Ăn chơi Khí phách Sĩ phu Bắc Hà

PhongCabana

Tâm hồn dẩm chúa
Ngoài phong trào Vệ Long, góp gió dựng tượng cho vua Gia Long của những người con dòng họ Nguyễn Ánh khởi xướng, còn có làn sóng lấy lại sự trong sạch của Sĩ phu Bắc Hà do những học giả người gốc Thăng Long I âm thầm gầy dựng. Mời A_E thẩm một bãi tao mới nhặt trên net về.



SĨ PHU BẮC HÀ – KHÍ PHÁCH KHÔNG KHUẤT PHỤC

Trong lịch sử Việt Nam, “sĩ phu Bắc Hà” là danh xưng dành cho lớp trí thức miền Bắc – những con người nổi tiếng bởi học vấn uyên thâm, đạo lý sâu sắc và khí tiết kiên cường. Họ là tầng lớp biết cúi đầu trước chân lý, chứ không cúi đầu trước quyền lực.

Người xưa nói: “Quan Nam, sĩ Bắc” – ý rằng nơi phương Nam sinh ra những bậc quyền biến, khôn khéo trị dân, còn đất Bắc lại sản sinh ra những người trọng nghĩa, trọng đạo, thà mất lợi mà giữ tiết tháo.

Chính cái khí chất ấy đã làm nên nỗi e dè của mọi thế lực cầm quyền: bởi trí thức Bắc Hà không dễ bị mua chuộc, không dễ bị dẫn dắt, và một khi họ đã hiểu lẽ phải thì không ai có thể buộc họ nói ngược.

Nhưng thời nào cũng có người học thật và kẻ học giả. Ngày nay, giữa thời vật chất lên ngôi, kẻ học giả lại dễ nổi hơn người học thật. Không cần uyên bác, chỉ cần khéo miệng, khéo quan hệ, là có thể trở thành “chuyên gia”, “nhà nghiên cứu”, “giáo sư mời”.

Nếu sĩ phu Bắc Hà xưa dám bỏ quan vì một chữ nghĩa, thì lớp trí thức giả danh nay lại sẵn sàng cúi đầu vì một phong bì.

Cái nguy hiểm của họ không nằm ở sự dốt, mà ở cái dốt biết đội lốt học vị. Họ mượn danh học thuật để ngụy trang cho sự nông cạn, lấy hội thảo để hợp thức hóa ngụy biện. Có kẻ tự phong là “nhà sử học”, rồi tùy tiện xét lại lịch sử theo đơn đặt hàng; có kẻ nhân danh “khoa học”, nhưng lại chỉ làm nhiệm vụ tô son cho quyền lực.

Những người ấy không còn tìm chân lý, mà tìm sự an toàn trong giả dối. Không còn tin vào đạo, mà chỉ tin vào đường tắt. Khi cái giả đủ đông, người ta tưởng đó là thật – và khi dối trá được mặc áo học thuật, khí phách Bắc Hà xưa lại lặng lẽ rời bỏ cõi này.

Muốn khôi phục tinh thần sĩ phu Bắc Hà, phải trả lại ý nghĩa thật của hai chữ “trí thức”. Trí không chỉ là biết nhiều, mà là biết phân biệt đúng – sai, chính – tà. Thức không chỉ là tri thức sách vở, mà là sự thức tỉnh của lương tri và trách nhiệm xã hội.

Người trí thức hôm nay không cần áo dài, cũng chẳng cần cử án tề mi; điều cần là sự can đảm đứng về phía sự thật. Trong thời đại mà lời nói thật dễ bị công kích, thì một câu trung thực cũng đủ là hành động dũng cảm.

Khí phách ấy không nằm ở tiếng hô to, mà ở sự kiên định âm thầm – dám giữ quan điểm của mình, dù bị cô lập; dám không vỗ tay theo đám đông; dám từ chối thỏa hiệp với điều sai. Quyền lực có thể mua được danh tiếng, nhưng không thể mua được niềm tin và lòng tự trọng.
Muốn xã hội có lại lớp sĩ phu đúng nghĩa, phải dạy thế hệ trẻ biết trọng nhân cách hơn học vị, trọng trung thực hơn danh tiếng. Khi người trí thức không còn cúi đầu, dân tộc sẽ tự đứng thẳng.

Thời đại có thể đổi thay, nhưng khí phách sĩ phu Bắc Hà vẫn cần được giữ như ngọn đèn soi giữa đêm. Khi tri thức gắn liền với lương tâm, khi danh xưng đi cùng nhân cách, thì đất nước này vẫn còn những người khiến quyền lực phải nể, và sự thật vẫn còn chỗ để đứng.

Sĩ phu Bắc Hà thứ thiệt - Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng
572262538_816479764466186_8400287393034979005_n.jpg
 
Kinh lộ đa tùng tặc dĩ phản
Chính nó!

"Kinh lộ đa tùng tặc dĩ phản” (Kinh lộ phần nhiều theo giặc làm phản.) - Toàn Thư
Người hợp tác với quân Minh rất nhiều, đặc biệt ở đồng bằng sông Hồng, đến nỗi Toàn Thư phải than thở số người sang Minh trình diện khiến cả nước hầu như trống rỗng.
 
Ngoài phong trào Vệ Long, góp gió dựng tượng cho vua Gia Long của những người con dòng họ Nguyễn Ánh khởi xướng, còn có làn sóng lấy lại sự trong sạch của Sĩ phu Bắc Hà do những học giả người gốc Thăng Long I âm thầm gầy dựng. Mời A_E thẩm một bãi tao mới nhặt trên net về.



SĨ PHU BẮC HÀ – KHÍ PHÁCH KHÔNG KHUẤT PHỤC

Trong lịch sử Việt Nam, “sĩ phu Bắc Hà” là danh xưng dành cho lớp trí thức miền Bắc – những con người nổi tiếng bởi học vấn uyên thâm, đạo lý sâu sắc và khí tiết kiên cường. Họ là tầng lớp biết cúi đầu trước chân lý, chứ không cúi đầu trước quyền lực.

Người xưa nói: “Quan Nam, sĩ Bắc” – ý rằng nơi phương Nam sinh ra những bậc quyền biến, khôn khéo trị dân, còn đất Bắc lại sản sinh ra những người trọng nghĩa, trọng đạo, thà mất lợi mà giữ tiết tháo.

Chính cái khí chất ấy đã làm nên nỗi e dè của mọi thế lực cầm quyền: bởi trí thức Bắc Hà không dễ bị mua chuộc, không dễ bị dẫn dắt, và một khi họ đã hiểu lẽ phải thì không ai có thể buộc họ nói ngược.

Nhưng thời nào cũng có người học thật và kẻ học giả. Ngày nay, giữa thời vật chất lên ngôi, kẻ học giả lại dễ nổi hơn người học thật. Không cần uyên bác, chỉ cần khéo miệng, khéo quan hệ, là có thể trở thành “chuyên gia”, “nhà nghiên cứu”, “giáo sư mời”.

Nếu sĩ phu Bắc Hà xưa dám bỏ quan vì một chữ nghĩa, thì lớp trí thức giả danh nay lại sẵn sàng cúi đầu vì một phong bì.

Cái nguy hiểm của họ không nằm ở sự dốt, mà ở cái dốt biết đội lốt học vị. Họ mượn danh học thuật để ngụy trang cho sự nông cạn, lấy hội thảo để hợp thức hóa ngụy biện. Có kẻ tự phong là “nhà sử học”, rồi tùy tiện xét lại lịch sử theo đơn đặt hàng; có kẻ nhân danh “khoa học”, nhưng lại chỉ làm nhiệm vụ tô son cho quyền lực.

Những người ấy không còn tìm chân lý, mà tìm sự an toàn trong giả dối. Không còn tin vào đạo, mà chỉ tin vào đường tắt. Khi cái giả đủ đông, người ta tưởng đó là thật – và khi dối trá được mặc áo học thuật, khí phách Bắc Hà xưa lại lặng lẽ rời bỏ cõi này.

Muốn khôi phục tinh thần sĩ phu Bắc Hà, phải trả lại ý nghĩa thật của hai chữ “trí thức”. Trí không chỉ là biết nhiều, mà là biết phân biệt đúng – sai, chính – tà. Thức không chỉ là tri thức sách vở, mà là sự thức tỉnh của lương tri và trách nhiệm xã hội.

Người trí thức hôm nay không cần áo dài, cũng chẳng cần cử án tề mi; điều cần là sự can đảm đứng về phía sự thật. Trong thời đại mà lời nói thật dễ bị công kích, thì một câu trung thực cũng đủ là hành động dũng cảm.

Khí phách ấy không nằm ở tiếng hô to, mà ở sự kiên định âm thầm – dám giữ quan điểm của mình, dù bị cô lập; dám không vỗ tay theo đám đông; dám từ chối thỏa hiệp với điều sai. Quyền lực có thể mua được danh tiếng, nhưng không thể mua được niềm tin và lòng tự trọng.
Muốn xã hội có lại lớp sĩ phu đúng nghĩa, phải dạy thế hệ trẻ biết trọng nhân cách hơn học vị, trọng trung thực hơn danh tiếng. Khi người trí thức không còn cúi đầu, dân tộc sẽ tự đứng thẳng.

Thời đại có thể đổi thay, nhưng khí phách sĩ phu Bắc Hà vẫn cần được giữ như ngọn đèn soi giữa đêm. Khi tri thức gắn liền với lương tâm, khi danh xưng đi cùng nhân cách, thì đất nước này vẫn còn những người khiến quyền lực phải nể, và sự thật vẫn còn chỗ để đứng.

Sĩ phu Bắc Hà thứ thiệt - Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng
572262538_816479764466186_8400287393034979005_n.jpg
Bài viết thật nà "sĩ phu Bắc Hà".
 
Người bắc kỳ hiện tại. Toàn là một lũ mọi rợ trong rừng ra, không hề trọng nghĩa, trọng tổ quốc. Cũng may còn bát tô, gia đình nhiều đời làm quan cống hiến cho tổ quốc. Ý thức được trách nhiệm của mình đối với dân tộc. Chứ nhìn đám quan bây giờ, chỉ là đớp đớp đớp và đớp. Tệ hại hơn cả đám quan ít học thời kỳ sau giải phóng.
 
thằng Phan Đăng phản động quá -./ người ta là vô sản chuyên chính 3 đời bần cố nông liêm khiết vậy mà gọi người ta là "sĩ phu" cái tầng lớp thống trị địa chủ nô độc ác của tàn dư phong kiến.

tao báo 331 vô cổ thằng này lại vì tội lợi dụng tự do ngôn luận vu khống bác Tọng
 
Chính nó!

"Kinh lộ đa tùng tặc dĩ phản” (Kinh lộ phần nhiều theo giặc làm phản.) - Toàn Thư
Người hợp tác với quân Minh rất nhiều, đặc biệt ở đồng bằng sông Hồng, đến nỗi Toàn Thư phải than thở số người sang Minh trình diện khiến cả nước hầu như trống rỗng.
Với người Việt thì đó gọi là theo giặc. Với Sĩ phu Bắc Hà thì đó là cơ hội đổi quốc tịch
 
Ngoài phong trào Vệ Long, góp gió dựng tượng cho vua Gia Long của những người con dòng họ Nguyễn Ánh khởi xướng, còn có làn sóng lấy lại sự trong sạch của Sĩ phu Bắc Hà do những học giả người gốc Thăng Long I âm thầm gầy dựng. Mời A_E thẩm một bãi tao mới nhặt trên net về.



SĨ PHU BẮC HÀ – KHÍ PHÁCH KHÔNG KHUẤT PHỤC

Trong lịch sử Việt Nam, “sĩ phu Bắc Hà” là danh xưng dành cho lớp trí thức miền Bắc – những con người nổi tiếng bởi học vấn uyên thâm, đạo lý sâu sắc và khí tiết kiên cường. Họ là tầng lớp biết cúi đầu trước chân lý, chứ không cúi đầu trước quyền lực.

Người xưa nói: “Quan Nam, sĩ Bắc” – ý rằng nơi phương Nam sinh ra những bậc quyền biến, khôn khéo trị dân, còn đất Bắc lại sản sinh ra những người trọng nghĩa, trọng đạo, thà mất lợi mà giữ tiết tháo.

Chính cái khí chất ấy đã làm nên nỗi e dè của mọi thế lực cầm quyền: bởi trí thức Bắc Hà không dễ bị mua chuộc, không dễ bị dẫn dắt, và một khi họ đã hiểu lẽ phải thì không ai có thể buộc họ nói ngược.

Nhưng thời nào cũng có người học thật và kẻ học giả. Ngày nay, giữa thời vật chất lên ngôi, kẻ học giả lại dễ nổi hơn người học thật. Không cần uyên bác, chỉ cần khéo miệng, khéo quan hệ, là có thể trở thành “chuyên gia”, “nhà nghiên cứu”, “giáo sư mời”.

Nếu sĩ phu Bắc Hà xưa dám bỏ quan vì một chữ nghĩa, thì lớp trí thức giả danh nay lại sẵn sàng cúi đầu vì một phong bì.

Cái nguy hiểm của họ không nằm ở sự dốt, mà ở cái dốt biết đội lốt học vị. Họ mượn danh học thuật để ngụy trang cho sự nông cạn, lấy hội thảo để hợp thức hóa ngụy biện. Có kẻ tự phong là “nhà sử học”, rồi tùy tiện xét lại lịch sử theo đơn đặt hàng; có kẻ nhân danh “khoa học”, nhưng lại chỉ làm nhiệm vụ tô son cho quyền lực.

Những người ấy không còn tìm chân lý, mà tìm sự an toàn trong giả dối. Không còn tin vào đạo, mà chỉ tin vào đường tắt. Khi cái giả đủ đông, người ta tưởng đó là thật – và khi dối trá được mặc áo học thuật, khí phách Bắc Hà xưa lại lặng lẽ rời bỏ cõi này.

Muốn khôi phục tinh thần sĩ phu Bắc Hà, phải trả lại ý nghĩa thật của hai chữ “trí thức”. Trí không chỉ là biết nhiều, mà là biết phân biệt đúng – sai, chính – tà. Thức không chỉ là tri thức sách vở, mà là sự thức tỉnh của lương tri và trách nhiệm xã hội.

Người trí thức hôm nay không cần áo dài, cũng chẳng cần cử án tề mi; điều cần là sự can đảm đứng về phía sự thật. Trong thời đại mà lời nói thật dễ bị công kích, thì một câu trung thực cũng đủ là hành động dũng cảm.

Khí phách ấy không nằm ở tiếng hô to, mà ở sự kiên định âm thầm – dám giữ quan điểm của mình, dù bị cô lập; dám không vỗ tay theo đám đông; dám từ chối thỏa hiệp với điều sai. Quyền lực có thể mua được danh tiếng, nhưng không thể mua được niềm tin và lòng tự trọng.
Muốn xã hội có lại lớp sĩ phu đúng nghĩa, phải dạy thế hệ trẻ biết trọng nhân cách hơn học vị, trọng trung thực hơn danh tiếng. Khi người trí thức không còn cúi đầu, dân tộc sẽ tự đứng thẳng.

Thời đại có thể đổi thay, nhưng khí phách sĩ phu Bắc Hà vẫn cần được giữ như ngọn đèn soi giữa đêm. Khi tri thức gắn liền với lương tâm, khi danh xưng đi cùng nhân cách, thì đất nước này vẫn còn những người khiến quyền lực phải nể, và sự thật vẫn còn chỗ để đứng.

Sĩ phu Bắc Hà thứ thiệt - Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng
572262538_816479764466186_8400287393034979005_n.jpg
Bài viết hay và sâu sắc, Sĩ phu Bắc Hà thời nào cũng vậy, luôn tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, luôn là những người thống nhất giang sơn về một mối. Bộ máy, chế độ nào cũng vậy, sẽ luôn tồn tại tiêu cực và tích cực, chỉ là phần từ nào nhiều hơn, nếu tích cực nhiều hơn tiêu cực thì đó là một bộ máy tích cực
 
Với người Việt thì đó gọi là theo giặc. Với Sĩ phu Bắc Hà thì đó là cơ hội đổi quốc tịch
Có cơ hội thì đổi quắc tịch nước lớn thôi, chứ ở nước nhỏ ăn cứt à?
Tao thấy đéo khác gì dân nam chạy nạn sang xứ rẫy chết cả.
Cái khác biệt là dân nam đổi quắc tịt thì nói thẳng luôn là mình muốn đổi đời và sống biết điều bên xứ rẫy chết.
Còn sĩ phu bắc hà thì miệng vừa chửi, tay vừa nộp đơn, ko được thì ở lại chửi tiếp, được chấp nhận thì qua chê bai đủ điều.
 
Có cơ hội thì đổi quắc tịch nước lớn thôi, chứ ở nước nhỏ ăn cứt à?
Tao thấy đéo khác gì dân nam chạy nạn sang xứ rẫy chết cả.
Cái khác biệt là dân nam đổi quắc tịt thì nói thẳng luôn là mình muốn đổi đời và sống biết điều bên xứ rẫy chết.
Còn sĩ phu bắc hà thì miệng vừa chửi, tay vừa nộp đơn, ko được thì ở lại chửi tiếp, được chấp nhận thì qua chê bai đủ điều.
Sĩ phu Bắc Hà chỉ có chửi nước Việt thôi chứ làm gì chửi TQ bao giờ. Qua TQ xong cũng chỉ có chê nước Việt tiếp.
 
Bài viết hay và sâu sắc, Sĩ phu Bắc Hà thời nào cũng vậy, luôn tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, luôn là những người thống nhất giang sơn về một mối. Bộ máy, chế độ nào cũng vậy, sẽ luôn tồn tại tiêu cực và tích cực, chỉ là phần từ nào nhiều hơn, nếu tích cực nhiều hơn tiêu cực thì đó là một bộ máy tích cực
Sĩ Phu Bắc Hà của anh đây
Đây là đoạn ghi chép của sứ thần Triều Tiên khi gặp đoàn của Quang Trung sang Bắc Kinh chúc thọ Càn Long 1790.
Các sĩ phu Bắc Hà trao đổi là Phan Huy Ích Ngô Thì Nhậm Vũ Huy Tấn

Quang Bình cốt cách khá thanh tú, hình dáng bệ vệ ra vẻ hào kiệt đất Giao Nam. Thế nhưng các bầy tôi đi theo tuy hơi giỏi văn tự nhưng thân thể nhỏ bé, yếu đuối, ăn nói, hành động giảo trá khinh bạc. Họ vẫn thường nói với chúng tôi: “Tân vương vốn là người áo vải đất Quảng Nam, đối với họ Lê không có nghĩa quân thần”. Lại nói rằng: “Cung thất của tân vương vẫn là phụ nữ cũ của họ Lê nhưng sau này không thể không thay đổi biển ngạch”. Lại nói rằng: “Bọn chúng tôi chưa từng làm quan với nhà Lê, tước trật hôm nay đều do vua mới ban cho". Giọng điệu tuy liến thoắng nhưng cũng có chiều ngượng ngập
 
Sửa lần cuối:
Sĩ Phu Bắc Hà của anh đây
Đây là đoạn ghi chép của sứ thần Triều Tiên khi gặp đoàn của Quang Trung sang Bắc Kinh chúc thọ Càn Long 1790.
Các sĩ phu Bắc Hà trao đổi là Phan Huy Ích Ngô Thì Nhậm Vũ Huy Tấn

Quang Bình cốt cách khá thanh tú, hình dáng bệ vệ ra vẻ hào kiệt đất Giao Nam. Thế nhưng các bầy tôi đi theo tuy hơi giỏi văn tự nhưng thân thể nhỏ bé, yếu đuối, ăn nói, hành động giảo trá khinh bạc. Họ vẫn thường nói với chúng tôi: “Tân vương vốn là người áo vải đất Quảng Nam, đối với họ Lê không có nghĩa quân thần”. Lại nói rằng: “Cung thất của tân vương vẫn là phụ nữ cũ của họ Lê nhưng sau này không thể không thay đổi biển ngạch”. Lại nói rằng: “Bọn chúng tôi chưa từng làm quan với nhà Lê, tước trật hôm nay đều do vua mới ban cho". Giọng điệu tuy liến thoắng nhưng cũng có chiều ngượng ngập
Gì chứ Bắc Hà tráo trở cũng không lạ lẫm. Ngày xưa thì trói Quang Toản giao cho Nguyễn Ánh lĩnh công, ngày nay thì o bế Nguyễn Huệ, chửi Ánh không tiếc miệng. Cả đời chỉ coi TQ là chủ, là cha, là mẹ. Chỉ có thể là Bắc Hà.
 
Sĩ phu Bắc Hà thì chỉ gom gọn trong những câu nói của quan chức nhà Minh là đủ " 京路多從賊以叛 "
 
Gì chứ Bắc Hà tráo trở cũng không lạ lẫm. Ngày xưa thì trói Quang Toản giao cho Nguyễn Ánh lĩnh công, ngày nay thì o bế Nguyễn Huệ, chửi Ánh không tiếc miệng. Cả đời chỉ coi TQ là chủ, là cha, là mẹ. Chỉ có thể là Bắc Hà.
Thằng sứ Triều Tiên nó biết thừa rồi nên nó bảo toàn lũ giảo trá khinh bạc
Còn bảo miệng tuy liến thoắng nhưng lời nói có phần ngượng ngập
3 thằng sĩ phu Bắc Hà đều là quan chức nhà Lê đặc biệt là Phan Huy Ích và Ngô Thì Nhậm trải 3 đời làm quan nhà Lê.
Thế mà dám mở miệng nói người ngoài chúng tôi chưa từng nhận chức quan nhà Lê công danh đều do vua mới ban tặng
Phụ nữ trong cung của vua Lê cũng bị anh Huệ hốt hết.
Vãi lol cho khí phách sĩ phu Bắc Hà
Cái chuyện xấu hổ này cũng đi kể với người ngoài
 
Sĩ Phu Bắc Hà của anh đây
Đây là đoạn ghi chép của sứ thần Triều Tiên khi gặp đoàn của Quang Trung sang Bắc Kinh chúc thọ Càn Long 1790.
Các sĩ phu Bắc Hà trao đổi là Phan Huy Ích Ngô Thì Nhậm Vũ Huy Tấn

Quang Bình cốt cách khá thanh tú, hình dáng bệ vệ ra vẻ hào kiệt đất Giao Nam. Thế nhưng các bầy tôi đi theo tuy hơi giỏi văn tự nhưng thân thể nhỏ bé, yếu đuối, ăn nói, hành động giảo trá khinh bạc. Họ vẫn thường nói với chúng tôi: “Tân vương vốn là người áo vải đất Quảng Nam, đối với họ Lê không có nghĩa quân thần”. Lại nói rằng: “Cung thất của tân vương vẫn là phụ nữ cũ của họ Lê nhưng sau này không thể không thay đổi biển ngạch”. Lại nói rằng: “Bọn chúng tôi chưa từng làm quan với nhà Lê, tước trật hôm nay đều do vua mới ban cho". Giọng điệu tuy liến thoắng nhưng cũng có chiều ngượng ngập
Xin nguồn dẫn chứng học thuật để nghiên cứu chút nào bro,

Ngắn gọn: đoạn bạn đưa ra có vài ý “đúng bối cảnh”, nhưng nguyên văn như vậy mình chưa tìm thấy trong tư liệu gốc (nhật ký sứ thần Triều Tiên/燕行錄). Nhiều khả năng đây là bản “diễn giải hiện đại” (paraphrase) đang lan truyền trên mạng.

Kết luận theo từng ý
  • Có thật cuộc gặp & giao thiệp VN–Triều tại Bắc Kinh năm 1790. Sứ bộ Tây Sơn (do Nguyễn Quang Bình – tức Quang Trung/giả vương – phái đi) dự lễ bát tuần Càn Long và có gặp, trao đổi thơ văn với sứ đoàn Triều Tiên; các bài thơ của Phan Huy Ích, Vũ Huy Tấn tặng – đáp sứ Triều còn lưu.
  • Có ghi chép của sứ Triều phê phán tính chính danh của Tây Sơn. Bài của giáo sư Ho Tài Huệ-Tâm trích dẫn Sŏ Ho-su (서호수/徐浩修, chánh sứ 1790): ông lên án Nguyễn Quang Bình “bỏ nghĩa vua tôi” (đã phế Lê) và chê đoàn An Nam mặc y phục theo Thanh; Phan Huy Ích đáp rằng hiện “thuận nghi” theo ban thưởng, về nước sẽ phục cổ chế. Những chi tiết này trùng tinh thần với ý bạn nêu.
  • Xác nhận nhóm nhân vật: Phan Huy Ích, Ngô Thì Nhậm, Vũ Huy Tấn đều thuộc phái bộ và có giao lưu thơ với sứ Triều (tài liệu học thuật trong nước nhắc khá rõ).
  • Nhưng: mình không tìm thấy trong Yeonhaengnok/燕行錄 (nhật ký sứ thần) hay tuyển biên học thuật câu chữ Việt kiểu: “các bầy tôi… thân thể nhỏ bé, yếu đuối, ăn nói giảo trá khinh bạc…”, “Tân vương vốn người áo vải đất Quảng Nam…”, “cung thất… phụ nữ cũ của họ Lê…”. Những câu này xuất hiện chủ yếu ở bài đăng mạng xã hội/diễn đàn, không kèm trích dẫn nguyên văn Hán văn–Hàn văn + nguồn trang/đoạn cụ thể. Vì vậy chưa thể coi là trích dẫn nguyên văn của sứ Triều.
Bạn có thể tin phần nào?
  • Tin được: bối cảnh 1790, cuộc gặp, thơ xướng họa, thái độ dè bỉu của một số sứ Triều về tính chính danh & y phục Tây Sơn.
  • Chưa nên tin là “trích nguyên văn”: những câu miêu tả miệt thị thân tướng và các phát biểu nhạy cảm về ‘cung thất’ – chưa thấy trong ấn phẩm hàn lâm hay bản in Yeonhaengnok được chú giải.
Nếu cần kiểm chứng sâu hơn (cách làm chuẩn)
  1. Tra các bản 《燕行錄全集》 (2001–) và riêng nhật ký của 徐浩修/Seo Ho-su về năm 1790 (bản Hán văn/phan Hangeul phiên). Đây là nguồn gốc mô tả cuộc yến kiến và tranh luận lễ chế.
  2. Đối chiếu tập thơ Phan Huy Ích – “Tinh và kỷ hành” (sáng tác trong chuyến sứ 1790) để xem các bài tặng–đáp sứ Triều và lời tựa/ghi chú kèm theo.
  3. Tham khảo bài tổng thuật học thuật (VN & quốc tế) về cuộc gặp sứ VN–Triều ở Bắc Kinh 1790 để đối chiếu trích dẫn.
Tóm lại: Đoạn trích bạn gửi không thể xác nhận là nguyên văn của sứ thần Triều Tiên; nó mô tả đúng tinh thần phê phán mà một số sứ Triều từng bày tỏ, nhưng các câu chữ cụ thể (đặc biệt phần “giảo trá khinh bạc”, “cung thất…”) hiện chỉ thấy ở bài viết phổ thông trên mạng, không có dẫn chứng học thuật. Nếu bạn muốn, mình có thể truy nguyên Hán văn/Hàn văn gốc của đoạn Sŏ Ho-su và đưa bản dịch sát nghĩa để bạn đối chiếu.
 

Có thể bạn quan tâm

Top