Có Video [Luật khoa tạp chí]: Cần LÀM GÌ để chống lũ lụt?

- Năm 2017, tại xóm Khanh, tỉnh Hòa Bình, có 18 người chết do sạt lở núi.
- Năm 2020, ở Trà Len, tỉnh Quảng Nam, 22 người chết vì sạt lở đất.
- Đến tháng 9 năm 2024, làng Nậm Tông có ít nhất 18 người chết, còn làng Nũ có đến 53 người thiệt mạng cùng do sạt lở núi tại tỉnh Lào Cai.

Sau thảm kịch này, chính quyền cho biết trong vòng 100 ngày, người dân làng Nũ sẽ có làng mới. Đây có thể là kỷ lục tái định cư người dân vùng thiên tai nhanh nhất từ trước đến nay.

- Năm 2015, Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản cho biết miền Bắc có hơn 10.000 điểm sạt lở đất.

- Đến năm 2022, chính phủ công bố cần phải di dời hơn 47.000 hộ dân trong vùng thiên tai. Hàng nghìn ngôi làng, hàng chục nghìn người dân đang đứng trước nguy cơ bị đất đá vùi lấp. Những nơi này có thể trở thành “làng Nũ” bất cứ lúc nào.


1. Tái định cư người dân trong khu vực thiên tai đồng nghĩa với việc giữ lại mạng sống của họ. Vậy vì sao chính quyền lại chậm trễ?

Theo Liên Hiệp Quốc, Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách di dời dân cư khỏi khu vực thiên tai, nhất là từ năm 1996. Chính sách tái định cư đã tiến bộ theo thời gian: từ việc chỉ đơn giản di dời người dân đến nơi an toàn, đến việc gắn tái định cư với tạo việc làm, phát triển sản xuất, tăng thu nhập.

Tuy nhiên, chính quyền vẫn không dành đủ nguồn lực để thực hiện nghiêm túc những cam kết này.
Năm 2011, hàng trăm hộ dân sống dọc sông Vệ (tỉnh Quảng Ngãi) khẩn cầu được di dời, nhưng chưa được đáp ứng.
Hai năm sau, Quảng Ngãi đón trận lũ lịch sử làm ít nhất 10 người chết.

Năm 2021, tỉnh Yên Bái cho biết nhu cầu di dời người dân vùng thiên tai là rất lớn, nhưng không có đủ quỹ đất và kinh phí để xây dựng khu tái định cư. Đến tháng 9 năm 2024, trong đợt bão Gia vừa qua, Yên Bái có ít nhất 50 người chết do sạt lở đất.

Tại tỉnh Hòa Bình, một số nơi có quỹ đất nhưng lại thiếu kinh phí xây dựng, không thể kéo điện, nước đến khu tái định cư, khiến người dân không thể chuyển đến nơi ở mới.
Ở nhiều tỉnh khác, chính quyền khuyến khích người dân tự di dời và chỉ hỗ trợ một khoản nhỏ, khiến hộ nghèo không thể di dời.

Năm 2010, có 22 gia đình ở tỉnh Bắc Kạn cần phải di dời, nhưng nhà nước chỉ hỗ trợ 10 triệu đồng mỗi hộ, khiến họ không thể thực hiện.
Đến năm 2022, mức hỗ trợ di dời vì thiên tai tăng lên 20 triệu đồng một hộ, nhưng các địa phương vẫn cho rằng quá thấp.
Sắp tới đây, mức hỗ trợ tối thiểu dự kiến là 30 triệu đồng một hộ, song người dân vẫn rất khó di dời nếu nhà nước không đảm bảo đất ở, nhà cửa, điện, nước, và đường xá.

Ông Vũ Văn Tiến – Phó Cục trưởng Cục Kinh tế Hợp tác và Phát triển Nông thôn – khẳng định: những năm qua, ngân sách trung ương và địa phương đều không đủ để di dời người dân vùng thiên tai, cũng như ổn định đời sống sau tái định cư.

Trong 10 năm qua, các kế hoạch ứng phó thiên tai của Việt Nam chưa thể kiểm soát được số người chết và mất tích vì bão lũ, sạt lở đất:

Năm 2014: 133 người;

Năm 2016: 264 người;

Năm 2018: 224 người;

Năm 2020: 357 người;

Năm 2022: 175 người.

Đến tháng 9 năm 2024, con số này tăng gần gấp đôi – hơn 323 người chết và mất tích.



2. Vì sao chính sách di dời dân cư vùng thiên tai không được thực hiện quyết liệt?

Một trong những đặc trưng của việc làm luật tại Việt Nam là Quốc hội không quy định cụ thể cách thực thi, mà để chính phủ tự triển khai. Chính sách di dời người dân vùng thiên tai cũng rơi vào tình trạng này.

Trước năm 2013, việc di dời chủ yếu dựa trên các chính sách do chính phủ ban hành.

Năm 2013, Quốc hội thông qua Luật Phòng chống thiên tai. Điều 5 và Điều 13 quy định cần di dời người dân sống ở vùng nguy hiểm đến nơi an toàn, nhưng lại không nêu cụ thể cách thực hiện hay cơ chế giám sát.

Phải đến năm 2018 – tức 5 năm sau – chính phủ mới ban hành Nghị quyết 76 về công tác phòng chống thiên tai.


Nghị quyết khẳng định 100% hộ dân ở khu vực thường xuyên có thiên tai phải có nơi ở an toàn.
Một năm sau, Bộ Nông nghiệp đề xuất “Chiến lược quốc gia về phòng chống thiên tai đến năm 2030, tầm nhìn 2050”.
Phải mất thêm hai năm, chiến lược này mới được thông qua.


Theo chiến lược, tại miền Bắc, chính quyền sẽ chủ động di dời dân cư sống ở ven sông, suối, sườn đồi núi có nguy cơ cao sạt lở. Tuy nhiên, trong đợt bão Gia Kỳ vừa qua, thiệt hại do sạt lở đất ở miền Bắc vẫn rất nghiêm trọng.

Những năm qua, số liệu về việc di dời dân cư vùng thiên tai không được tổng hợp và công bố rộng rãi. Cho đến nay, việc di dời vẫn chưa được xem là vấn đề cấp bách quốc gia.

Công tác này phụ thuộc vào nguồn lực của địa phương và trung ương, thường bị trì hoãn do không sắp xếp được vốn.
Trong khi đó, đây là vấn đề liên quan trực tiếp đến mạng sống của người dân.

Ở nhiều nơi, chính quyền cấp xã phải đợi tỉnh cấp đất, tỉnh lại đợi trung ương cấp vốn. Và khi thảm kịch sạt lở xảy ra, không có cán bộ hay cơ quan nào phải chịu trách nhiệm.

Việc di dời dân cư không chỉ cần thực hiện ở vùng núi dễ sạt lở, mà cả vùng đồng bằng. Theo các nhà khoa học, đến năm 2050, đồng bằng sông Cửu Long có thể có đến 1 triệu dân phải di dời vì biến đổi khí hậu và nước biển dâng.

Hiện nay, việc bố trí dân cư vùng thiên tai được thực hiện theo Quyết định số 590 (năm 2022) của Chính phủ và Thông tư số 24 (năm 2023) của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn.

Tuy nhiên, công tác này có thể sẽ tiếp tục chậm trễ, do nhà nước chưa có giải pháp mới về nguồn vốn đầu tư cho các khu tái định cư.

Những năm tới, những thảm kịch kinh hoàng như làng Nũ có thể vẫn sẽ lặp lại.



 
Sửa lần cuối:
Thật ra quốc hội có cơ chế giám sát và yêu cầu chú phỉnh phải làm theo ý mình
Nhưng sự thông qua nhanh của quốc hội ko đc minh bạch
Nên dẫn đến lạm quyền và chậm trễ của chú phỉnh
 
- Năm 2017, tại xóm Khanh, tỉnh Hòa Bình, có 18 người chết do sạt lở núi.
- Năm 2020, ở Trà Len, tỉnh Quảng Nam, 22 người chết vì sạt lở đất.
- Đến tháng 9 năm 2024, làng Nậm Tông có ít nhất 18 người chết, còn làng Nũ có đến 53 người thiệt mạng cùng do sạt lở núi tại tỉnh Lào Cai.

Sau thảm kịch này, chính quyền cho biết trong vòng 100 ngày, người dân làng Nũ sẽ có làng mới. Đây có thể là kỷ lục tái định cư người dân vùng thiên tai nhanh nhất từ trước đến nay.

- Năm 2015, Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản cho biết miền Bắc có hơn 10.000 điểm sạt lở đất.

- Đến năm 2022, chính phủ công bố cần phải di dời hơn 47.000 hộ dân trong vùng thiên tai. Hàng nghìn ngôi làng, hàng chục nghìn người dân đang đứng trước nguy cơ bị đất đá vùi lấp. Những nơi này có thể trở thành “làng Nũ” bất cứ lúc nào.


1. Tái định cư người dân trong khu vực thiên tai đồng nghĩa với việc giữ lại mạng sống của họ. Vậy vì sao chính quyền lại chậm trễ?

Theo Liên Hiệp Quốc, Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách di dời dân cư khỏi khu vực thiên tai, nhất là từ năm 1996. Chính sách tái định cư đã tiến bộ theo thời gian: từ việc chỉ đơn giản di dời người dân đến nơi an toàn, đến việc gắn tái định cư với tạo việc làm, phát triển sản xuất, tăng thu nhập.

Tuy nhiên, chính quyền vẫn không dành đủ nguồn lực để thực hiện nghiêm túc những cam kết này.
Năm 2011, hàng trăm hộ dân sống dọc sông Vệ (tỉnh Quảng Ngãi) khẩn cầu được di dời, nhưng chưa được đáp ứng.
Hai năm sau, Quảng Ngãi đón trận lũ lịch sử làm ít nhất 10 người chết.

Năm 2021, tỉnh Yên Bái cho biết nhu cầu di dời người dân vùng thiên tai là rất lớn, nhưng không có đủ quỹ đất và kinh phí để xây dựng khu tái định cư. Đến tháng 9 năm 2024, trong đợt bão Gia vừa qua, Yên Bái có ít nhất 50 người chết do sạt lở đất.

Tại tỉnh Hòa Bình, một số nơi có quỹ đất nhưng lại thiếu kinh phí xây dựng, không thể kéo điện, nước đến khu tái định cư, khiến người dân không thể chuyển đến nơi ở mới.
Ở nhiều tỉnh khác, chính quyền khuyến khích người dân tự di dời và chỉ hỗ trợ một khoản nhỏ, khiến hộ nghèo không thể di dời.

Năm 2010, có 22 gia đình ở tỉnh Bắc Kạn cần phải di dời, nhưng nhà nước chỉ hỗ trợ 10 triệu đồng mỗi hộ, khiến họ không thể thực hiện.
Đến năm 2022, mức hỗ trợ di dời vì thiên tai tăng lên 20 triệu đồng một hộ, nhưng các địa phương vẫn cho rằng quá thấp.
Sắp tới đây, mức hỗ trợ tối thiểu dự kiến là 30 triệu đồng một hộ, song người dân vẫn rất khó di dời nếu nhà nước không đảm bảo đất ở, nhà cửa, điện, nước, và đường xá.

Ông Vũ Văn Tiến – Phó Cục trưởng Cục Kinh tế Hợp tác và Phát triển Nông thôn – khẳng định: những năm qua, ngân sách trung ương và địa phương đều không đủ để di dời người dân vùng thiên tai, cũng như ổn định đời sống sau tái định cư.

Trong 10 năm qua, các kế hoạch ứng phó thiên tai của Việt Nam chưa thể kiểm soát được số người chết và mất tích vì bão lũ, sạt lở đất:

Năm 2014: 133 người;

Năm 2016: 264 người;

Năm 2018: 224 người;

Năm 2020: 357 người;

Năm 2022: 175 người.

Đến tháng 9 năm 2024, con số này tăng gần gấp đôi – hơn 323 người chết và mất tích.



2. Vì sao chính sách di dời dân cư vùng thiên tai không được thực hiện quyết liệt?

Một trong những đặc trưng của việc làm luật tại Việt Nam là Quốc hội không quy định cụ thể cách thực thi, mà để chính phủ tự triển khai. Chính sách di dời người dân vùng thiên tai cũng rơi vào tình trạng này.

Trước năm 2013, việc di dời chủ yếu dựa trên các chính sách do chính phủ ban hành.

Năm 2013, Quốc hội thông qua Luật Phòng chống thiên tai. Điều 5 và Điều 13 quy định cần di dời người dân sống ở vùng nguy hiểm đến nơi an toàn, nhưng lại không nêu cụ thể cách thực hiện hay cơ chế giám sát.

Phải đến năm 2018 – tức 5 năm sau – chính phủ mới ban hành Nghị quyết 76 về công tác phòng chống thiên tai.


Nghị quyết khẳng định 100% hộ dân ở khu vực thường xuyên có thiên tai phải có nơi ở an toàn.
Một năm sau, Bộ Nông nghiệp đề xuất “Chiến lược quốc gia về phòng chống thiên tai đến năm 2030, tầm nhìn 2050”.
Phải mất thêm hai năm, chiến lược này mới được thông qua.


Theo chiến lược, tại miền Bắc, chính quyền sẽ chủ động di dời dân cư sống ở ven sông, suối, sườn đồi núi có nguy cơ cao sạt lở. Tuy nhiên, trong đợt bão Gia Kỳ vừa qua, thiệt hại do sạt lở đất ở miền Bắc vẫn rất nghiêm trọng.

Những năm qua, số liệu về việc di dời dân cư vùng thiên tai không được tổng hợp và công bố rộng rãi. Cho đến nay, việc di dời vẫn chưa được xem là vấn đề cấp bách quốc gia.

Công tác này phụ thuộc vào nguồn lực của địa phương và trung ương, thường bị trì hoãn do không sắp xếp được vốn.
Trong khi đó, đây là vấn đề liên quan trực tiếp đến mạng sống của người dân.

Ở nhiều nơi, chính quyền cấp xã phải đợi tỉnh cấp đất, tỉnh lại đợi trung ương cấp vốn. Và khi thảm kịch sạt lở xảy ra, không có cán bộ hay cơ quan nào phải chịu trách nhiệm.

Việc di dời dân cư không chỉ cần thực hiện ở vùng núi dễ sạt lở, mà cả vùng đồng bằng. Theo các nhà khoa học, đến năm 2050, đồng bằng sông Cửu Long có thể có đến 1 triệu dân phải di dời vì biến đổi khí hậu và nước biển dâng.

Hiện nay, việc bố trí dân cư vùng thiên tai được thực hiện theo Quyết định số 590 (năm 2022) của Chính phủ và Thông tư số 24 (năm 2023) của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn.

Tuy nhiên, công tác này có thể sẽ tiếp tục chậm trễ, do nhà nước chưa có giải pháp mới về nguồn vốn đầu tư cho các khu tái định cư.

Những năm tới, những thảm kịch kinh hoàng như làng Nũ có thể vẫn sẽ lặp lại.




Bọn CH cũng làm đc gì đâu.
 
Top