(Lịch sử) Chiến Tranh Tôn Giáo Tại Nhật Bản - Một Bài Học Cho Việt Nam

cmdcn3mt9x

Tâm hồn dẩm chúa
“Khi là thiểu số, Giáo Hội La Mã là con CỪU, khi ngang số, nó là con CÁO, khi chiếm đa số, nó là con CỌP." (Rome in the minority is a lamb, Rome as an equal is a fox, Rome in the majority is a tiger).
Sử gia Loraine Boettner

Bài viết chủ yếu lấy tư liệu từ sách “Viet Nam: Why Did We Go?” của tác giả người Ý Avro Manhattan
Đọc xong bài sẽ hiểu vì sao bọn Nhật sau này lại mạnh như vậy.
Tóm tắt
► Những nhà truyền giáo Ca-tô đựơc hoan nghênh đến Nhật Bản vào thế kỷ 16

► Những nhà cai trị, những kẻ bảo hộ Nhật Bản cho Giáo Hội Ca-tô

► Giáo hội Ca-tô bắt đầu can thiệp vào chính trị Nhật Bản

► Giáo dân Ca-tô Nhật Bản chống lại chính quyền

► Sự bất ổn dân sự và cuộc nội chiến thúc đẩy bởi Giáo Hội Ca-tô

► Các cuộc vây hãm của Ca-tô và những trận đánh

► Những cuộc bách hại Ca-tô ở Kyoto và Osaka

► Cuộc đấu đá giữa tu sĩ dòng Tên, dòng Phanxicô và người Ca-tô Nhật Bản

► Thuyền trưởng Tây Ban Nha và Hideyoshi, người cai trị Nhật Bản

► Lệnh cấm của vương triều chống lại tất cả người Ca-tô

► Giáo dân Ca-tô Nhật trang bị vũ khí chống lại chính quyền Nhật Bản

► Các tu sĩ dòng Tên lãnh đạo một đội quân 30.000 người Ca-tô Nhật chống lại những người cai trị Nhật Bản.

► Việc sát hại Thống đốc tỉnh Shimbara bởi những người Ca-tô

► Trận chiến đẫm máu giữa người Ca-tô và Phật tử

► Người Hà Lan giúp Nhật Bản chống lại người Ca-tô

► Sắc dụ: Tất cả các người Cơ-Đốc bị cấm vào Nhật Bản suốt 250 năm .
Lịch sử Nhật Bản cho thấy một ví dụ gây hấn nổi bật của Vatican. Đối với Trung Quốc và Thái Lan, chính sách cơ bản cho thấy thương nhân Công giáo và linh mục Công giáo làm việc cùng nhau, để cùng mở rộng lợi ích cho cả hai. Để đạt mục tiêu, việc mở rộng Giáo Hội Công giáo lúc nào cũng rất cần thiết.


Trái ngược với niềm tin thông thường, khi lần đầu tiên tiếp xúc với Tây Phương, Nhật Bản rất háo hức trao đổi ý tưởng của họ, như thương mại và hàng hóa. Từ cuộc đổ bộ đầu tiên của người Bồ Đào Nha vào nước Nhật, thương nhân nước ngoài được khuyến khích cập bến hải cảng Nhật. Giới chức thống trị địa phương của Nhật thảo luận với nhau mở cửa Nhật Bản để thương nhân Tây Phương tới lui buôn bán. Các nhà truyền giáo Công giáo cũng được tiếp đón như như các thương nhân, và đức tin Công giáo cũng được thiết lập tại vùng đất mới.

Các nhà truyền giáo còn được sự bảo vệ của một lãnh chúa mạnh mẽ là Nobunaga, một nhà độc tài quân phiệt Nhật Bản, trong thời gian từ năm 1573 tới năm 1582. Nhà độc tài này cùng lúc cũng để tâm kiểm soát sức mạnh chính trị của một phong trào quân nhân Phật Tử cùng với sự quảng đại đối với những người Công giáo mới tới. Ông khuyến khích người Công giáo mới tới bằng cách cho họ quyền truyền bá tôn giáo trên lãnh thổ của ông. Ông tặng họ đất ở Kyoto, và thậm chí còn hứa hẹn bảo trợ hàng năm. Nhờ vậy, chưa bao giời người Công giáo có một cơ hội lan tràn khắp nước như lần này. Hàng ngàn người đã chuyển đạo sang Công giáo. Nhiều trung tâm Công giáo được thiết lập hoặc mở rộng.

Có phải các nhà truyền giáo Công giáo đã được một đặc ân giảng dạy giáo lý tôn giáo của mình một cách bình đẳng? Có phải đây là một phần thưởng tinh thần to lớn của Nhật đối với người Công giáo? Sự thật hiển nhiên cho thấy một khi người Công giáo được đặt ân để trở thành một cộng đồng Công giáo to lớn, Vatican bắt đầu thiết lập một hệ thống lấn lướt và thống trị bằng vũ lực. Như người ta đã thấy một cách rõ ràng, Những người Nhật Bản chuyển đạo không còn là những người dân Nhật Bản bình thường nữa, mà đã trở thành những người dân của Giáo Hoàng, dưới sự điều động của Giáo Hoàng. Một khi họ đã chuyển đạo, sự trung thành với đất nước Nhật của họ bị biến mất, họ tự động trở thành những người rất nguy hiểm cho sự sống còn của đất nước Nhật Bản.

Đúng vậy! Điều này rất rõ ràng và sẽ mang lại nguy hiểm nghiêm trọng cho an ninh bên trong cũng như bên ngoài của đế quốc Nhật Bản. Đứng về phía các lãnh vực bên trong, Công giáo sẽ không khoan dung bất cứ một tôn giáo nào khác, bởi vì người Công giáo cho rằng chỉ có đạo Công giáo là một “chánh đạo,” tất cả các đạo khác đều là “tà đạo.” Điều này, tất nhiên sẽ đưa tới một cuộc nội chiến. Đứng về phía các lĩnh vực bên ngoài, bằng cách làm theo chỉ thị của các nhà truyền giáo nước ngoài, dĩ nhiên ưu tiên sẽ dành cho người nước ngoài mà không có lợi ích thương mại gì cho người bản xứ, trong khi sự xâm nhập chính trị và quân sự là một tai hoạ, nhất là trong thời kỳ tìm kiếm thuộc địa của các đế quốc Âu Châu.

Sau nhiều năm mở rộng cửa cho các nhà truyền giáo Công giáo, Nhật Bản bắt đầu nhận ra rằng giáo hội Công giáo không chỉ là một tôn giáo, nhưng cũng là một quyền lực chính trị kết nối với sự mở rộng của các quốc gia Công giáo như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Pháp, và một số các quốc gia Tây Phương khác. Nguyên lý bất chính của Công giáo cho rằng chỉ có Công giáo là một chánh đạo duy nhất trong khi tất cả các đạo giáo khác đều là tà đạo đã bắt đầu cho ra bông ra trái. Bất cứ nơi nào người Nhật được chuyển đạo thành người Công giáo một cách rộng rãi, nơi đó có sự bất khoan dung của người Công giáo.

Bất cứ vùng nào người Công giáo Nhật Bản trở thành đa số, tín đồ Phật Giáo luôn bị người Công giáo chèn ép. Không những các chùa Phật Giáo bị tẩy chay, mà các chùa còn bị đóng cửa, bị tước đoạt, hoặc bị chuyển đổi thành nhà thờ Công giáo. Có rất nhiều trường hợp người Phật Giáo bị ép buộc phải bỏ đạo của mình để theo đạo Công giáo. Nếu họ từ chối thì kết quả sẽ là mất tài sản, và thậm chí còn mất cả tính mạng. Đối diện với các hành vi này, thái độ khoan dung của những người cầm quyền Nhật Bản cũng đã bắt đầu thay đổi.

Ngoài việc xung đột nội bộ, các tham vọng chính trị của các Đế Quốc Công giáo ngoại quốc bắt đầu trình bày thái độ không khoan dung của họ đối với những người cai trị Nhật Bản, là không thể bỏ qua. Vatican, vào một buổi điều trần về sự thành công của Công giáo ở một miền đất xa xôi, đã phát động kế hoạch của họ cho một sự thống trị chính trị. Như sự quen thuộc mà họ đã từng làm, họ sẽ sử dụng các nhà truyền giáo của giáo hội, cùng với sức mạnh quân sự đồng minh giữa các quốc gia Công giáo. Đây là những người có đầy nhiệt tâm mang thánh giá; đầy nhiệt tâm cho chủ quyền của Giáo Hoàng; đầy nhiệt tâm cho lợi ích thương mại; và đầy nhiệt tâm về sự chinh phục quân sự trong cùng một tàu chiến.

Vatican luôn luôn theo cùng một công thức chính trị xâm nhập này kể từ khi phát hiện ra châu Mỹ. Nhiều Giáo Hoàng, bao gồm Giáo Hoàng Leo X, đã ban bố, đã khuyến khích, mà thực ra, là hợp thức hoá tất cả các cuộc chinh phục các lãnh thổ bị chiếm đóng bởi người Công giáo Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha ở Viễn Đông. Dẫn đầu trong số đó là Alexander VI, với các khoản trợ cấp của Tây Ban Nha chiếm quyền sở hữu của tất cả các “đất đai và đảo tìm thấy tại Ấn Độ, hoặc tại bất cứ nơi nào.” Nhật Bản được liệt kê là một trong những món quà của Giáo Hoàng mà Thượng Đế ban cho hai đế quốc Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha.

Vì vậy cho nên, khi cộng đồng Công giáo Nhật Bản đã trở thành mạnh mẽ, đủ để hỗ trợ quyền lực thế tục Công giáo, Vatican đã bước một bước đầu tiên quan trọng trong chiến thuật chính trị tầm xa, đó là sử dụng các cộng đồng Công giáo ở Nhật như là một công cụ chính trị để tiến hành chinh phục vùng đất mới. Để thực hiện chính sách này, năm 1579, Vatican gửi một nhà truyền giáo Dòng Tên (Jesuits) tên là Valignani, đến để tổ chức một loạt nhà thờ Nhật Bản trên những hòn đảo nhỏ của Nhật. Dĩ nhiên trong thời gian Valignani thiết kế các nhà thờ, Valignani bị theo dõi ngầm để bảo đảm việc làm là thuần tuý tôn giáo, và Valignani cũng được hỗ trợ của nhiều hoàng tử Nhật như Omura, Arima, Bungo, và nhiều người khác. Họ đã lập thành một “tỉnh Công giáo,” với sự trợ giúp của các sinh viên, bệnh viện, và chủng viện, nơi thanh thiếu niên Nhật được huấn luyện về thần học, về chính trị, về văn chương, và về khoa học.


Lãnh chúa Toyotomi Hideyoshi, vẽ năm 1601

Sau khi xâm nhập đủ sâu vào các lãnh vực tôn giáo, giáo dục, và các cấu trúc xã hội, ở các tỉnh của các hoàng tử, Valignani bước thêm một bước thứ hai, là thuyết phục lập một phái đoàn ngoại giao chính thức tới gặp Giáo Hoàng. Khi phái đoàn trở lại Nhật năm 1590, tình hình đã thay đổi đáng kể. Hideyoshi, một lãnh chúa mới của Nhật, ý thức rất sâu sắc những tác động chính trị của Công giáo và sự liên kết của họ với các thế lực chính trị tôn giáo xa xôi Tây Phương, như là Giáo Hoàng. Ông quyết định thống nhất với Phật Giáo, không phục vụ chính trị cho bất cứ một hoàng tử nào bên ngoài lãnh thổ của ông.

Năm 1587, Hideyoshi viếng thăm đảo Kyushu và đã ngạc nhiên tìm thấy cộng đồng Công giáo trên đảo này đã thực hiện các cuộc đàn áp tôn giáo kinh khủng. Ở khắp mọi nơi, ông thấy những tàn tích của các ngôi chùa Phật Giáo và các Tượng Phật bị sứt mẻ hư hỏng. Ông thấy rất rõ người Công giáo, trên thực tế, đã buộc phải cố gắng làm cho toàn bộ hòn đảo Kyushu bị “Công giáo hoá” hoàn toàn.

Trong cơn phẫn nộ, Hideyoshi lên án các cuộc tấn công của Công giáo vào Phật Giáo; sự không khoan dung các tôn giáo khác của Công giáo; sự liên hiệp chính trị của Công giáo với các thế lực ngoại bang; và các thực tế khác như phá hoại… rồi ông kỳ hạn cho cho người Công giáo trong vòng hai mươi ngày phải rời khỏi Nhật. Nhà thờ và tu viện của người Công giáo tại Kyoto và Osaka được lệnh kéo sập khi Phật Tử bị tấn công, và quân đội cũng được gửi đến Kyushu.

Các biện pháp chỉ thành công có một phần vì Công giáo đã xâm nhập quá sâu vào xã hội. Năm 1614, tất cả linh mục Công giáo nước ngoài được lệnh phải rời khỏi Nhật thêm một lần nữa. Lệnh trục xuất được ban ra bởi một vấn đề nghiêm trọng: Các nhà truyền giáo Công giáo, bên cạnh chăm sóc sự bất khoan dung tôn giáo giữa người Nhật, đã bắt đầu mở một cuộc chiến cay đắng với nhau. Cãi cọ giữa giữa những người Jesuits và Franciscans đã tự chia đôi cộng đồng Công giáo của họ. Những mối hận thù trở thành rất nguy hiểm cho đến nỗi các giới chức chính quyền Nhật Bản sợ họ sẽ dẫn đến nội chiến. Nhật Bản cũng thấy nội chiến thế nào cũng sẽ lôi kéo sự can thiệp quân sự của Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha. Sự tham gia của quân đội nước ngoài là một mối lo rất lớn cho nền độc lập của Nhật Bản.

Sợ hãi này có phải là một sự phóng đại hay không? Sự phát triển của Công giáo Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha đã có thể chứng minh rằng nguy cơ là một thực tế. Sự xâm nhập của Franciscans đã biến Philippines thành thuộc địa năm 1593 gây cho Hideyoshi không thể ngưng báo động. Các tu sĩ dòng Francisciscans bỏ ngoài tai mọi thứ, xây dựng nhà thờ và cải đạo tại Kyoto và Osaka, bất chấp các cơ quan của nhà nước. Vấn đề rất phức tạp, họ bắt đầu cãi vã và dùng bạo lực với dòng Jesuits. Những điều Hideyoshi nỗ lực tìm hiểu tuy nhỏ nhưng rất đáng chú ý.

Năm 1596 một thuyền buồm Tây Ban Nha, chiếc San Felipe, bị đắm ngoài khơi tỉnh Tosa. Hideyoshi ra lệnh tịch thu chiếc tàu và hàng hóa trên tàu. Vì tức giận, viên đại tá Hải Quân Tây Ban Nha, vì muốn gây ấn tượng hoặc đe dọa các quan chức Nhật Bản, đã đưa ra một trong nhiều cách Tây Ban Nha đã chiếm nhiều thuộc địa trên thế giới. Bằng chứng mà viên thuyền trưởng cho các giới chức Nhật thấy, là một bản đồ của tất cả các thuộc địa do Tây Ban Nha chiếm trên thế giới.

Các quan chức Nhật ngạc nhiên hỏi làm thế nào mà Tây Ban Nha đã có thể chiếm được rất nhiều đất đai ở nhiều chỗ khác nhau? Đại tá Hải quân Tây Ban Nha tự hào đáp là Nhật Bản sẽ không bao giờ có thể bắt chước được Tây Ban Nha, chỉ đơn giản là bởi vì Nhật Bản không có các nhà truyền giáo Công giáo. Ông khẳng định rằng tất cả các lãnh thổ Tây Ban Nha đã được chiếm đoạt bằng cách trước nhất là gởi các nhà truyền giáo tới để cải đạo người địa phương, rồi sau đó Tây Ban Nha sẽ gởi quân tới để chiếm đất, với sự trợ giúp của các con chiên cải đạo.

Khi chuyện này được báo cáo lên Hideyoshi, sự tức giận của Hideyoshi không còn có thể kềm chế được nữa. Những nghi ngờ của ông về việc sử dụng các nhà truyền giáo như là một nấc thang đầu tiên cho cuộc chinh phục thuộc địa, được xác nhận một cách trắng trợn. Ông nhận ra ngay mô hình đánh chiếm thuộc địa một cách khôn ngoan đã lọt vào bên trong chính quyền đế chế của ông.

Năm 1597 cả hai dòng Phanxicô lẫn Dominican bị cấm. Hai mươi sáu linh mục đã được tập họp tại Nagaski và bị hành quyết để tuyệt đối ngăn cấm và làm gương cho các nhà truyền giáo Công giáo. Năm 1598, Hideyoshi qua đời, và Công giáo được tiếp tục trở lại với các Đoàn Tông Đồ (Vigors) cho đến khi Ieyasu lên nắm quyền vào năm 1616. Ieyasu còn cấm đạo gay gắt hơn người tiền nhiệm của ông. Một lần nữa, dưới triều Ieyasu, các nhà truyền giáo Công giáo được lệnh phải rời khỏi nước Nhật, và hình phạt “chém đầu” được đưa ra cho người Nhật nào không chịu từ bỏ đạo Công giáo.


Twenty-six_Martyrs_of_Japan


26 nhà truyền giáo bị tử hình ở Nagasaki - Nhật.
Ảnh 26 Martyrs of Japan - Wikipedia
 
Sửa lần cuối:
Lệnh cấm gây thành bạo động năm 1624 dưới thời Jemitsu (1623-1651), khi tất cả các thương gia và các nhà truyền giáo Tây Ban Nha được lệnh lập tức rời khỏi nước Nhật. Các con chiên Nhật Bản bị cấm không được đi theo các nhà truyền giáo, và các thương gia Nhật cũng không được buôn bán với người Công giáo.



Để chắc chắn rằng các chỉ dụ này được tôn trọng và tuân hành, tất cả các tàu có sức chở hơn 2.500 giạ lúa (bushel) sẽ bị phá phá hũy. Để dập tắt đạo Ca-tô Rô-ma tại Nhật. Jemitsu ra sắc lệnh năm 1633, 1634 và năm 1637, hoàn toàn cấm tất cả các đạo nước ngoài truyền bá trên các quần đảo Nhật Bản. Tại thời điểm này, người Công giáo Nhật Bản cũng bắt đầu tổ chức phản kháng một cách bạo động. Phản kháng nổ ra vào mùa Đông năm 1637 tại Shimbara và trên các đảo nhỏ lân cận đảo Amakusa. Người trong các khu vực này hoàn toàn là người Công giáo, đa số là tự nguyện vào đạo, trừ một số ít bị bắt buộc cải đạo. Lãnh đạo của nhóm này do các linh mục Tây Phương, các cộng đồng Công giáo bắt đầu trang bị vũ khí và tổ chức thành quân đội để chiến đấu chống lại chính quyền Nhật Bản. Chống lại chính quyền Nhật Bản là để lộ một cuộc “chiến tranh tôn giáo” một cách trắng trợn.

Vì sợ các người Công giáo có thể bị sử dụng như một công cụ của các quốc gia Công giáo Tây Phương xâm chiếm Nhật làm thuộc địa, Nhật đã đánh thuế người Công giáo tới mức tối đa mà họ không đóng nổi. Những người Dòng Tên (Jesuits), trong khi đó, đã chuẩn bị kháng chiến, đã thiết lập được một đội quân Công giáo 30.000 quân, mang các hiệu kỳ Giêsu, Maria, và St. Iago, tung bay trước đoàn quân.

Họ mở cuộc tấn công chống lại chánh phủ Nhật Hoàng, đánh những trận đẫm máu dọc theo mũi Shimbara gần Vịnh Nagasaki. Sau khi giết chết viên thống đốc trung thành của Nhật là Shimbara, đội quân Công giáo này còn đóng kín trong các pháo đài và đã thành công chống lại súng ống và tàu chiến Nhật Hoàng. Nhật Hoàng yêu cầu người Tin Lành Hoà Lan cho thuê tàu lớn để đủ sức chở các khẩu pháo hạng nặng cần thiết. Người Hoà Lan đã đồng ý, và Nhật đã có thể bắn phá thành luỹ của người Công giáo cho đến khi thành luỹ bị phá hũy và tất cả những người Công giáo trong thành đều chết. Kết quả ngay lập tức là một chỉ dụ cấm đạo năm 1639:

Trong tương lai, không có một ai, khi ánh sáng mặt trời còn chiếu sáng trên thế giới, có thể lái tàu buồm tới Nhật Bản, ngay cả các sứ thần ưu tú, và tuyên bố này không bao giờ được thu hồi, kẻ vi phạm phải chết!...

Chỉ dụ bao gồm cho tất cả người Tây Phương ngoại trừ một ngoại lệ là người Hoà Lan được đặt ân tới Nhật vì họ đã giúp loại trừ cuộc nổi dậy của người Công giáo. Tuy nhiên, vì người Hoà Lan cũng là người đạo Thượng Đế, họ bị theo dõi tối đa. Người Hoà Lan phải di chuyển trụ sở của họ đến đảo Deshima tại vịnh Nagasaki. Họ sống ở đây chật vật như những tù nhân. Họ chỉ được phép đặt chân ra khỏi hòn đảo nhỏ nầy để đi đến những nơi khác trên đất Nhật mỗi năm một lần. Ngoài ra, với những hạn chế bắt buộc liên quan đến các nghi lễ đạo Tin Lành, người Hoà Lan không được để các tín hữu Tin Lành cầu nguyện dưới một chủ đề Nhật Bản duy nhất. Dưới con mắt của người Nhật, đạo Ca-tô Rô-ma không gì khác hơn là một công cụ chính trị và quân sự của người Tây Phương để đánh chiếm thuộc địa. Khi Hoà Lan ký một hiệp ước với Nhật về thương mại gồm có bảy điều khoản, thì có đến bốn điều khoản nói về Công giáo:

Thương mại giữa Nhật Bản và Hà Lan là vĩnh viễn.

Không có tàu Hà Lan nào được chở một người đạo Công giáo của bất cứ quốc gia nào, hoặc chuyển một lá thư do người Công giáo viết.

Người Hà Lan cần thông báo cho thống đốc Nhật Bản bất kỳ thông tin nào về việc truyền bá đạo Ca-tô Rô-ma của các quốc gia ngoại quốc khi thấy cần thiết.

Nếu người Tây Ban Nha hoặc người Bồ Đào Nha chiếm cứ đất nước của ai vì lý do tôn giáo, Hà Lan cần thông báo cho thống đốc tại Nagasaki.

Thêm vào đó, tất cả các sách vở của tàu Hà Lan, đặc biệt là những sách vở có chủ đề tôn giáo, phải được niêm phong trong thùng, phải chuyển giao hết cho Nhật gìn giữ trong khi tàu bỏ neo ở bến. Người Hoà Lan, đầu tiên được cập bến bảy chuyến tàu buồm mỗi năm, sau đó thì bị giới hạn chỉ còn một chuyến mỗi năm.

Nhật Bản, bắt đầu từ đây, bất cứ điều gì liên hệ tới Công giáo, đều bị nghi ngờ là: “Lừa dối; Không khoan dung; Và chiếm hữu thuộc địa.” Nghi ngờ về sự ngoan cố và xảo quyệt của người đạo Ca-tô Rô-ma đã in sâu vào tâm trí người Nhật, thậm chí họ còn làm tăng cường sắc lệnh đầu tiên bằng những sắc lệnh mới: Người Công giáo sẽ bị kết án là một tội phạm khi bất kỳ tàu nào của họ đến tìm nơi nương náu ở một hải cảng Nhật, hoặc bất kỳ một thủy thủ Công giáo nào bị đắm tàu ngoài khơi bờ biển Nhật. Người Nhật rất giận, ngay cả với bất cứ điều gì nhắc nhở họ về đạo Ca-tô Rô-ma. Người Hà Lan bị cấm sử dụng lịch “Dương Lịch” trong các tài liệu kinh doanh của họ, bởi vì quyển lịch này nói tới ngày “Chúa Nhật” một cách liên tục. Để bảo đảm an toàn, Nhật đã trở thành một vùng đất “hoàn toàn khép kín” cánh cửa đối với thế giới bên ngoài. Cho tới khoảng hơn 200 năm sau, khi Commodore Perry là một người Mỹ, một lần nữa mở được cánh cửa Đất Nước Thần Mặt Trời, để chỉ cho người Nhật thấy nhiều quốc gia trên thế giới đang bị tấn công bằng thần công đại bác bắn từ ngoài biển bắn vào, trong số đó có Việt Nam. Những gì mà Nhật Hoàng đã thấy rất rõ và đã ngăn cấm hơn 200 năm trước, bây giờ là sự thật.

Nhìn người Nhật mà đau xót cho người Việt Nam. Đau xót còn nhiều hơn nữa khi chính những người này là những người đã tạo thành một trang sử ô nhục cho người Việt Nam! chính họ là những người đã “nô lệ hoá cả một dân tộc của họ gần một thế kỷ,” giờ này, họ lại còn giở trò bẻ cong lịch sử. Liệu họ có thể bẻ cong được lịch sử hay không với câu nói lịch sử của một người, mà người đó không phải là người Việt Nam?

“Giáo Hội Công giáo phải được xem là nguồn gốc của động lực chính, leo thang, và phát khởi Chiến Tranh Việt Nam. Từ buổi bắt đầu, tôn giáo này đã cổ động dồn dập gây ra thống khổ bất tận trên cả hai lục địa Châu Á và Châu Mỹ.”

Avro Manhattan
(Why did we go?, trang 13).

Có phải câu nói trên của Avro Manhattan hàm chỉ: “Chiến tranh Việt Nam là một chiến tranh tôn giáo? (SH- đúng hơn là, chiến tranh của Thiên Chúa Giáo)”
DuyênSinh

DuyenSinh@Livecom

THAM KHẢO:

Vietnam – why did we go? Avro Manhattan, Chick Publications (1984)

Vietnam a History, Stanley Karnow, Penguin Books (1997)

The American Pope: The Life and Times of Francis Cardinal Spellmen, Dell Publising Inc. (1984)
 
Sửa lần cuối:
Sự quyết đoán đã giúp NB trở thành cường quốc, khi năm 1624 họ đã nhận ra sự nguy hiểm của đạo Kito
Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất phải đến 1820 mới hoàn tất. Nếu lúc đó NB do dự thì sẽ để vuột mất cơ hội. Khi TBN đủ mạnh mới dẹp loạn tôn giáo, Nhật sẽ bị bọn châu Âu liên quân lại, đánh cho tơi tả ngay
 
Sửa lần cuối:
Tương tự như thế, bên Thái đạo chúa cũng đang giảm dần đều
1635343014144.png
 
Bọn chiên nó tưởng tao theo đạo Phật nên định lập thớt bài xích đạo Phật để trả đũa ý mà
Nhưng tao lại deck theo đạo nào, chưa từng đi chùa bao giờ luôn, nên điều đó không ảnh hưởng đến việc chống Kito của tao :vozvn (20):
 
Sửa lần cuối:
Còn thằng nào không hiểu sao tao lại ghét đạo chúa như vậy á.
Với tao bây giờ, bài trừ đạo chúa là một lý tưởng cao đẹp :vozvn (20):
Trích Luận án tiến sĩ Đạo thiên chúa và chủ nghĩa thực dân tại việt nam, Paris 1969
Một cơn lốc cải đạo triệt để thổi vào mọi giáo khu, các vụ cải đạo diễn ra một cách nhanh, nhiều và lắm khi tập thể. Thế nhưng các vụ mới cải đạo này, ngoại trừ vài trường hợp đặc biệt hiếm hoi, đều xảy ra nơi những người có rắc rối về tiền bạc, hoặc vì các lý do khác không lấy gì cao quí. Những giáo sĩ thừa sai và các linh mục bản xứ được đánh giá tùy theo số người cải đạo mà họ thực hiện được; vì thế họ ít ngần ngại trong việc lựa chọn các phương cách[835].
Chúng tôi chọn hai ví dụ tiêu biểu nhất:
Giữa lúc rối loạn, viên Chánh tổng ở Thượng Lôi (Hà Tĩnh) bị các “kẻ làm loạn” ám sát tại tư gia. Các hương chức đã không làm gì cả để ngăn chận các “kẻ làm loạn” vào làng, vì vậy họ sợ bị truy tố. Độ một phần ba dân làng cải đạo, và do sự can thiệp của Phái bộ, làng khỏi bị trừng phạt. Nhưng dù các thừa sai đã hết sức cố gắng, số dân còn lại vẫn không muốn theo Gia Tô giáo. Thấy rằng các cố gắng của mình vô ích, linh mục Magat, người điều khiển giáo khu huyện Thạch Hà, muốn lấy về cho mình ít nhất ba ngôi chùa trong làng. Ông ta ra lệnh cho con chiên triệt hạ hai trong ba ngôi chùa và đốn hết cây chung quanh, các vật liệu lấy được thì mang về xây nhà thờ Chúa cùng nhà ở cho thầy giảng. Viên Tri huyện không chống đối công trình phá hoại này do lệnh của các giáo sĩ thừa sai, và đã hợp thức hóa việc làm đó bằng một bản án[836].
Vụ sau đây do viên Công sứ ở Vinh (Nghệ An) kể lại, trong thư đề ngày 22 tháng 4 năm 1891 gởi cho giám mục Pineau, Đại diện Tòa thánh tại vùng
Nam Bắc kỳ:
“Chúng tôi từ Lương đến Yên Trạch ngày thứ ba 31 tháng 3. Rời Lương khoảng nửa giờ, chúng tôi gặp dân làng Kim Liên đợi chúng tôi trên đường,
vừa khóc lóc vừa trình cho chúng tôi các lời khiếu nại chống linh mục Klingler.
“Một ngôi chùa thật đẹp, được dựng lên từ hơn một thế kỷ, nằm ở ven đường, năm ngoái đã bị rào kín và từ khi đó bị biến thành đồn bót của Gia
Tô giáo. Hình như một vài tín đồ Gia Tô có yêu cầu linh mục Klingler đến lập một đồn bót tại làng. Họ ép buộc những người khác trong làng phải cải
đạo như họ, phải nhường ngôi chùa để làm đồn bót
; đồn bót này có thể được dựng lên nơi khác nếu linh mục Klingler có một tí tôn trọng lòng sùng kính tôn giáo của những Phật tử. Hiện nay chỉ còn có bốn người trong làng theo Gia Tô giáo. Tất cả những người khác đều nói với tôi rằng họ không muốn theo, họ đã theo chỉ vì họ bị ngược đãi và bị đe dọa đuổi ra khỏi làng bởi những người đã cầu viện vị thừa sai này...
Tôi đến viếng ngôi chùa, vài phần đã bị đập phá, và tại đó tôi thấy có một cái cùm; dân làng xác nhận với tôi là họ thường bị cùm ở đó do lệnh của vị thầy giảng và của các tín đồ mới theo ở Kim Liên hay ở Bảo Nham: đó là những người đòi họ phải cải đạo, phải nhường ngôi chùa và đất của chùa, phải nộp các đồ tịch thu và lương thực. Vị thầy giảng có mặt tại chỗ và không giải thích được gì với tôi cả, chỉ một mực trả lời rằng ông ta chỉ là người thụ ủy của linh mục Klingler.”
Rất đông dân làng Xuân Sơn, Yên Long, Trung Hậu, và nhiều làng khác: Sơn La, Văn Lâm, Lưu Sơn, Lệ Nghĩa, Bột Đa, Kiều Liên, Thọ Lão, Yên Lãng... cũng đón đợi viên Khâm sứ và đệ trình cho ông ta những khiếu nại tương tự như thế khi ông ta đi qua[837].
Những vụ việc như vậy không phải chỉ xảy ra ở riêng một tỉnh: tỉnh nào cũng có, nhất là ở Bình Thuận, Phú Yên, Bình Định, Hà Tĩnh và Nghệ An.
Giới chức thuộc địa rất lo ngại về tình trạng này cùng những hậu quả của nó đối với an ninh trong xứ, nhưng họ không dám đương đầu với Phái bộ vì
ngại sức mạnh của Phái bộ. Trước hết là sức mạnh tinh thần: thế lực mà những giáo sĩ thừa sai gây nên trên một phần đáng kể dân chúng, hoặc họp
thành cả làng quanh họ, hoặc tản mác trong các trung tâm giàu có nhất (ở Nam kỳ), là điều không thể chối cãi được. Kế đến là sức mạnh kinh tế: tài
sản mà Phái bộ tích tụ được ở Đông Dương to lớn đến nỗi ngay cả chính quyền thuộc địa cũng lo ngại[838]. Sau hết là sức mạnh chính trị: chỉ riêng ở
Bắc kỳ, Phái bộ có trong tay ba cơ quan tuyên truyền có thế lực: các tờ báo Avenir du Tonkin, Courrier d’Hai-Phong và Indochine Française[839]. Ý
thức về sức mạnh của mình, Phái bộ đối xử với chính quyền bằng cách lấy sức chọi sức, buộc chính quyền phải nghe thái độ và đường lối của mình, can
thiệp vào đời sống chính trị, vào những cuộc bầu cử các Hội đồng Thị xã cũng như vào các cuộc tuyển cử đại diện cho Thượng Hội đồng Thuộc địa;
thành viên của Hội đồng, De Montpezat, là tay chân của Phái bộ[840]. Chính quyền sợ Phái bộ, những ai chống lại hay tiết lộ hành động của Phái bộ liền bị nghiền nát ngay[841]; Phái bộ có “mọi phương tiện, kể cả và nhất là những phương tiện không lương thiện, để bứng đi một viên Công sứ gây trở ngại”[842]. Đại úy Monet, rất rành về hậu trường của chính trị Đông Dương, đã phải viết rằng chính linh mục Robert, một đại tư bản, Tổng quản của Phái bộ và Giám đốc thực sự của tờ Avenir du Tonkin, mới là Toàn quyền thực sự ở Đông Dương

Giáo Sĩ Thừa Sai Và Chính Sách Thuộc Địa Của Pháp Tại Việt Nam (1857 - 1914)
 
Sửa lần cuối:
Chỉ có ở VN là đạo chúa giảm nhẹ, còn các đạo khác giảm mạnh
View attachment 595703
đm cái này số liệu bây giờ thôi chứ hồi 1945 ở Việt nam đa phần theo tôn giáo hết =)) . Mấy ông Công giáo Caođài Hòa hảo đi chạy sô dành giật giáo dân y như bọn đa cấp bây giờ ấy. Thờiđó CS ít thôi,đm sau năm 47đạo CS bị bọn Caođài hòa hảo nó hấp diêm, chết cả đống
 
trước có cái phim gì về thiênh chúa giáo bị tàn sát ở Nhật , xem tởm vl. À phim Silence
Nguyên nhân là đây
Về sau bọn xâm lược nó khôn ra, không bô bô đi khoe khoang nữa. :vozvn (20):
Các quan chức Nhật ngạc nhiên hỏi làm thế nào mà Tây Ban Nha đã có thể chiếm được rất nhiều đất đai ở nhiều chỗ khác nhau? Đại tá Hải quân Tây Ban Nha tự hào đáp là Nhật Bản sẽ không bao giờ có thể bắt chước được Tây Ban Nha, chỉ đơn giản là bởi vì Nhật Bản không có các nhà truyền giáo Công giáo. Ông khẳng định rằng tất cả các lãnh thổ Tây Ban Nha đã được chiếm đoạt bằng cách trước nhất là gởi các nhà truyền giáo tới để cải đạo người địa phương, rồi sau đó Tây Ban Nha sẽ gởi quân tới để chiếm đất, với sự trợ giúp của các con chiên cải đạo.
 
Sửa lần cuối:
Những thớt như này thì bọn chiên lặn hết, căn bản là deck phản bác đc gì luôn :vozvn (20):
thấy nguồn sachhiem là chả muốn đọc rồi, giờ cho dù là thánh nhân nhưng theo công giáo thì trong mắt bọn chúng đều là rác rưởi
 
Nguyên nhân là đây nhé
Về sau bọn xâm lược nó khôn ra, không bô bô đi khoe khoang nữa. :vozvn (20):
Nó qua tận châu Mỹ, xứ vô đạo mà truyền đạo là chuẩn bài rồi. Sang mấy xứ như Nhật, Việt, mang tiếng là xứ đạo Phật mà vẫn có dân theo đao Thiên chúa là trình độ truyền giáo nó quá tởm còn gì , mày công nhận không, mày có giỏi qua xứ Tây truyền đạo SHinto xem có thằng nào nó theo không :)) .Đm nói tiếng Tây cònđéo sõiđòiđi truyềnđạo, mẹ mấy thằng giáo sĩ nó học cũng cả đống thứ đấy.
Đm xưa có mấy thằng Ấn da đen tóc xoăn đi truyền đạo Phật sao mày không chửi chết mẹ tụi nó đi, chửi bọn Tây làm gì
 
thấy nguồn sachhiem là chả muốn đọc rồi, giờ cho dù là thánh nhân nhưng theo công giáo thì trong mắt bọn chúng đều là rác rưởi

Nguồn nào quan trọng sao? quan trọng là cái nó nói có đúng ko? Nó có tự bịa ra đâu, cái trò cha xứ đi trước, lính lác theo sau này là nguyên nhân xứ Á Đông nó diệt bằng được bọn TCG chứ đâu tự nhiên mà người ta cấm
 
thấy nguồn sachhiem là chả muốn đọc rồi, giờ cho dù là thánh nhân nhưng theo công giáo thì trong mắt bọn chúng đều là rác rưởi
nguồn sách hiếm đúng bọn kiểu cực đoan chuyện lịch sử để nghiên cứu đéo ai dựng lên xong thù oán chửi bới đéo ra gì =))
 
Có vẻ dân Nhật bớt me Tây hơn dân Kinh, cơ mà bài dài vl.
Nhật nó me Tây bỏ mẹ ra, =)) . Có mấy thằng vua ngày xưa ngứa mắt vì dân nóđéo thần phục vua lại đi me tây nên nó xử thôi. Mà sau tới thời thằng Minh trị thì me Tâyđích thị còn gì =))
 
Nó qua tận châu Mỹ, xứ vô đạo mà truyền đạo là chuẩn bài rồi. Sang mấy xứ như Nhật, Việt, mang tiếng là xứ đạo Phật mà vẫn có dân theo đao Thiên chúa là trình độ truyền giáo nó quá tởm còn gì , mày công nhận không, mày có giỏi qua xứ Tây truyền đạo SHinto xem có thằng nào nó theo không :)) .Đm nói tiếng Tây cònđéo sõiđòiđi truyềnđạo, mẹ mấy thằng giáo sĩ nó học cũng cả đống thứ đấy.
Đm xưa có mấy thằng Ấn da đen tóc xoăn đi truyền đạo Phật sao mày không chửi chết mẹ tụi nó đi, chửi bọn Tây làm gì

Sau khi mấy ông đầu trọc đến có các đoàn quân xứ Cà ri đến ko? Có phá các công trình tôn giáo cũ, có ép dân khác vô đạo trọc đầu ko?
 
Nguồn nào quan trọng sao? quan trọng là cái nó nói có đúng ko? Nó có tự bịa ra đâu, cái trò cha xứ đi trước, lính lác theo sau này là nguyên nhân xứ Á Đông nó diệt bằng được bọn TCG chứ đâu tự nhiên mà người ta cấm
tranh chấp sự ảnh hưởng nên thịt nhau thôi. VN là đông nam á chứ phải đông á đâu. Đm còn dân Đông nam á thì toàn kiểu như xứ mọi chưa khai hóa, đạo nào vào trước thì theo chứ biết lol gì, thằng Thái Miến, bị mấy thằng Ấn vào nó truyền đạo Phật, Mã lai, indo brunei thì bị mấy thằng rậm râu nó truyền đạo hồi, Phillipin bị mấy thằng Tây lông vào truyền thiên chúa giáo.
Giờ xứ nào theo đạo xứ nấy, thằng nào ngoại đạo vào lớ ngớ là nó thịt thôi =))
 
Tao nghĩ nguồn nào nó không quan trọng.
Châu Á chỉ có 2 thằng Nhật và Thái là hoàn toàn không trải qua gian đoạn thuộc địa.
Nếu không có trang sachhiem này thì đúng là tao cũng không biết ở Nhật với Thái nó đã diễn ra những gì. Tao đã từng đặt câu hỏi sao bọn nó theo đạo chúa ít như vậy, hóa ra là đã trải qua cả 1 quá trình nhận thức :vozvn (1):
 
Top