa học Nhật Bản thông báo trước Quý tộc viện (Quốc hội Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới lần 2) rằng ông là người đã nghiên cứu thành công một thứ vũ khí mạnh mẽ đến mức nó sẽ cần rất ít năng lượng tiềm năng để tiêu diệt hạm đội địch trong một vài khoảnh khắc.

Rõ ràng, giới chức Mỹ biết nhà khoa học này đang nói về một quả bom nguyên tử. Vì vậy, khi một tàu ngầm của Đức Quốc xã bị bắt sống vào tháng 5-1945 được cho là mang theo nửa tấn uranium tới Nhật Bản, người Mỹ đã rất hoảng hốt.

Sau khi chiến tranh kết thúc, các quan chức tình báo biết rằng quân đội Nhật Bản, ngay trước khi họ đầu hàng, đã thực sự phát triển và thử nghiệm thành công một thiết bị nguyên tử. Dự án được cho là triển khai tại (hoặc gần) Konan (tên tiếng Nhật của Hungnam), trên bờ biển ở phía bắc của bán đảo Triều Tiên.

Vấn đề càng trở nên tồi tệ hơn khi vào cuối năm 1945, Liên Xô – lúc này vẫn chưa có bom nguyên tử - đã có được phần lớn bán đảo Triều Tiên ở phía bắc vĩ tuyến 38 và kiểm soát nhà máy nơi bom nguyên tử của phát xít Nhật được phát triển!

3de6257e-1503-4d8e-9053-5aaff441031a.jpg
[td]Ông David Snell.[/td]

Vào mùa hè năm 1946, phóng viên David Snell đã viết về quả bom nguyên tử của phát xít Nhật một cách công khai trên tạp chí Hiến pháp Atlanta của Mỹ.

David Snell cho biết đã phỏng vấn một sĩ quan Nhật Bản phụ trách an ninh cho dự án bom nguyên tử. Snell viết: “Nhật Bản đã phát triển và thử nghiệm thành công một quả bom nguyên tử vào 3 ngày trước khi kết thúc chiến tranh. Thế nhưng các tài liệu bí mật và kế hoạch ném bom nguyên tử đã bị phá hủy chỉ vài giờ trước khi các đơn vị của Quân đội Liên Xô di chuyển đến Konan, nơi tiến hành dự án. Dự án sử dụng khoảng 40.000 công nhân Nhật Bản, trong đó khoảng 25.000 người là kỹ sư và nhà khoa học được đào tạo. Các công nhân bị hạn chế trong khu vực của họ. Khu biệt lập bên trong nhà máy nằm sâu trong một hang động. Ở đây chỉ có 400 chuyên gia làm việc”.

Bài viết của David Snell còn tóm tắt các mục tiêu chiến lược và chiến lược của dự án: “Khi các lực lượng đặc nhiệm mũi nhọn của Đồng minh mở rộng cuộc chiến đến gần hơn với lục địa Nhật Bản, Hải quân Nhật Bản đã tiến hành sản xuất bom nguyên tử để bảo vệ chống lại các hoạt động đổ bộ. Bom nguyên tử sẽ được sử dụng trong máy bay tự sát Kamikaze để tiêu diệt tàu của Đồng minh”.

Tuy nhiên, mọi người không biết được bao nhiêu về những nỗ lực nghiên cứu của Nhật Bản. Trong cuốn sách “Stalin và quả bom”, tác giả David Holloway cũng không đề cập đến chương trình hạt nhân của Nhật Bản. Trong khi đó, dường như phần lớn nghiên cứu của Nga được cho là dựa trên thông tin đánh cắp từ Dự án Manhattan của Mỹ.

Tuy nhiên trong cuốn sách của mình, Wilcox bắt đầu công bố nhiều tin sốt dẻo của năm 1946 và thêm nhiều chi tiết hơn. Nhật Bản đã xem xét về quả bom nguyên tử ngay từ đầu Chiến tranh thế giới lần 2 và chương trình nghiên cứu đã diễn ra vào cuối thập niên 1930. Kế hoạch ban đầu là kích nổ một quả bom nguyên tử ngay trên lục địa Mỹ.


Vào khoảng cuối năm 1942 hoặc đầu năm 1943, Thủ tướng Nhật Bản Hideki Tojo đã gọi Bộ trưởng Bộ Chiến tranh Toranosuke Kawashima đến văn phòng của ông. Ông cho biết “những dự án bom nguyên tử của Mỹ và Đức Quốc xã đang tiến triển. Nếu chúng ta đứng sau, chúng ta sẽ thua cuộc chiến”.
28b23a3a-8491-478c-83cc-02a7cce21884.jpg
[td]Cuốn sách “Cuộc chiến bí mật của Nhật Bản”, xuất bản ngày 15-8-1995.[/td]

Uranium: Con dao hai lưỡi
Các nhà khoa học Nhật Bản có kiến thức tốt về lý thuyết nguyên tử và họ biết rằng họ cần một lượng lớn uranium. Kế hoạch chế tạo bom nguyên tử bắt đầu một cách nghiêm túc và các nhà khoa học trên khắp đế chế Nhật Bản bắt đầu thực hiện dự án, đặc biệt là tại khu phức hợp Konan của CHDCND Triều Tiên khi ấy, nơi có rất nhiều năng lượng thủy điện và có thể là các mỏ uranium.

Do đó, Konan nghiễm nhiên trở thành “Los Alamos” trong “Dự án Manhattan” của Nhật Bản khi nước này bắt đầu tìm kiếm uranium trên toàn bộ đế chế của mình trước khi chuyển đến đồng minh Đức Quốc xã.

Trong Chiến tranh thế giới lần 2, Phòng thí nghiệm Quốc gia Los Alamos (Los Alamos National Laboratory, viết tắt là LANL) là nơi thực hiện Dự án Manhattan (dự án bí mật nghiên cứu sản xuất vũ khí nguyên tử).

Ba trái bom nguyên tử đầu tiên được nghiên cứu sản xuất tại đây, trong đó một quả bom được cho nổ thử nghiệm trong sa mạc Alamogordo thuộc bang New Mexico ngày 16-7-1945, còn hai quả kia ném xuống Hiroshima và Nagasaki.
Phòng thí nghiệm Quốc gia Los Alamos là một trong hai phòng thí nghiệm của Mỹ chuyên nghiên cứu chế tạo các loại vũ khí nguyên tử (còn lại là Phòng thí nghiệm Quốc gia Lawrence Livermore, thành lập năm 1952).

thumb_660_e994fa37-94c9-4051-9ded-19cc41dd9deb.png
[td]Quả bom Little Boy trong Chiến tranh thế giới lần 2.[/td]

Có những khoảnh khắc đen tối trong cuốn sách khi mô tả những nỗ lực của Nhật Bản để có đủ uranium từ đồng minh Đức Quốc xã. Yasukazu Kigoshi, chuyên gia kỹ thuật và tùy viên đại sứ quán với đội ngũ Nhật Bản tại Berlin, cho biết ban đầu Bộ Kinh tế Đức không hợp tác.

Trong cuộc phỏng vấn với Wilcox, Kigoshi nhớ lại: “Vì vậy, tôi đã rất tức giận và đã tự mình gửi một bức điện tín cho chính phủ Đức. Tôi nói với họ rằng Lý do chúng tôi cần khoáng vật pitchblende (có chứa urani) để phát triển năng lượng nguyên tử. Chúng tôi hiện đang theo Hiệp ước ba bên [thỏa thuận Trục] và cả hai chúng ta đang chiến đấu chống lại Mỹ và Anh. Vì vậy, những gì đang xảy ra mà khiến các ông không muốn hợp tác?".

Cuối cùng, Hitler trả lời sẽ cho Nhật Bản 2 tấn khoáng vật pitchblende. Đến cuối cuộc chiến, khi Đức Quốc xã sụp đổ, một chiếc tàu ngầm Đức được phái đến Nhật Bản cùng với hai sĩ quan Nhật Bản trên tàu và khoảng 600kg uranium oxide cho quân đội Nhật Bản, nếu được làm giàu thành công sẽ đủ để chế tạo một quả bom nguyên tử. Nhưng, Đức Quốc xã đã bị đánh bại và Hitler đã tự sát.

Chưa đầy một tuần sau đó con tàu đầu hàng lực lượng Đồng Minh vào ngày 14-5-1945, cách Cape Race, Newfoundland, khoảng hơn 800km. Việc phát hiện ra uranium đã gây hốt hoảng cho chính quyền Mỹ. J. Robert Oppenheimer, cha đẻ của bom nguyên tử Mỹ, được cho là đã đích thân đến kiểm tra hàng hóa. Sau đó, uranium đã được trưng dụng cho Dự án Manhattan.

Wilcox cho rằng một điều “trớ trêu” là uranium dùng để chế tạo bom nguyên tử của Nhật Bản “đã giúp Mỹ mang sự hủy diệt nguyên tử đến Nhật Bản”… với 3 quả bom ném xuống Hiroshima và Nagasaki vào tháng 8-1945.

Cuốn sách là một lịch sử


Yoshiaki Yano - người đã dịch cuốn sách Wilcox, trước đây là một tướng lĩnh lớn trong Lực lượng phòng vệ Nhật Bản và là chuyên gia nổi tiếng về răn đe hạt nhân - cũng bị thuyết phục rằng công trình mà các nhà khoa học Nhật Bản bỏ lại đã giúp tạo ra chương trình hạt nhân của một số nước khác.

Ông cũng có quan điểm rằng Nhật Bản nên có vũ khí hạt nhân riêng để phòng thủ. Rõ ràng rằng Mỹ, Liên Xô, và Trung Quốc đều phải biết sự thật về vũ khí hạt nhân của Nhật Bản. Do đó, Yano coi việc xuất bản cuốn sách là một điều tích cực.
Nhật cực kỳ thiếu điện không đủ năng lực để làm giàu U đến ngưỡng vũ khí đâu. Nhật bản chất vẫn là người khổng lồ chân đất sét năng lực công nghiệp cực kỳ hạn chế và trừ một số ít nhà máy quốc phòng thì còn lại vẫn là các xưởng thủ công nhỏ lẻ và nông nghiệp. Năng lực sản xuất công nghiệp của Nhật thuộc top bét cường quốc.
 
Nhật cực kỳ thiếu điện không đủ năng lực để làm giàu U đến ngưỡng vũ khí đâu. Nhật bản chất vẫn là người khổng lồ chân đất sét năng lực công nghiệp cực kỳ hạn chế và trừ một số ít nhà máy quốc phòng thì còn lại vẫn là các xưởng thủ công nhỏ lẻ và nông nghiệp. Năng lực sản xuất công nghiệp của Nhật thuộc top bét cường quốc.
Nó chế được tàu sân nay từ hơn 70 năm trước, tự xây nhà máy điện hạt nhân, độc quyền công nghệ cốt lõi trong 1 số ngành tiên tiến nhất TG hiện nay như công nghệ bán dẫn, mà bảo nó thiếu điện, nền kinh tế thủ công nhỏ lẻ, đéo có năng lực sản xuất vũ khí hạt nhân thì cũng chịu.
 



• ƯƠ U ƯỜ!! Chạy đê các cháu ơi! Lổ zồiiiii!! Choạy đuuueeeee… 🏃🏻‍➡️🏃🏻‍♀️‍➡️


• Khả lăng khả lăng khả lăng khả lăng khả lăng thôi thôi thôi thôi thôi (x3.14) giải tán thôi không ló lổ hết lị tiếc lắm các cháo ạ.


• [BÙMMM] Ơ ỪM… (lổ again). :vozvn (3): :vozvn (3):
Má cái video hài hết táo bón
 
Bài này tao copy của fb Rùa tiên sinh, anh em đọc chơi thôi, vì không có trích dẫn nguồn.
Lá cờ Hinomaru - biểu tượng kinh hoàng của hải quân Đế Quốc Nhật sẽ bay trở lại khắp tây thái bình dương và biển Hoa Đông, lần này đối thủ của nó không phải hải quân Hoa Kỳ mà nó là Trung Hoa Đại Lục

Những đồng minh trung kiên
Tập 2 : Nhật Bản , đồng minh quan trọng nhất ở Đông Á , Quốc gia dân chủ thịnh vượng nhất Châu Á .

Bài viết này không đề cập đến vị trí đại lý hay tầm quan trọng địa chiến lược của Nhật Bản đối với Hoa Kỳ nữa , vì em viết nhiều quá rồi và các cụ cũng hiểu rõ về vấn đề đó rồi , bài này chỉ nói về lịch sử .

Nhật bản ngày nay là 1 trong những trụ cột kinh tế lớn nhất thế giới , độ giàu có của Nhật Bản đã có lúc đứng thứ 2 thế giới sau Hoa Kỳ , Hiện Tại Nhật là nền kinh tế lớn thứ 4 thế giới khi Đức vượt qua Nhật vào năm 2023 , là 1 trong 7 nước có nền công nghiệp phát triển cao nhất G7 , sức mạnh kinh tế và uy tín của Nhật Bản luôn đứng top các quốc gia thân thiện sau chiến tranh thế giới thứ 2 . Đây là quốc gia châu Á đầu tiên hiện đại hóa và làm phương Tây ngạc nhiên. Điều này chứng minh sức mạnh của Nhật Bản. Napoleon đã từng nói rằng chúng ta nên để Trung Quốc ngủ, vì một ngày nào đó họ sẽ làm rung chuyển thế giới. Tuy nhiên, Nhật Bản mới là gã khổng lồ thực sự đang ngủ, vì họ đã trở thành một trong những nền văn hóa tư bản có ảnh hưởng nhất trên thế giới. Toàn bộ lịch sử hiện đại của Đông Á đều bắt nguồn từ Nhật Bản.

Sức mạnh quốc phòng của Nhật bản được cho là ngang bằng với Trung Quốc và 1 số tiêu chí còn vượt qua Trung Quốc , mức độ hiện đại hoá trong cấu trúc quân sự của Nhật là đứng đầu Châu Á . Có thể nói , Hải quân Nhật Bản đã kế thừa kinh nghiệm chiến tranh Thái Bình Dương để hiện nay là lực lượng hải quân giàu kinh nghiệm , chuyên nghiệp , hiện đại chỉ thua mỗi hải quân Hoa Kỳ .

Là 1 quốc gia đầu tiên và duy nhất đến thời điểm này chịu 1 cuộc tấn công trực tiếp bằng Vũ khí Hạt nhân của Mỹ , nhưng không vì thế mà Hoa Kỳ và Nhật Bản trở thành kẻ thù truyền kiếp , NHật Bản với 1 nền công nghiệp siêu tiến bộ , trình độ khoa học kỹ thuật cực cao trên mọi lĩnh vực từ không gian đến nghiên cứu nông nghiệp , Nhật Bản hoàn toàn có thể tạo ra 2000 đầu đạn hạt nhân chỉ trong 2 năm mà không hề gặp khó khăn nào về mặt công nghệ .

Cùng nhìn lại những nốt thăng trầm của quan hệ đồng minh Nhật – Hoa Kỳ , đi từ lịch sử để hiểu rõ hiện tại ….

Sau khi chịu thương vong thảm khốc từ tay nhau trong Thế chiến 2 , Hoa Kỳ và Nhật Bản đã có thể tạo nên một liên minh ngoại giao hậu chiến vững mạnh. Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ vẫn coi mối quan hệ Mỹ-Nhật là "nền tảng của lợi ích an ninh của Hoa Kỳ ở Châu Á và... cơ bản cho sự ổn định và thịnh vượng của khu vực". Nhật Bản là chốt chặn và là hòn đá tảng trong chính sách an ninh của Mỹ ở Châu Á .

Nửa Thái Bình Dương của Thế chiến 2 , bắt đầu bằng cuộc tấn công của Nhật Bản vào căn cứ hải quân Hoa Kỳ tại Trân Châu Cảng, Hawaii, vào ngày 7 tháng 12 năm 1941, đã kết thúc gần bốn năm sau đó khi Nhật Bản đầu hàng quân Đồng minh do Hoa Kỳ lãnh đạo vào ngày 2 tháng 9 năm 1945. Sự đầu hàng diễn ra sau khi Hoa Kỳ thả hai quả bom nguyên tử xuống Nhật Bản . Nhật Bản đã mất khoảng 3 triệu người trong cuộc chiến .

Quan hệ ngay sau chiến tranh

Các đồng minh chiến thắng đặt Nhật Bản dưới sự kiểm soát của quốc tế. Tướng Douglas MacArthur của Hoa Kỳ là chỉ huy tối cao cho công cuộc tái thiết Nhật Bản. Mục tiêu tái thiết là tự quản dân chủ, ổn định kinh tế và chung sống hòa bình của Nhật Bản với cộng đồng các quốc gia.

Hoa Kỳ cho phép Nhật Bản giữ lại hoàng đế của mình - Hirohito - sau chiến tranh. Tuy nhiên, Hirohito đã phải từ bỏ thần tính của mình và công khai ủng hộ hiến pháp mới của Nhật Bản. Đây thực sự là nước đi vô cùng khôn ngoan của tướng MacArthur , Hoàng Đế Hirohito đã đoàn kết dân tộc Nhật Bản vực dậy sau những chia rẽ về đạo đức và sự thù hằn khi bị Hoa Kỳ khuất phục bằng sức mạnh .
Theo Hiến pháp Minh Trị, hoàng đế nắm toàn quyền kiểm soát quân đội. Trên cơ sở đó, có ý kiến rằng Hoàng Đế Hirohito nên bị xét xử vì tội ác chiến tranh do quân đội Nhật Bản gây ra trong Thế chiến 2. Ngoài ra, Hirohito đã đích thân cho phép sử dụng vũ khí hóa học trong Trận chiến Vũ Hán vào tháng 10 năm 1938, cùng với các hành vi vi phạm luật pháp quốc tế khác.

Tuy nhiên, Hoa Kỳ lo sợ rằng những người theo chủ nghĩa quân phiệt cứng đầu sẽ chuyển sang chiến tranh du kích nếu hoàng đế bị phế truất và bị đưa ra xét xử. Hoa Kỳ quyết định rằng họ cần Hirohito.Tuy nhiên, Hirohito đã phải đưa ra một nhượng bộ lớn. Ông phải từ chối rõ ràng địa vị thần thánh của mình; sự từ bỏ thần thánh này không có nhiều tác động bất mãn trong nước Nhật, chiến dịch bình định của Hoa Kỳ đối với Nhật Bản là thành công hậu chiến tranh lớn nhất và tốt nhất của Hoa Kỳ trong thời kì chiến tranh lạnh. Có thể nói không quá rằng , 1 tay tướng Douglas MacArthur đã hồi sinh nước nhật từ đạo đức đến kinh tế .Không lạ gì đến giờ người dân Nhật vẫn xem Douglas MacArthur là 1 trong những người tạo dựng nước Nhật hiện đại, là nhân vật có ảnh hưởng nhất đến tiến trình lịch sử phát triển của quan hệ Mỹ - Nhật .

Hiến pháp Nhật Bản được Hoa Kỳ thông qua đã trao toàn quyền tự do cho công dân, thành lập Quốc Hội và tước bỏ khả năng gây chiến của Nhật Bản.

Điều 9 của hiến pháp, rõ ràng là một mệnh lệnh và phản ứng của Hoa Kỳ đối với chiến tranh. Nó viết, "Với mong muốn chân thành về một nền hòa bình quốc tế dựa trên công lý và trật tự, nhân dân Nhật Bản mãi mãi từ bỏ chiến tranh như một quyền chủ quyền của quốc gia và việc đe dọa hoặc sử dụng vũ lực như một phương tiện để giải quyết các tranh chấp quốc tế.Để đạt được mục đích này, lực lượng trên bộ, trên biển và trên không, cũng như các tiềm lực chiến tranh khác, sẽ không bao giờ được duy trì. Quyền tham chiến của quốc gia sẽ không được công nhận."

Hiến pháp hậu chiến của Nhật Bản chính thức có hiệu lực vào ngày 3 tháng 5 năm 1947 và công dân Nhật Bản đã bầu ra một cơ quan lập pháp mới. Hoa Kỳ và các đồng minh khác đã ký một hiệp ước hòa bình tại San Francisco chính thức chấm dứt chiến tranh vào năm 1951.

Thỏa thuận an ninh

Với một hiến pháp không cho phép Nhật Bản tự vệ, Hoa Kỳ phải gánh vác trách nhiệm đó. Các mối đe dọa của ******** trong Chiến tranh Lạnh là rất thực tế, và quân đội Hoa Kỳ đã sử dụng Nhật Bản làm căn cứ để chống lại sự xâm lược của ******** ở Hàn Quốc . Do đó, Hoa Kỳ đã dàn xếp thỏa thuận an ninh đầu tiên trong một loạt các thỏa thuận với Nhật Bản.

Đồng thời với hiệp ước San Francisco, Nhật Bản và Hoa Kỳ đã ký hiệp ước an ninh đầu tiên. Trong hiệp ước, Nhật Bản cho phép Hoa Kỳ đóng quân lục quân, hải quân và không quân tại Nhật Bản để phòng thủ.

Năm 1954, Quốc hội Nhật Bản bắt đầu thành lập lực lượng tự vệ trên bộ, trên không và trên biển của Nhật Bản. Lực lượng JDSF về cơ bản là một phần của lực lượng cảnh sát địa phương do những hạn chế của hiến pháp. Tuy nhiên, họ đã hoàn thành nhiệm vụ với lực lượng Hoa Kỳ ở Trung Đông như một phần của Chiến tranh chống khủng bố.
Hoa Kỳ cũng bắt đầu trả lại một số phần của các đảo Nhật Bản cho Nhật Bản để kiểm soát lãnh thổ. Mỹ đã trả lại lãnh thổ cho Nhật một cách dần dần, trả lại một phần của quần đảo Ryukyu vào năm 1953, quần đảo Bonins vào năm 1968 và Okinawa vào năm 1972.

Giai đoạn sau hiệp ước San Francisco được đặc trưng bởi sự hợp tác chặt chẽ giữa hai nước, với 47.000 quân nhân Hoa Kỳ vẫn ở lại Nhật Bản theo lời mời của Nhật Bản. Hợp tác kinh tế cũng đóng vai trò lớn trong mối quan hệ với Hoa Kỳ khi cung cấp cho Nhật Bản một lượng viện trợ đáng kể trong thời kỳ hậu chiến khi Nhật Bản trở thành đồng minh trong Chiến tranh Lạnh . Quan hệ đối tác này đã dẫn đến sự tái xuất hiện của nền kinh tế Nhật Bản, vẫn là một trong những nền kinh tế mạnh nhất trên thế giới .

Nhật bản là quốc gia hiếm hoi ở Châu Á và Đông Á không hề chịu sự tác động của chủ Nghĩa Thực Dân Châu Âu , không có 1 nước Châu Âu nào xâm lược và đô hộ được Nhật Bản . Từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 20, nhiều quốc gia châu Âu đã lên đường chinh phục thế giới . Họ chiếm đất đai ở Bắc và Nam Mỹ, Úc và New Zealand, Châu Phi và Châu Á làm thuộc địa. Tuy nhiên, một số quốc gia đã có thể chống lại sự thôn tính, thông qua địa hình hiểm trở, chiến đấu dữ dội, ngoại giao khéo léo hoặc thiếu nguồn tài nguyên hấp dẫn , Đối mặt với mối đe dọa từ sự xâm lược của phương Tây, Nhật Bản thời Tokugawa đã phản ứng bằng cách hoàn toàn cách mạng hóa các cấu trúc xã hội và chính trị của mình trong cuộc Duy tân Minh Trị năm 1868. Đến năm 1895, Nhật Bản đã có thể đánh bại cường quốc Đông Á trước đây là nhà Thanh Trung Quốc trong Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ nhất . Nhật Bản thời Minh Trị đã làm kinh ngạc Nga và các cường quốc châu Âu khác vào năm 1905 khi giành chiến thắng trong Chiến tranh Nga-Nhật . Nhật Bản tiếp tục sáp nhập Triều Tiên và Mãn Châu , rồi chiếm giữ phần lớn châu Á trong Thế chiến II. Thay vì bị thực dân hóa, Nhật Bản đã trở thành một cường quốc đế quốc theo đúng nghĩa của nó.

Tất cả các quốc gia ở Đông Nam Á đều chịu cảnh bị thực dân hoá , xin nói qua 1 chút về Thái Lan , 1 quốc gia duy nhất ở khu vực đã khéo léo thoát ra được cảnh bị thực dân Châu Âu thuộc địa hoá . Việt Nam đâu có khéo léo được như Thái Lan ? Nếu VN khéo léo thì đã không bị pháp đè đầu 80 năm .

Vào cuối thế kỷ 19, Vương quốc Xiêm thấy mình ở trong một vị thế khó xử giữa các thuộc địa của đế quốc Pháp- Đông Dương thuộc Pháp (nay là Việt Nam, Campuchia và Lào) ở phía đông và Miến Điện thuộc Anh (nay là Myanmar ) ở phía tây. Vua Xiêm Chulalongkorn Đại đế, còn được gọi là Rama V (trị vì 1868–1910), đã xoay xở để chống lại cả người Pháp và người Anh thông qua ngoại giao khéo léo. Ông đã áp dụng nhiều phong tục châu Âu và rất quan tâm đến các công nghệ châu Âu. Ông cũng chơi trò Anh và Pháp chống lại nhau, bảo vệ hầu hết lãnh thổ của Xiêm và nền độc lập của nước này. Chính vì tầm nhìn khôn khéo này mà Thái Lan đã thoát ách đô hộ của Châu Âu , 1 nước đi đến bây giờ vẫn là mẫu mực của chính sách ngoại giao Thái Lan .

Hiện tại và tương lai .

Hoa Kỳ và Nhật bản sẽ tiếp tục vai trò chủ chốt ở Châu Á bên cạnh sự nổi lên của Úc, Hàn Quốc và 1 phần Ấn Độ .Tầm quan trọng của mối quan hệ Nhật Bản-Hoa Kỳ rõ ràng sẽ không giảm đi theo thời gian. Sức mạnh kinh tế của - Nhật Bản và Hoa Kỳ cùng nhau chiếm tới 40% toàn bộ nền kinh tế toàn cầu - và trong lĩnh vực ODA, một lần nữa chúng ta thấy hai quốc gia này cung cấp khoảng 40% tổng số toàn cầu. Tuy nhiên liên minh Mỹ - Nhật có nhiều điểm chung hơn là chỉ sức mạnh kinh tế. Cả 2 chia sẻ các giá trị cốt lõi của tự do, dân chủ và niềm tin vào nền kinh tế thị trường, là những đồng minh vững chắc và đáng tin cậy trong các lĩnh vực an ninh và quốc phòng. Sức mạnh của liên minh này càng đáng kinh ngạc hơn khi chúng ta nhận ra nó đã phát triển nhanh như thế nào. 150 năm trước, Nhật Bản và Hoa Kỳ về cơ bản là những người hoàn toàn xa lạ với nhau.Hơn 100 năm trước, không ai khác ngoài Tổng thống Teddy Roosevelt đã để làm trung gian hòa giải giữa Nhật Bản và Nga, những nước đang trong tình trạng chiến tranh.
Nhật Bản và Hoa Kỳ đã hợp tác với nhau chỉ trong nữa thế kỷ những đạt được mức độ thân thiện chưa từng có , trên thực tế, họ cũng là những cường quốc toàn cầu trong lĩnh vực văn hóa. Sự hòa trộn giữa văn hóa Nhật Bản và Mỹ đã tạo ra một nền văn hóa toàn cầu mới đặc trưng bởi văn hoá phim ảnh và truyện tranh .

Bước vào thế kỷ 21, nhất là những năm gần đây, địa chính trị, cán cân sức mạnh và trật tự khu vực biến đổi nhanh chóng với nhân tố trung tâm là sự trỗi dậy ngày càng theo xu hướng xét lại trật tự khu vực của Trung Quốc. Từ đó, Chính quyền Obama đã tuyên bố chính sách “xoay trục”, “tái cân bằng” về châu Á với một mục tiêu quan trọng là kiềm chế Trung Quốc trở thành một bá quyền khu vực, đảm bảo duy trì vị thế nổi bật của Mỹ. Trong khi đó, Nhật Bản vốn không là người chơi địa chính trị tích cực và thiên hướng chính sách của hầu hết các thủ tướng Nhật sau chiến tranh Lạnh là “Trở lại châu Á” và độc lập hơn với Mỹ. Những định hướng hợp tác an ninh trong “Bản Định hướng sửa đổi hợp tác quốc phòng Mỹ – Nhật” được công bố tháng 5 – 2015 nhân chuyến thăm Mỹ của Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe được xem là có tính đột phá, sâu rộng chưa từng có và có ảnh hưởng sâu rộng tới an ninh khu vực về dài hạn. Theo đó, hợp tác quốc phòng của liên minh Mỹ – Nhật hiện không chỉ mang tính phòng vệ và ở phạm vi khu vực mà mang bản chất toàn cầu cả về khía cạnh phạm vi địa lý và chức năng. Tầm nhìn an ninh khu vực của liên minh Mỹ – Nhật được thể hiện qua văn bản này bao gồm sự bành trướng sức mạnh và tham vọng khu vực của Trung Quốc, hòa bình và ổn định trên bán đảo Triều Tiên, sự ổn định của quan hệ Nga-Nhật và thúc đẩy các cơ chế an ninh đa phương khu vực . Trong đó, Mỹ – Nhật nhấn mạnh mối quan tâm và lợi ích chung trong việc ngăn chặn và đối phó với nguy cơ Trung Quốc bá quyền khu vực như một liên minh thay vì riêng rẽ .

Khi Trump triển khai chiến lược Ấn Độ – TBD, Nhật Bản đã thúc đẩy sửa đổi Hiến pháp năm 1947 nhằm thực hiện “chính sách hòa bình tích cực”, theo đó, Nhật Bản gia tăng ngân sách quốc phòng, tăng cường sức mạnh và hiện đại hóa quân đội, diễn giải Điều 9 Hiến Pháp về “quyền phòng vệ tập thể” bên ngoài lãnh thổ. Nhật Bản đã tích cực hỗ trợ chiến lược “Ấn Độ – TBD” của Mỹ cả về song phương và đa phương, nhất là trong việc phối hợp chiến lược trong bộ tứ Mỹ – Nhật – Australia – Ấn. Những động thái đó cho thấy dù chính sách “Nước Mỹ trên hết” của Trump khiến quan hệ Mỹ – Nhật có những va đập về lợi ích, nhưng vẫn có nhiều động lực để duy trì và củng cố sự gắn kết cho liên minh song phương mà hai bên xem như là “nền tảng của hòa bình, thịnh vượng và tự do” trong khu vực.
Tóm lại .
Quan hệ Nhật Bản – Hoa Kỳ là 1 liên minh đặc biệt , Nhật Bản đối với tâm khảm của Hoa Kỳ không đơn giản là 1 đất nước độc lập có chung những giá trị về thế giới tự do , hơn thế - Nhật Bản là tinh hoa của những cái đầu lập pháp Hoa Kỳ , phải nói rằng chính Hoa Kỳ đã khai sinh ra 1 nước Nhật năng động , hiện đại và hiệu quả nhất thế giới , bảo vệ Nhật Bản chính là bảo vệ thành quả của công cuộc tự do hoá phong trào dân chủ trên toàn cầu mà chính Mỹ đã dày công xây dựng . Thành công về mọi mặt của Nhật Bản chính là sự quảng bá hoàn hảo nhất cho những lợi ích của chiếc ô dân chủ Hoa Kỳ trên khắp thế giới. Chúc mừng Nhật Bản có 1 đồng minh như Hoa Kỳ …
 

Có thể bạn quan tâm

Top