Johnny Lê Nữu Vượng
Già làng

Nhà Mạc cũng như nhà Hồ hay nhà Tây Sơn của giặc Huệ bị các sử gia phong kiến xem là “ngụy triều’ . Bởi nhà Mạc đã cướp ngôi của nhà Lê vào năm 1527.
Mạc Đăng Dung sinh năm 1483 là người làng Cổ Trai, huyện Nghi Dương (nay là huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng). Mạc Đăng Dung xuất thân từ một thanh niên nghèo, làm nghề đánh cá, trong một dịp đi thi võ ở kinh đô đã trúng Đô lực sĩ và được sung vào Châu túc vệ chuyên cầm dù đi theo vua nhà Lê.
Theo sử sách ghi lại, Mạc Đăng Dung là một người giàu nghị lực và mưu trí, từ một anh lính cầm lọng cho vua đã từng bước xây dựng thế lực trong triều đình, uy tín trong dân chúng, để rồi vươn lên đỉnh cao quyền lực, trở thành vị hoàng đế khai quốc của nhà Mạc.
Thế nhưng, chính sự chuyên quyền, giết vua để giành ngôi đã khiến Mạc Đăng Dung cùng vương triều của mình trở thành một trong những vương triều khó phân định công – tội nhất trong lịch sử Việt Nam. Dẫu vậy phải khẳng rằng triều đại nhà Mạc do Mạc Đăng Dung dựng nên không hề thua kém bất cứ một triều đại nào trong lịch sử Việt Nam.
Mạc Đăng Dung xuất thân từ một thanh niên nghèo, làm nghề đánh cá, trong một dịp đi thi võ ở kinh đô đã trúng Đô lực sĩ và được sung vào Châu túc vệ chuyên cầm dù đi theo vua.
Ông tiến rất nhanh trên con đường quan lộ. 29 tuổi Mạc Đăng Dung đã được phong tước Vũ xuyên bá. Trải qua 3 đời vua Lê, ông được phong Thái sư Nhân quốc công rồi đến An hưng vương.
Di tích thành nhà Mạc ở tỉnh Lạng Sơn. Mạc Đăng Dung, vị vua đầu tiên của vương triều nhà Mạc sinh năm 1483 là người làng Cổ Trai, huyện Nghi Dương (nay là huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng).
Lợi dụng lúc vua Lê Cung Hoàng ươn hèn, tháng 6 năm 1527, Mạc Đăng Dung từ Cổ Trai đem quân về kinh đô ép vua nhường ngôi, lập lên triều Mạc.
Theo PGS.TS Sử học Nguyễn Đức Nhuệ thì chính tài năng và thời thế đã đưa Mạc Đăng Dung lên đỉnh cao của quyền lực.
Nói một cách khách quan, nếu như không có Mạc Đăng Dung thì sẽ có một gương mặt, một dòng họ khác đứng lên chèo lái con thuyền lịch sử Việt Nam trong cơn bão táp.
Bởi thời kỳ của Mạc Đăng Dung, nhà Lê đã suy tàn, khủng hoảng cung đình chưa từng có diễn ra với 5 vua bị giết, 2 vụ tiếm ngôi xưng vương, các phe phái tiêu diệt lẫn nhau khiến sức lực suy tàn, nhân tài cạn kiệt, dân tình khổ cực.
Binh sĩ nhiều người đã bỏ thân nơi chiến địa mà không vì lợi ích quốc gia. Chính vì thế, theo nhà sử học Lê Văn Lan, việc Mạc Đăng Dung lập ra nhà Mạc lúc bấy giờ đã giải quyết được khủng hoảng đất nước để yên dân, dựng nước.
Thanh đại đao-cổ vật quý 500 tuổi của Mạc Đăng Dung hiện đang được trưng bày tại Khu tưởng niệm Vương triều nhà Mạc, xã Ngũ Đoan, huyện Kiến Thụy, TP Hải Phòng.
Công, tội của Mạc Đăng Dung đã từng gây nhiều tranh cãi trong giới sử học, nhưng rõ ràng việc Mạc Đăng Dung lên ngôi lập ra nhà Mạc đã mở ra một thời kỳ thái bình, thịnh trị cho đất nước.
Chính vì thế, có không ít triều thần của nhà Lê đã quay sang theo và giúp việc cho Mạc Đăng Dung. PGS.TS Sử học Nguyễn Đức Nhuệ cho rằng, cũng bởi nhận rõ thế sự và tài năng của Mạc Đăng Dung mà nhiều vị quan nhà Lê đã không ngần ngại giúp Mạc Đăng Dung trị vì đất nước.
Mạc Đăng Dung còn được các sử gia sau này đánh giá cao bởi cách đối nhân xử thế của ông. Khi Mạc Đăng Dung phế bỏ nhà Lê sơ để lên ngôi, ông đã không tiến hành một cuộc tàn sát nào đối với con cháu của nhà Lê và những người trung thành với triều đình.
Đối với những di sản văn hóa, kiến trúc của nhà Lê sơ tại Thăng Long và Thanh Hóa, ông cũng không xâm phạm hay tàn phá mà còn cho tu bổ các công trình như Quốc Tử Giám ở Thăng Long hay khu lăng mộ vua Lê ở Lam Kinh, Thanh Hóa... Những việc làm của Mạc Đăng Dung được coi là hiếm có trong lịch sử phong kiến.
Mạc Đăng Dung (Mạc Thái Tổ) ở ngôi không lâu (chỉ khoảng 3 năm) sau đó nhường ngôi cho con trai là Mạc Đăng Doanh và lên làm Thái thượng hoàng, nhưng ông đã để lại một dấu mốc quan trọng cho sự phát triển của nhà Mạc sau này.
Theo nhà sử học Ngô Đăng Lợi, Hội Sử học thành phố Hải Phòng, cho đến nay giới sử học vẫn đánh giá rất cao vai trò của Mạc Đăng Dung trong tiến trình lịch sử dân tộc.
Có thể nói Mạc Đăng Dung là nhân vật gây nhiều tranh cãi nhất trong lịch sử Việt Nam, nhưng rõ ràng sự xuất hiện của ông trên vũ đài chính trị, lịch sử giai đoạn nửa đầu thế kỷ XVI đã góp phần quan trọng tạo ra những chuyển biến tích cực, ghi dấu sự phát triển nhiều mặt và để lại nhiều bài học quý giá cho lịch sử trong các giai đoạn tiếp theo.
Khi lật đổ nhà Lê để tiếm ngôi, Mạc Đăng Dung đã lo rồi sẽ bị nhà Minh ở phương Bắc làm khó dễ. Quả nhiên, không ngoài dự liệu. Nguyễn Kim tìm được người dòng dõi nhà Lê dựng lên làm vua, lập tức cho người theo đường biển lên phương Bắc tố cáo họ Mạc cướp ngôi, nhờ nhà Minh đem quân sang hỏi tội.
Được tin, Mạc Đăng Dung liền cử Phạm Chính Nghị mang thư sang Vân Nam biện bạch. Trong thư giải thích rõ con cháu nhà Lê đã không còn, Mạc Đăng Dung là người có công phò tá nhà Lê, nay tạm thay quyền; còn Lê Ninh là người không rõ lai lịch, được Nguyễn Kim đưa lên làm vua chỉ là giả trá. Kèm theo bức thư, Mạc Đăng Dung dùng rất nhiều vàng bạc đút lót, mua chuộc bọn quan lại Vân Nam để chúng tâu lên triều đình có lợi cho mình.
Chuyện tạm yên được chục năm, cho phép nhà Mạc có điều kiện ổn định đất nước. Song vua Thế Tông nhà Minh vẫn không từ bỏ dã tâm lấy đấy làm cớ, đem quân xâm chiếm nước ta. Sở dĩ ông còn chưa động thủ vì có rất nhiều quan lại dâng sớ can ngăn. Quan thị lang bộ Hộ nêu bảy điều không nên đánh An Nam, cho rằng các đời vua trước chưa bao giờ thắng lợi, kể từ thời Mã Viện đến đời Minh Thái Tông. Thị lang Phan Trần thì phân giải: "Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê cũng như Lê cướp ngôi Trần vậy. Nếu Đăng Dung chịu dâng biểu nộp cống thì coi như được".
Sở dĩ có tâm lí này vì dư âm cuộc chiến thắng quân Minh của Lê Lợi thuở nào vẫn còn ám ảnh ở phương Bắc. Nhưng mộng xâm lăng cũng đâu dễ từ bỏ. Năm 1541, vua Minh cử Cừu Loan làm Tổng đốc quân vụ, Mao Bá Ôn làm Tham tán quân vụ lo việc tiến đánh nước ta. Các tỉnh Vân Nam, Quảng Đông, Quảng Tây phải lập tức cung ứng lương thảo cho quân đội...
Mạc Đăng Dung chào sứ thần triều Minh tại trấn Nam Quan năm 1540 (tranh trong cuốn An Nam lai uy đồ sách
Mạc Đăng Dung tự trói gặp sứ giặc
Viên tướng Trương Nhạc trấn giữ Châu Liêm truyền yêu sách đòi Mạc Đăng Dung phải đích thân tới cửa quan, nộp đất dựng mốc, từ bỏ đế hiệu, chịu tiến cống và tuân theo lịch "chính sóc" của Trung Hoa.
Bấy giờ Mạc Đăng Dung đã có tuổi, con là Đăng Doanh lên ngôi vừa mới mất, cháu hơn một tuổi được đặt lên ngai. Nếu chiến tranh nổ ra, không chỉ triều đại do ông lập ra bị sụp đổ, mà đất nước cũng sẽ mất, nhân dân lại trở về với kiếp nô lệ như thời nhà Hồ khi trước. Phải tìm mọi cách thoát được cuộc chiến tranh xâm lược này. Mạc Đăng Dung biết được rằng nhiều quan lại nhà Minh và ngay cả Mao Bá Ôn được lệnh đem quân đi đánh, nhưng vẫn có thái độ chùng chình. Cân nhắc kỹ từng yêu sách của chúng đưa ra, ông quyết định trước mắt phải chịu nhịn nhục đã.
Mạc Đăng Dung cùng một số cận thần lên đường đến trấn Nam Quan. Lúc này ông đã trạc lục tuần, gánh nặng quốc gia càng khiến ông trông già sọm. Song Mạc Đăng Dung đành nuốt nước mắt vào lòng, tự trói mình đến gặp sứ giặc. Ông lựa theo yêu cầu của chúng, không xưng đế nữa, nghĩ bụng cốt sao mình vẫn làm chủ đất nước và dân mình thì được yên. Chúng đòi trả mấy động mà Nùng Chí Cao đã chiếm của nhà Tống từ thời nhà Lý, ông thấy cũng chấp nhận được, miễn là chúng không đòi hỏi thêm đất đai của ta. Chuyện cống nạp thì trước nay vẫn vậy. Còn việc dùng lịch Tàu, các triều đại trước có thời cũng từng theo ngày Sóc, ngày Vọng do họ tính toán, nay cứ tạm coi như mượn dùng lại vậy. Mạc Đăng Dung tự nhủ thầm sau mỗi điều khoản sứ giặc đưa ra...
Mạc Đăng Dung sinh năm 1483 là người làng Cổ Trai, huyện Nghi Dương (nay là huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng). Mạc Đăng Dung xuất thân từ một thanh niên nghèo, làm nghề đánh cá, trong một dịp đi thi võ ở kinh đô đã trúng Đô lực sĩ và được sung vào Châu túc vệ chuyên cầm dù đi theo vua nhà Lê.
Theo sử sách ghi lại, Mạc Đăng Dung là một người giàu nghị lực và mưu trí, từ một anh lính cầm lọng cho vua đã từng bước xây dựng thế lực trong triều đình, uy tín trong dân chúng, để rồi vươn lên đỉnh cao quyền lực, trở thành vị hoàng đế khai quốc của nhà Mạc.
Thế nhưng, chính sự chuyên quyền, giết vua để giành ngôi đã khiến Mạc Đăng Dung cùng vương triều của mình trở thành một trong những vương triều khó phân định công – tội nhất trong lịch sử Việt Nam. Dẫu vậy phải khẳng rằng triều đại nhà Mạc do Mạc Đăng Dung dựng nên không hề thua kém bất cứ một triều đại nào trong lịch sử Việt Nam.
Mạc Đăng Dung xuất thân từ một thanh niên nghèo, làm nghề đánh cá, trong một dịp đi thi võ ở kinh đô đã trúng Đô lực sĩ và được sung vào Châu túc vệ chuyên cầm dù đi theo vua.
Ông tiến rất nhanh trên con đường quan lộ. 29 tuổi Mạc Đăng Dung đã được phong tước Vũ xuyên bá. Trải qua 3 đời vua Lê, ông được phong Thái sư Nhân quốc công rồi đến An hưng vương.

Di tích thành nhà Mạc ở tỉnh Lạng Sơn. Mạc Đăng Dung, vị vua đầu tiên của vương triều nhà Mạc sinh năm 1483 là người làng Cổ Trai, huyện Nghi Dương (nay là huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng).
Lợi dụng lúc vua Lê Cung Hoàng ươn hèn, tháng 6 năm 1527, Mạc Đăng Dung từ Cổ Trai đem quân về kinh đô ép vua nhường ngôi, lập lên triều Mạc.
Theo PGS.TS Sử học Nguyễn Đức Nhuệ thì chính tài năng và thời thế đã đưa Mạc Đăng Dung lên đỉnh cao của quyền lực.
Nói một cách khách quan, nếu như không có Mạc Đăng Dung thì sẽ có một gương mặt, một dòng họ khác đứng lên chèo lái con thuyền lịch sử Việt Nam trong cơn bão táp.
Bởi thời kỳ của Mạc Đăng Dung, nhà Lê đã suy tàn, khủng hoảng cung đình chưa từng có diễn ra với 5 vua bị giết, 2 vụ tiếm ngôi xưng vương, các phe phái tiêu diệt lẫn nhau khiến sức lực suy tàn, nhân tài cạn kiệt, dân tình khổ cực.
Binh sĩ nhiều người đã bỏ thân nơi chiến địa mà không vì lợi ích quốc gia. Chính vì thế, theo nhà sử học Lê Văn Lan, việc Mạc Đăng Dung lập ra nhà Mạc lúc bấy giờ đã giải quyết được khủng hoảng đất nước để yên dân, dựng nước.

Thanh đại đao-cổ vật quý 500 tuổi của Mạc Đăng Dung hiện đang được trưng bày tại Khu tưởng niệm Vương triều nhà Mạc, xã Ngũ Đoan, huyện Kiến Thụy, TP Hải Phòng.
Công, tội của Mạc Đăng Dung đã từng gây nhiều tranh cãi trong giới sử học, nhưng rõ ràng việc Mạc Đăng Dung lên ngôi lập ra nhà Mạc đã mở ra một thời kỳ thái bình, thịnh trị cho đất nước.
Chính vì thế, có không ít triều thần của nhà Lê đã quay sang theo và giúp việc cho Mạc Đăng Dung. PGS.TS Sử học Nguyễn Đức Nhuệ cho rằng, cũng bởi nhận rõ thế sự và tài năng của Mạc Đăng Dung mà nhiều vị quan nhà Lê đã không ngần ngại giúp Mạc Đăng Dung trị vì đất nước.
Mạc Đăng Dung còn được các sử gia sau này đánh giá cao bởi cách đối nhân xử thế của ông. Khi Mạc Đăng Dung phế bỏ nhà Lê sơ để lên ngôi, ông đã không tiến hành một cuộc tàn sát nào đối với con cháu của nhà Lê và những người trung thành với triều đình.
Đối với những di sản văn hóa, kiến trúc của nhà Lê sơ tại Thăng Long và Thanh Hóa, ông cũng không xâm phạm hay tàn phá mà còn cho tu bổ các công trình như Quốc Tử Giám ở Thăng Long hay khu lăng mộ vua Lê ở Lam Kinh, Thanh Hóa... Những việc làm của Mạc Đăng Dung được coi là hiếm có trong lịch sử phong kiến.
Mạc Đăng Dung (Mạc Thái Tổ) ở ngôi không lâu (chỉ khoảng 3 năm) sau đó nhường ngôi cho con trai là Mạc Đăng Doanh và lên làm Thái thượng hoàng, nhưng ông đã để lại một dấu mốc quan trọng cho sự phát triển của nhà Mạc sau này.
Theo nhà sử học Ngô Đăng Lợi, Hội Sử học thành phố Hải Phòng, cho đến nay giới sử học vẫn đánh giá rất cao vai trò của Mạc Đăng Dung trong tiến trình lịch sử dân tộc.
Có thể nói Mạc Đăng Dung là nhân vật gây nhiều tranh cãi nhất trong lịch sử Việt Nam, nhưng rõ ràng sự xuất hiện của ông trên vũ đài chính trị, lịch sử giai đoạn nửa đầu thế kỷ XVI đã góp phần quan trọng tạo ra những chuyển biến tích cực, ghi dấu sự phát triển nhiều mặt và để lại nhiều bài học quý giá cho lịch sử trong các giai đoạn tiếp theo.
Khi lật đổ nhà Lê để tiếm ngôi, Mạc Đăng Dung đã lo rồi sẽ bị nhà Minh ở phương Bắc làm khó dễ. Quả nhiên, không ngoài dự liệu. Nguyễn Kim tìm được người dòng dõi nhà Lê dựng lên làm vua, lập tức cho người theo đường biển lên phương Bắc tố cáo họ Mạc cướp ngôi, nhờ nhà Minh đem quân sang hỏi tội.
Được tin, Mạc Đăng Dung liền cử Phạm Chính Nghị mang thư sang Vân Nam biện bạch. Trong thư giải thích rõ con cháu nhà Lê đã không còn, Mạc Đăng Dung là người có công phò tá nhà Lê, nay tạm thay quyền; còn Lê Ninh là người không rõ lai lịch, được Nguyễn Kim đưa lên làm vua chỉ là giả trá. Kèm theo bức thư, Mạc Đăng Dung dùng rất nhiều vàng bạc đút lót, mua chuộc bọn quan lại Vân Nam để chúng tâu lên triều đình có lợi cho mình.
Chuyện tạm yên được chục năm, cho phép nhà Mạc có điều kiện ổn định đất nước. Song vua Thế Tông nhà Minh vẫn không từ bỏ dã tâm lấy đấy làm cớ, đem quân xâm chiếm nước ta. Sở dĩ ông còn chưa động thủ vì có rất nhiều quan lại dâng sớ can ngăn. Quan thị lang bộ Hộ nêu bảy điều không nên đánh An Nam, cho rằng các đời vua trước chưa bao giờ thắng lợi, kể từ thời Mã Viện đến đời Minh Thái Tông. Thị lang Phan Trần thì phân giải: "Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê cũng như Lê cướp ngôi Trần vậy. Nếu Đăng Dung chịu dâng biểu nộp cống thì coi như được".
Sở dĩ có tâm lí này vì dư âm cuộc chiến thắng quân Minh của Lê Lợi thuở nào vẫn còn ám ảnh ở phương Bắc. Nhưng mộng xâm lăng cũng đâu dễ từ bỏ. Năm 1541, vua Minh cử Cừu Loan làm Tổng đốc quân vụ, Mao Bá Ôn làm Tham tán quân vụ lo việc tiến đánh nước ta. Các tỉnh Vân Nam, Quảng Đông, Quảng Tây phải lập tức cung ứng lương thảo cho quân đội...

Mạc Đăng Dung chào sứ thần triều Minh tại trấn Nam Quan năm 1540 (tranh trong cuốn An Nam lai uy đồ sách
Mạc Đăng Dung tự trói gặp sứ giặc
Viên tướng Trương Nhạc trấn giữ Châu Liêm truyền yêu sách đòi Mạc Đăng Dung phải đích thân tới cửa quan, nộp đất dựng mốc, từ bỏ đế hiệu, chịu tiến cống và tuân theo lịch "chính sóc" của Trung Hoa.
Bấy giờ Mạc Đăng Dung đã có tuổi, con là Đăng Doanh lên ngôi vừa mới mất, cháu hơn một tuổi được đặt lên ngai. Nếu chiến tranh nổ ra, không chỉ triều đại do ông lập ra bị sụp đổ, mà đất nước cũng sẽ mất, nhân dân lại trở về với kiếp nô lệ như thời nhà Hồ khi trước. Phải tìm mọi cách thoát được cuộc chiến tranh xâm lược này. Mạc Đăng Dung biết được rằng nhiều quan lại nhà Minh và ngay cả Mao Bá Ôn được lệnh đem quân đi đánh, nhưng vẫn có thái độ chùng chình. Cân nhắc kỹ từng yêu sách của chúng đưa ra, ông quyết định trước mắt phải chịu nhịn nhục đã.
Mạc Đăng Dung cùng một số cận thần lên đường đến trấn Nam Quan. Lúc này ông đã trạc lục tuần, gánh nặng quốc gia càng khiến ông trông già sọm. Song Mạc Đăng Dung đành nuốt nước mắt vào lòng, tự trói mình đến gặp sứ giặc. Ông lựa theo yêu cầu của chúng, không xưng đế nữa, nghĩ bụng cốt sao mình vẫn làm chủ đất nước và dân mình thì được yên. Chúng đòi trả mấy động mà Nùng Chí Cao đã chiếm của nhà Tống từ thời nhà Lý, ông thấy cũng chấp nhận được, miễn là chúng không đòi hỏi thêm đất đai của ta. Chuyện cống nạp thì trước nay vẫn vậy. Còn việc dùng lịch Tàu, các triều đại trước có thời cũng từng theo ngày Sóc, ngày Vọng do họ tính toán, nay cứ tạm coi như mượn dùng lại vậy. Mạc Đăng Dung tự nhủ thầm sau mỗi điều khoản sứ giặc đưa ra...