Sự kiện Mạc Đăng Dung hàng nhà Minh và nộp đất
Sử liệu:
KĐVSTGCM: “Canh Tý, năm thứ 8 (1540). (Mạc, năm Đại Chính thứ 11 – Minh, năm Gia Tĩnh thứ 19 ). …Tướng Minh lại dụ bảo cha con Đăng Dung nếu biết tự trói nộp mình đợi tội, thành khẩn dâng hết các sổ sách về đất đai và nhân dân thì được tha cho tội chết. Bọn Bá Ôn đóng quân dựng đồn ở gần nơi biên giới. Bấy giờ Đăng Doanh đã chết rồi. Đăng Dung được tin, cả sợ, sai sứ giả đến cửa quân của tướng Minh, trần tình, nguyện xin ra khỏi bờ cõi, đầu hàng, và kính cẩn vâng theo lệnh trên phân xử“.
ĐVSKTT: “Canh Tý, [Nguyên Hoà] năm thứ 8 [1540] , (Mạc Đại Chính năm thứ 11; Minh Gia Tĩnh năm thứ 19). … Mùa đông, tháng 11, Mạc Đăng Dung cùng với cháu là Văn Minh và bề tôi là bọn Nguyễn Như Quế, Đỗ Chế Khanh, Đặng Văn Tri, Lê Thuyên, Nguyễn Tổng, Tô Văn Tốc, Nguyễn Kinh Tế, Dương Duy Nhất, Bùi Trí Vĩnh, qua Trấn Nam Quan, mỗi người đều cầm thước, buộc dây ở cổ , đi chân không đến phủ phục trước mạc phủ của quân Minh quỳ gối, cúi đầu dâng tờ biểu đầu hàng, nộp hết sổ sách về đất đai, quân dân và quan chức cả nước để chờ phân xử, dâng các động Tê Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát, An Lương , La Phù của châu Vĩnh An trấn Yên Quảng, xin cho nội thuộc vào Khâm Châu. Lại xin ban chính sóc, cho ấn chương, để kính cẩn coi giữ việc nước và chờ lệnh thay đổi hay quyết định khác. Lại sai bọn Văn Minh và Nguyễn Văn Thái, Hứa Tam Tỉnh mang biểu đầu hàng sang Yên Kinh“.
Qua các tài liệu cổ, người viết chỉ thấy PĐĐDC của cụ Nguyễn Văn Siêu viết về tỉnh Quảng Ninh như sau: “… nhà Mạc lại giả lại nhà Minh, là giả lại đất lấn, không phải cắt đất để đút lót vậy, … ” . Một câu viết có tính cách biện hộ cho Mạc Đăng Dung.
-Sự kết án của sử gia Trần Trọng Kim trong Việt Nam Sử Lược (VNSL):
VNSL: “…Quan nhà Minh tuy làm bộ hống-hách nói đem binh sang đánh, nhưng cũng sợ phải cái vạ như mấy năm bình-định ngày trước, và lại được tiền bạc của Ðăng Dung rồi, cái lòng nhiệt thành vị quốc cũng nguội đi, cho nên mới tâu với vua nhà Minh xin phong cho Mạc đăng Dung làm chức Ðô-thống-sứ hàm quan nhị-phẩm nhà Minh. Mạc đăng Dung đã làm tôi nhà Lê mà lại giết vua để cướp lấy ngôi, ấy là một người nghịch thần; đã làm chủ một nước mà không giữ lấy bờ-cõi, lại đem cắt đất mà dâng cho người, ấy là một người phản quốc. Làm ông vua mà không giữ được cái danh-giá cho trọn-vẹn, đến nỗi phải cởi trần ra trói mình lại, đi đến quì lạy ở trước cửa một người tướng của quân nghịch để cầu lấy cái phú-quí cho một thân mình và một nhà mình, ấy là một người không biết liêm-sỉ. Ðối với vua là nghịch thần, đối với nước là phản quốc, đối với cách ăn-ở của loài người, là không có nhân-phẩm; một người như thế ai mà kính phục? Cho nên dẫu có lấy được giang-sơn nhà Lê, dẫu có mượn được thế nhà Minh bênh-vực mặc lòng, một cái cơ-nghiệp dựng lên bởi sự gian-ác hèn-hạ như thế, thì không bao giờ bền-chặt được. Cũng vì cớ ấy cho nên con cháu họ Lê lại trung-hưng lên được.”
- Sự biện hộ của sử gia Phạm Văn Sơn trong Việt Sử Toàn thư (VSTT) :
VSTT: “Xét bản cáo trạng và cả lời luận tội của tác giả Việt Nam Sử Lược ta thấy có vẻ dễ dàng và quá giản dị khiến ta ngạc nhiên về lối suy luận của tác giả, một nhà Nho kiêm cả tân học. Căn cứ vào cuốn sử nào mà Trần Trọng Kim đã hạ những nhát búa quá nặng nề đối với nhà Mạc, một triều đại mà ta không thể phủ nhận tinh thần phục vụ quốc gia của họ?
…. Và đứng trên quan điểm nhân dân thì lại càng vô lý, nếu người ta muốn rằng đám vua quan ác bạo thối nát đời bấy giờ cứ đè đầu cưỡi cổ người dân mãi mãi. Không có họ Mạc ra đời thuở đó, thì trong nhân dân cũng phải có một người khác nhẩy ra để thiết lập trật tự mới.
….
Còn việc cắt đất cầu hòa của họ Mạc? Ðể bãi một cuộc chiến tranh với một cường quốc trong khi dân mình yếu hèn, rối loạn. Họ Mạc phải cắt năm động thổ mán vùng thượng du, thật ra chưa là bao.
…
Trái lại không lượng sức mình mà đưa cả dân tộc vào chiến tranh đến nỗi mất cả xứ sở, chết chóc muôn vạn sinh mạng, đó mới là xuẩn động và đáng trách. Tại đây chúng tôi xin ngừng lại để chúng ta cùng suy tưởng: cái bại trận dưới thời nhà Hồ chưa đủ cho ta rút kinh nghiệm sao?
….
Một chứng cớ nữa về sự khôn ngoan của Mạc Ðăng Dung là khi Mao Bá Ôn đưa thư sang đòi Mạc nộp sổ sách ruộng đất, nhân dân và chịu tội thì được tha chết như Việt Nam Sử Lược đã chép, họ Mạc chỉ phái bọn Nguyễn Văn Thái lên Nam Quan để điều đình. Việc này xẩy ra vào năm Ðinh Dậu (1537). Phái đoàn Nguyễn Văn Thái thành công nên Bắc quân không tiến vào nội địa nước ta nữa.
Rồi tháng 11 năm Canh Tý (1540) quân Bắc lại sang. Lần này họ Mạc biết rõ tình ý của nhà Minh chỉ làm chuyện diệu võ dương uy mà thôi, nên đã thân hành lên gặp người Minh. Sự thật đôi bên cần giáp mặt nhau để cùng quyết định mọi vấn đề đã nêu ra ba năm trước mới có tính cách đại cương, sơ bộ mà thôi.
Một điểm khác, ngoài điểm tâm lý của Mạc Ðăng Dung, trong việc đụng chạm với người Minh thuở ấy đã nói khá nhiều ở trên, còn thái độ của Mạc Ðăng Dung cũng cần phải xét để hiểu Mạc Ðăng Dung có hèn như Việt Nam Sử Lược đã nói không. Ta xem bài thơ xướng họa (72) giữa Mao Bá Ôn và cụ trạng Giáp Hải nhà Mạc thì càng rõ, kẻ xướng có vẻ kiêu căng mà người họa không kém phần ngạo nghễ.
Nào biết nơi tan duy biết tụ
Chỉ hay khi nổi nọ hay chìm
Giữa trời giông tố thình lình nổi
Quét bạt ra khơi hết kế tìm.
(Mao Bá Ôn)
Sóng dồn ngàn lớp không xô vỡ
Gió rập muôn cơn khó đánh chìm
Rồng cá ít nhiều nương dưới đó
Cần câu Lã Vọng hết mong chờ.
(Trạng Giáp Hải)
Vua tôi nhà Mạc đã dám ăn miếng trả miếng đến nơi đến chốn như vậy mà bảo rằng chính những người này đã phải quỳ lậy trước cửa tướng của địch, ta có thể tin được chăng? Và cứ khẩu khí bài thơ họa của nhà Mạc đã đáp lại bài nguyên xướng của Mao Bá Ôn ở trên, từng điểm thì đủ rõ, ta thấy nếu Minh quá găng thì Mạc cũng dám đo gươm thử giáo. Vậy họ Mạc không hèn như người ta đã nói. Trần Trọng Kim còn cho rằng Mạc đã xây dựng sự nghiệp trên sự tàn ác nên không bền. Lời phê phán này lại càng hàm hồ nữa.
…
Nhà Mạc phát khởi từ năm 1527 đến 1667 mới tuyệt hẳn.
…. Tóm lại cái án Mạc Ðăng Dung cần phải xóa bỏ trên bộ quốc sử của chúng ta để tránh một sự vu khống và thóa mạ tiền nhân một cách bất công và vô lý. Chúng tôi tin rằng các trí thức và học giả ngày nay suy xét hay bầy tỏ sự việc không hàm hồ như một số sử thần của thời phong kiến vừa qua.
- So sánh sự việc
i- Như đã trình bày trong phần trước, khi nhà Hậu Lê suy vong và bị nhà Mạc cướp ngôi, vua Lê phải bôn tẩu, một số quan chạy theo.
– Để mong khôi phục lại, Lê Trang Tông (Lê Ninh) đã nhiều lần cầu cứu nhà Minh mang quân sang đại Việt. Các sử gia trong hai bộ chính sử là ĐVSKTT cũng như KĐVSTGCM đã không lên án về việc này, hành động “cõng rắn cắn gà nhà”hay “rước voi giày mả tổ”.
– Có phải ông Phạm Công Trứ – một đại thần thời Lê Trung hưng qua 5 triều vua- người làm chủ biên phần “Bản kỷ tục biên” sách ĐVSKTT đã thiên lệch; lên án việc Mạc Đăng Dung hàng nhà Minh, “dâng” đất nhưng bỏ qua việc cầu cứu ngoại bang của vua tôi nhà Hậu Lê?
-Có phải vì ông Nguyễn Kim, thân phụ của Nguyễn Hoàng người chủ trương cầu cứu nhà Minh để khôi phục nhà Hậu Lê – là tổ của vương triều Nguyễn – mà các sử gia viết KĐVSTGCM của quốc sử quán triều Nguyễn đã có sự thiên lệch, tương tự như sử gia viết sách ĐVSKTT (phần tục biên viết về họ Mạc).
Rồi đến cuối thời Lê Trung hưng, Lê Chiêu Thống lại cầu cứu nhà Thanh. Việt Nam nếu không có vua Quang Trung đánh đuổi quân Thanh ra khỏi bờ cõi thì có lẽ lại một lần nội thuộc phương bắc nữa đã xảy ra.
ii – Nhà Mạc khi suy vong có cầu cứu nhà minh hay không (73)? Chúng ta – hậu thế- đọc lại đoạn sử sau trong ĐVSKTT của sử thần thời Hậu Lê: “1593,…Tháng 3, Mạc Ngọc Liễn trốn lên phương bắc, ngầm tìm người tông thất họ Mạc, tìm được người con của Mạc Kính Điển là Đôn Hậu Vương Mạc Kính Cung ở châu Văn Lan, lập làm người nối nghiệp họ Mạc, đặt niên hiệu là Càn Thống năm thứ 1.
… Tháng 7, ngày mồng 2, Phò mã đô uý thái phó Đà quốc công Mạc Ngọc Liễn đem quân chiếm giữ châu Vạn Ninh, bị ốm chết. Con là bọn phò mã Sơn Đông chạy sang Long Châu phụ theo Mạc Kính Cung. 1594, … Khi Ngọc Liễn sắp lâm chung, có di chúc để lại khuyên Mạc Kính Cung rằng: “Nay khí vận nhà Mạc đã hết, họ Lê lại phục hưng, đó là số trời. Dân ta là dân vô tội mà để phải mắc nạn binh đao, sao lại nỡ thế! Bọn ta nên tránh ra ở nước khác, chứa nuôi uy sức, chịu khuất đợi thời, xem khi nào mệnh trời trở lại mới có thể làm được. Rất không nên lấy sức chọi sức, hai con hổ tranh nhau tất có một con bị thương, không được việc gì. Nếu thấy quân họ đến thì ta nên tránh, chớ có đánh nhau, nên cẩn thận mà giữ là hơn. Lại chớ nên mời người Minh vào trong nước ta mà để dân ta phải lầm than đau khổ, đó cũng là tội lớn không gì nặng bằng“. Đến đây thì chết.”
Dù rằng sau khi con cháu nhà Mạc phải chạy lên Cao Bằng (1593), rồi chạy sang Quảng Tây (Long Châu), chỉ “mách” với nhà Minh về việc chúa Trịnh tiếm quyền , chứ không cầu cứu để nhà Minh mang quân vào Việt Nam (lúc này nhà Minh đang suy vong). ĐVSKTT: “Bính Thân, [Quang Hưng] năm thứ 19 [1596] , (Minh Vạn Lịch năm thứ 24). ..Bấy giờ bề tôi họ Mạc lắm quỷ kế, tố cáo với nhà Minh rằng: Quân nhà Lê chính là họ Trịnh tranh cường, dấy binh đánh giết bề tôi thần phục của thượng quốc cùng con cháu họ Mạc, thực không phải là quân trung hưng của con cháu nhà Lê. Vì thế, nhà Minh nhiều lần sai sứ qua cửa Trấn Nam Giao, mang điệp văn sang nước ta hẹn đến cửa quan hội khám xem có thực là con cháu nhà Lê hay không”.
Qua những điều đã trình bày, chúng ta -hậu thế với quan niệm lấy dân tộc làm căn bản, nghĩ thế nào về những sự kiện nêu trên?
- “Biến cố Mạc Đăng Dung” và vùng đất dâng/trả/nộp (?)
Trước khi có nhận xét về vấn đề này, chúng ta nên tìm hiểu một cách tổng quát về chủ quyền vùng đất dâng/nộp/trả (?) cho Trung Hoa qua những tài liệu đã tra cứu.
Từ khi Việt Nan tái lập nền độc lập sau một ngàn năm bị đô hộ, cương vực vùng này:
-Thời nhà Đinh, biên cương giáp giới tới núi Ô Lôi (phía đông vịnh Long Môn) thuộc châu Khâm theo hướng đông tây, phía nam là biển, phía bắc không được đề cập đến. -Thời nhà Tiền Lê qua thời Lý đến thời nhà Trần, đã không có những biến động về biên giới vùng này theo sử liệu. Biên cương vùng này không thay đổi từ khi nước Việt lấy lại nền độc lập cho đến thời Minh thuộc.
-Thời Hậu Lê đã có những biến cố đáng kể về vùng biên giới tiếp giáp với châu Khâm:
Năm 1427, 7 động thuộc ba đô Như Tích, Chiêm (Thiếp) Lãng và Thì (Thời) La do Hoàng Kim Quảng và Hoàng Thánh Hứa xin nội thuộc vào Việt Nam.
Việt Nam làm chủ vùng đất này và các động có tính cách tự trị theo như ĐNNTC viết: “Họ Lê phong cho các chức kinh lược sứ, kinh lược đồng tri, và thiêm sự mà vẫn nối đời giữ đất thuộc vào châu Vạn Ninh, …”.
BienCo - MacDangDung-sharp
Bản đồ phỏng đoán vùng đất Hoàng Kim Quảng và Hoàng Thánh Hứa xin nội thuộc vào Đại Việt năm 1427 (vùng gạch chéo)
Những sự việc nên được nhận xét:
– Những “động” này là dân bản xứ, họ đã tự trị từ nhiều đời,. Năm 1427, các động này đã tự nguyện xin nội thuộc vào Đại Việt, vì không chịu nổi ách đô hộ tàn bạo của Trung Hoa. Việt Nam không xâm chiếm, vì thế những “động” này thuộc lãnh thổ của Việt Nam (74).
-Từ năm 1427 đến 1540 với hơn một thế kỷ (113 năm) nằm trong lãnh thổ Việt Nam. Vì đây là lãnh thổ nên bằng bất cứ giá nào phải bảo vệ, dù phải hy sinh cá nhân dòng họ hay triều đại của mình.
– Tuy nhiên nếu phải hi sinh cái mà người ta cho để giữ cái mình đã có và để tránh cảnh binh đao cho dân tộc, trường hợp thất bại thì có thể đưa đến cảnh quân ngoại xâm tràn ngập và nước nhà lại bị cảnh đô hộ như trường hợp nhà Hồ! Nếu vậy trường hợp này có cần phải được hậu thế xét lại hay không?
– Tình hình nhà Mạc lúc này lưỡng đầu thọ địch, phía nam thì bị hai họ Trịnh và Nguyễn đang tấn công (75) để khôi phục lại ngai vàng cho nhà Lê, phía bắc thì bị quân Minh de dọa. Mạc Đăng Dung chọn cách đầu hàng và trả đất để bảo vệ mình và dòng họ hay vì dân tộc? Mạc Đăng Dung “trả”đất cho nhà Minh Năm 1540 Mạc Đăng Dung đã trả nhà Minh 7 động [Thiếp (Chiêm) Lãng, Tư Lẫm, Cổ Sâm, Liễu Cát, Tư (Kim) Lặc, La Phù và Thì (Thời) La] mà Hoàng Kim Quảng và Hoàng Thánh Hứa xin nội thuộc Việt Nam năm 1427. Tuy nhiên so sánh lãnh thổ của Việt Nam tại vùng này từ thời nhà Đinh đến khi có hiệp định biên giới Pháp-Trung; thì vùng đất động Thì La đã bị mất. Theo như sách “Phương Đình địa dư chí”của cụ Nguyễn Văn Siêu; thì thời nhà Đinh lãnh thổ Việt Nam đến núi Ô Lôi, gồm cả vùng Phòng Thành cảng và phía đông là bán đảo có hai trấn Quang Pha và Xí Sa đến gần trấn Long Môn ngày nay (như đã vẽ lại trong bản đồ thời Tiền Lê, Lý, Trần); đây là vùng đất động Thì La, vùng này thuộc lãnh thổ Việt Nam cho đến cuối thời nhà Trần. Tuy nhiên sau thời Minh thuộc, vùng này lại xin nội thuộc và Việt Nam năm 1427, rồi Mạc Đăng Dung hoàn trả lại cho nhà Minh năm 1540. Có phải nhà Mạc đã “dâng/nộp” thêm vùng này cho nhà Minh hay vì sự hiểu biết “mập mờ” về chủ quyền lãnh thổ các đời trước; nên họ Mạc đã trả “dư” vùng đất động Thì La, mà động này xin nội thuộc vào Việt Nam 113 năm trước? Sự việc này cần phải được tra cứu thêm!