Ăn chơi Khí phách Sĩ phu Bắc Hà

Xin nguồn dẫn chứng học thuật để nghiên cứu chút nào bro,

Ngắn gọn: đoạn bạn đưa ra có vài ý “đúng bối cảnh”, nhưng nguyên văn như vậy mình chưa tìm thấy trong tư liệu gốc (nhật ký sứ thần Triều Tiên/燕行錄). Nhiều khả năng đây là bản “diễn giải hiện đại” (paraphrase) đang lan truyền trên mạng.

Kết luận theo từng ý
  • Có thật cuộc gặp & giao thiệp VN–Triều tại Bắc Kinh năm 1790. Sứ bộ Tây Sơn (do Nguyễn Quang Bình – tức Quang Trung/giả vương – phái đi) dự lễ bát tuần Càn Long và có gặp, trao đổi thơ văn với sứ đoàn Triều Tiên; các bài thơ của Phan Huy Ích, Vũ Huy Tấn tặng – đáp sứ Triều còn lưu.
  • Có ghi chép của sứ Triều phê phán tính chính danh của Tây Sơn. Bài của giáo sư Ho Tài Huệ-Tâm trích dẫn Sŏ Ho-su (서호수/徐浩修, chánh sứ 1790): ông lên án Nguyễn Quang Bình “bỏ nghĩa vua tôi” (đã phế Lê) và chê đoàn An Nam mặc y phục theo Thanh; Phan Huy Ích đáp rằng hiện “thuận nghi” theo ban thưởng, về nước sẽ phục cổ chế. Những chi tiết này trùng tinh thần với ý bạn nêu.
  • Xác nhận nhóm nhân vật: Phan Huy Ích, Ngô Thì Nhậm, Vũ Huy Tấn đều thuộc phái bộ và có giao lưu thơ với sứ Triều (tài liệu học thuật trong nước nhắc khá rõ).
  • Nhưng: mình không tìm thấy trong Yeonhaengnok/燕行錄 (nhật ký sứ thần) hay tuyển biên học thuật câu chữ Việt kiểu: “các bầy tôi… thân thể nhỏ bé, yếu đuối, ăn nói giảo trá khinh bạc…”, “Tân vương vốn người áo vải đất Quảng Nam…”, “cung thất… phụ nữ cũ của họ Lê…”. Những câu này xuất hiện chủ yếu ở bài đăng mạng xã hội/diễn đàn, không kèm trích dẫn nguyên văn Hán văn–Hàn văn + nguồn trang/đoạn cụ thể. Vì vậy chưa thể coi là trích dẫn nguyên văn của sứ Triều.
Bạn có thể tin phần nào?
  • Tin được: bối cảnh 1790, cuộc gặp, thơ xướng họa, thái độ dè bỉu của một số sứ Triều về tính chính danh & y phục Tây Sơn.
  • Chưa nên tin là “trích nguyên văn”: những câu miêu tả miệt thị thân tướng và các phát biểu nhạy cảm về ‘cung thất’ – chưa thấy trong ấn phẩm hàn lâm hay bản in Yeonhaengnok được chú giải.
Nếu cần kiểm chứng sâu hơn (cách làm chuẩn)
  1. Tra các bản 《燕行錄全集》 (2001–) và riêng nhật ký của 徐浩修/Seo Ho-su về năm 1790 (bản Hán văn/phan Hangeul phiên). Đây là nguồn gốc mô tả cuộc yến kiến và tranh luận lễ chế.
  2. Đối chiếu tập thơ Phan Huy Ích – “Tinh và kỷ hành” (sáng tác trong chuyến sứ 1790) để xem các bài tặng–đáp sứ Triều và lời tựa/ghi chú kèm theo.
  3. Tham khảo bài tổng thuật học thuật (VN & quốc tế) về cuộc gặp sứ VN–Triều ở Bắc Kinh 1790 để đối chiếu trích dẫn.
Tóm lại: Đoạn trích bạn gửi không thể xác nhận là nguyên văn của sứ thần Triều Tiên; nó mô tả đúng tinh thần phê phán mà một số sứ Triều từng bày tỏ, nhưng các câu chữ cụ thể (đặc biệt phần “giảo trá khinh bạc”, “cung thất…”) hiện chỉ thấy ở bài viết phổ thông trên mạng, không có dẫn chứng học thuật. Nếu bạn muốn, mình có thể truy nguyên Hán văn/Hàn văn gốc của đoạn Sŏ Ho-su và đưa bản dịch sát nghĩa để bạn đối chiếu.
 
Lão không phân biệt đúng-sai, chính-tà, mà lão phân biệt vùng miền, đào Nam lấp Bắc.
Lão không cúi đầu trước quyền lực, mà lão thâu tóm quyền lực, nắm mãi không buông.
Lão không đi tìm chân lý, mà lão sáo rỗng ra chân lý, biến mình thành chân lý, hám danh đến giây phút cuối cùng.
Lão là điển hình của phỉ su bắc hà.
 
Xin nguồn dẫn chứng học thuật để nghiên cứu chút nào bro,

Ngắn gọn: đoạn bạn đưa ra có vài ý “đúng bối cảnh”, nhưng nguyên văn như vậy mình chưa tìm thấy trong tư liệu gốc (nhật ký sứ thần Triều Tiên/燕行錄). Nhiều khả năng đây là bản “diễn giải hiện đại” (paraphrase) đang lan truyền trên mạng.

Kết luận theo từng ý
  • Có thật cuộc gặp & giao thiệp VN–Triều tại Bắc Kinh năm 1790. Sứ bộ Tây Sơn (do Nguyễn Quang Bình – tức Quang Trung/giả vương – phái đi) dự lễ bát tuần Càn Long và có gặp, trao đổi thơ văn với sứ đoàn Triều Tiên; các bài thơ của Phan Huy Ích, Vũ Huy Tấn tặng – đáp sứ Triều còn lưu.
  • Có ghi chép của sứ Triều phê phán tính chính danh của Tây Sơn. Bài của giáo sư Ho Tài Huệ-Tâm trích dẫn Sŏ Ho-su (서호수/徐浩修, chánh sứ 1790): ông lên án Nguyễn Quang Bình “bỏ nghĩa vua tôi” (đã phế Lê) và chê đoàn An Nam mặc y phục theo Thanh; Phan Huy Ích đáp rằng hiện “thuận nghi” theo ban thưởng, về nước sẽ phục cổ chế. Những chi tiết này trùng tinh thần với ý bạn nêu.
  • Xác nhận nhóm nhân vật: Phan Huy Ích, Ngô Thì Nhậm, Vũ Huy Tấn đều thuộc phái bộ và có giao lưu thơ với sứ Triều (tài liệu học thuật trong nước nhắc khá rõ).
  • Nhưng: mình không tìm thấy trong Yeonhaengnok/燕行錄 (nhật ký sứ thần) hay tuyển biên học thuật câu chữ Việt kiểu: “các bầy tôi… thân thể nhỏ bé, yếu đuối, ăn nói giảo trá khinh bạc…”, “Tân vương vốn người áo vải đất Quảng Nam…”, “cung thất… phụ nữ cũ của họ Lê…”. Những câu này xuất hiện chủ yếu ở bài đăng mạng xã hội/diễn đàn, không kèm trích dẫn nguyên văn Hán văn–Hàn văn + nguồn trang/đoạn cụ thể. Vì vậy chưa thể coi là trích dẫn nguyên văn của sứ Triều.
Bạn có thể tin phần nào?
  • Tin được: bối cảnh 1790, cuộc gặp, thơ xướng họa, thái độ dè bỉu của một số sứ Triều về tính chính danh & y phục Tây Sơn.
  • Chưa nên tin là “trích nguyên văn”: những câu miêu tả miệt thị thân tướng và các phát biểu nhạy cảm về ‘cung thất’ – chưa thấy trong ấn phẩm hàn lâm hay bản in Yeonhaengnok được chú giải.
Nếu cần kiểm chứng sâu hơn (cách làm chuẩn)
  1. Tra các bản 《燕行錄全集》 (2001–) và riêng nhật ký của 徐浩修/Seo Ho-su về năm 1790 (bản Hán văn/phan Hangeul phiên). Đây là nguồn gốc mô tả cuộc yến kiến và tranh luận lễ chế.
  2. Đối chiếu tập thơ Phan Huy Ích – “Tinh và kỷ hành” (sáng tác trong chuyến sứ 1790) để xem các bài tặng–đáp sứ Triều và lời tựa/ghi chú kèm theo.
  3. Tham khảo bài tổng thuật học thuật (VN & quốc tế) về cuộc gặp sứ VN–Triều ở Bắc Kinh 1790 để đối chiếu trích dẫn.
Tóm lại: Đoạn trích bạn gửi không thể xác nhận là nguyên văn của sứ thần Triều Tiên; nó mô tả đúng tinh thần phê phán mà một số sứ Triều từng bày tỏ, nhưng các câu chữ cụ thể (đặc biệt phần “giảo trá khinh bạc”, “cung thất…”) hiện chỉ thấy ở bài viết phổ thông trên mạng, không có dẫn chứng học thuật. Nếu bạn muốn, mình có thể truy nguyên Hán văn/Hàn văn gốc của đoạn Sŏ Ho-su và đưa bản dịch sát nghĩa để bạn đối chiếu.
Cuộc gặp gỡ giữa phái đoàn Đại Việt và phái đoàn Triều Tiên ở triều đình nhà Thanh năm Canh Tuất 1790
Tác giả Nguyễn Duy Chính
In trên tạp chí xưa và nay năm 2010
 
Ngày 6 tháng 8 năm Vĩnh Lạc thứ hai (10/09/1404): Bồi thần An Nam là Bùi Bá Kỳ đến cáo cấp, lời tâu rằng:
“Gia đình thần đời đời thờ họ Trần nước An Nam, cha ông thần là quan Đại phu, chết vì việc nước. Mẹ thần thuộc dòng thân cận tôn thất họ Trần; vì vậy lúc nhỏ thần được hầu hạ Quốc vương, tước ngũ phẩm; rồi được làm Tỳ tướng cho Vũ Tiết hầu Trần Khát Chân. Năm Hồng Vũ thứ 32 thay Khát Chân ra biển Đông Hải chống cự với giặc Nụy. Lúc này gian thần cha con Lê Quí Ly giết chúa soán ngôi, hãm hại trung thần diệt cả dòng họ có đến trăm mười người. Anh em vợ con thần đều bị giết hại; lại sai người đi bắt thần để xẻ thịt. Thần nghe việc biến bèn bỏ quân ngũ, chạy trốn vào rừng, sống nơi cùng tịch cùng Mường Mán, vượn khỉ. Lòng trung thành sáng chói, nhưng uất ức không có chỗ tố cáo. Mới đây nghe tin Hoàng thượng lên ngôi báu, mở mang sự cai trị ra muôn nơi, nên muốn được phơi bày gan ruột, cầu xin diệt nạn này. Trải qua nhiều gian nan nguy hiểm, đến được biên giới. Giả mạo cùng với lái buôn khiêng vác hàng hóa, tháng 4 năm nay đến phủ Tư Minh, Quảng Tây. Được quan ty đưa đón và may mắn được chiêm bái Hoàng thượng. Thần trình rằng gian thần Lê Quí Ly là con của cố Kinh lược Lê Quốc Kỳ. Y đã hưởng ân sủng dưới triều nhà Trần, con là Thương cũng được ban chức cao. Đắc chí với tham vọng, giết vua, đổi tên họ là Hồ Nhất Nguyên; con là Hồ Đê tiếm hiệu soán ngôi, không tôn trọng mệnh lệnh Thiên triều, ngược đãi con dân trăm họ, dân chúng hàm oan kêu trời khấn đất, trung thần nghĩa sĩ nhức óc đau lòng. Thần trong lòng khích động vì điều nghĩa, mạo muội tâu lên Thiên tử xin ban rộng lòng nhân, thương dân chúng vô tội, mang quân cứu dân phạt tội, nối dòng chính thống bị đứt, thần tình nguyện cầm cung nỏ đi dẫn đường biểu dương uy trời, những người trung nghĩa hưởng ứng họp lại diệt bọn giặc, quét sạch hung đồ, lập lại con cháu nhà Trần. [Được như vậy] ắt nơi phiên di xa xôi này rất đội ơn thánh đức, cung kính triều cống, vĩnh viễn làm phiên dậu bên ngoài. Thần bất tài, trộm bắt chước Thân Bao Tư chịu tội đáng chết để thỉnh cầu, kính xin bệ hạ thương xót.”
Thiên tử thương tình, mệnh quan ty cấp cho y phục và thực phẩm (Minh thực lục I, 206-207).
 
Ngày 17 tháng 4 năm 1407, Mạc Thúy, Doãn Bái và nhóm bô lão 1.120 người từ Bắc Giang và các phủ khác, từ An Việt và các huyện khác đến gặp chỉ huy quân Minh. Nguyên văn phát biểu của Mạc Thúy ghi nhận bởi Minh thực lục như sau:
“Được ơn cấp bảng dụ khắp trong nước, tuyên bố đức ý của thánh Thiên tử cho quan trở lại nguyên chức, lính trở lại nguyên đơn vị, dân trở về nghiệp cũ; hỏi tìm con cháu nhà Trần chọn một người hiền, tấu xin tước vương để làm chủ nước; lại chia người đi các nơi phủ dụ quan lại quân dân yên nghiệp như cũ. Duy con cháu nhà Trần trước đây bị giặc họ Lê tru diệt hết, không còn sót ai, không thể kế thừa. An Nam vốn là đất cũ của Trung Quốc, sau đó bị chôn vùi vào tục Man Di, không được nghe dạy dỗ lễ nghĩa. Nay may mắn được Thánh triều tảo trừ hung nghiệt, quân dân già trẻ được chiêm ngưỡng áo khăn thịnh trị, hân hạnh không kể xiết; xin được duy trì trở lại quận huyện cũ, ngõ hầu sửa đổi tục man di, vĩnh viễn thấm nhuần thánh hóa.”
Thúy kính cẩn cùng các bậc kỳ lão soạn sẵn biểu văn, xin dâng lên triều đình để lòng kẻ dưới được đề đạt. Quan Tổng binh Tân Thành hầu Trương Phụ cho rằng cha con giặc họ Lê chỉ trong sớm tối bị tiêu diệt, các phủ huyện đều được bình định, cần có sự thống trị để phủ ngự dân này, nên ngay ngày hôm nay cho người ruổi về kinh đô tâu trình (Minh thực lục I, 250-251).
 
21Vj4I.gif
 
Ngày 28 tháng 7 năm 1407: “Đất Giao Chỉ chắc có những người tài đức song toàn ẩn dật tại núi rừng, rành kinh điển văn hay học rộng, có tài hiền lương đứng đắn; nông dân hiếu đễ thông minh chính trực; kẻ thư lại có khả năng được việc, thông thạo sách vở, người luyện tập binh pháp vũ nghệ trí mưu, dung mạo khôi ngô cao lớn, ăn nói lưu loát, có sức vóc dũng cảm; kẻ biết thuật số âm dương, rành y dược chẩn mạch. Hãy hỏi han tìm cho được, dùng lễ sai khiến để mang về kinh dùng.” (Minh Thực Lục I, 274)(b)
Phía nhà Minh, Trương Phụ báo cáo về Kim Lăng như sau:

Ngày 6 tháng 11 năm 1407: “..đã thăm hỏi các quận huyện tại Giao Chỉ để đề cử những người tài đức, rành kinh điển, giỏi văn chương, học rộng tài cao, thông minh chính trực, lực điền hiếu đễ, hiền lương đoan chính, thông thạo việc quan, hiểu rành binh pháp và tài nghệ các mặt gồm 9.000 người, đang lục tục đến kinh đô.”(Minh Thực Lục I, 285)(a)

Vua Minh cho rằng dân phía Nam không quen chịu lạnh nên ra lệnh cấp áo bông, ủng vớ cho những người này.
 
Bài viết hay và sâu sắc, Sĩ phu Bắc Hà thời nào cũng vậy, luôn tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, luôn là những người thống nhất giang sơn về một mối. Bộ máy, chế độ nào cũng vậy, sẽ luôn tồn tại tiêu cực và tích cực, chỉ là phần từ nào nhiều hơn, nếu tích cực nhiều hơn tiêu cực thì đó là một bộ máy tích cực
Hay cc đó mài, mở đầu đã sai rồi thì về sau sao có thể đúng, mài nghe nó sủa này: "Trong lịch sử Việt Nam, “sĩ phu Bắc Hà” là danh xưng dành cho lớp trí thức miền Bắc – những con người nổi tiếng bởi học vấn uyên thâm, đạo lý sâu sắc và khí tiết kiên cường. Họ là tầng lớp biết cúi đầu trước chân lý, chứ không cúi đầu trước quyền lực." :)) Nghe có sặc mùi cứt ko? Học thức thì đồng ý, chứ ko biết cúi đầu là xạo lòn, bọn nho sĩ bị mắc kẹt với danh và lợi, chứ cao sang gì. Mồm nó chửi chính quyền, chỉ là chưa được giá thôi, có đủ lợi, chúng nó trở mặt ngay.
 
Lão không phân biệt đúng-sai, chính-tà, mà lão phân biệt vùng miền, đào Nam lấp Bắc.
Lão không cúi đầu trước quyền lực, mà lão thâu tóm quyền lực, nắm mãi không buông.
Lão không đi tìm chân lý, mà lão sáo rỗng ra chân lý, biến mình thành chân lý, hám danh đến giây phút cuối cùng.
Lão là điển hình của phỉ su bắc hà.
Tham quyền cố vị số 1
 
Sĩ Phu Bắc Hà của anh đây
Đây là đoạn ghi chép của sứ thần Triều Tiên khi gặp đoàn của Quang Trung sang Bắc Kinh chúc thọ Càn Long 1790.
Các sĩ phu Bắc Hà trao đổi là Phan Huy Ích Ngô Thì Nhậm Vũ Huy Tấn

Quang Bình cốt cách khá thanh tú, hình dáng bệ vệ ra vẻ hào kiệt đất Giao Nam. Thế nhưng các bầy tôi đi theo tuy hơi giỏi văn tự nhưng thân thể nhỏ bé, yếu đuối, ăn nói, hành động giảo trá khinh bạc. Họ vẫn thường nói với chúng tôi: “Tân vương vốn là người áo vải đất Quảng Nam, đối với họ Lê không có nghĩa quân thần”. Lại nói rằng: “Cung thất của tân vương vẫn là phụ nữ cũ của họ Lê nhưng sau này không thể không thay đổi biển ngạch”. Lại nói rằng: “Bọn chúng tôi chưa từng làm quan với nhà Lê, tước trật hôm nay đều do vua mới ban cho". Giọng điệu tuy liến thoắng nhưng cũng có chiều ngượng ngập
Quang Bình cốt cách khá thanh tú, hình dáng bệ vệ ra vẻ hào kiệt đất Giao Nam.
Tả Huệ khác biệt thế, chứ trong sử nhà Nguyễn vs tranh vẽ của đại Thanh khá giống nhau nhưng so vs lời tả của đám sứ Triều Tiên thì khác hoàn toàn
 
Quang Bình cốt cách khá thanh tú, hình dáng bệ vệ ra vẻ hào kiệt đất Giao Nam.
Tả Huệ khác biệt thế, chứ trong sử nhà Nguyễn vs tranh vẽ của đại Thanh khá giống nhau nhưng so vs lời tả của đám sứ Triều Tiên thì khác hoàn toàn
Thời xưa người nhỏ con lắm. Tiêu chuẩn nét đẹp cũng khác giờ.
 

Có thể bạn quan tâm

Top