MIT dùng 10.000 nguyên tử siêu lạnh chứng minh Einstein đã sai lầm lớn về bản chất ánh sáng, phá hủy nhiều lý thuyết lượng tử do Einstein nghĩ ra

Dennis Ritchie là cha đẻ của ngôn ngữ C. Ngôn ngữ có tầm ảnh hưởng số 1 thế giới. Và đựơc người đời vinh danh là một trong những nhân vật vĩ đại nhất thế giới.
Nhưng ngôn ngữ C lại kế thừa và cải tiến từ ngôn ngữ B của Ken Thompson.
Thế theo ngữ của súc vật như mày là ông đéo tiên phong, ăn cắp ý tưởng từ người khác rồi.
Đấy, mày biết mấy cái về ngôn ngữ lập trình thì comment liên quan những thứ ấy thôi. Còn đéo biết gì về vật lý thì comment dùng AI làm gì người ta cười vào mũi cho. Ngu như chó còn bầy đặt.
 
Đấy, mày biết mấy cái về ngôn ngữ lập trình thì comment liên quan những thứ ấy thôi. Còn đéo biết gì về vật lý thì comment dùng AI làm gì người ta cười vào mũi cho. Ngu như chó còn bầy đặt.
Tao vẫn chưa thấy những cái phản biện của mày về thằng lò rèn tự làm, tự nấu, tự ăn mà đéo dựa vào những thứ của người đi trước để lại. Mày vẫn còn yếu trong tư duy phản biện lắm con à.
 
Con cặc đừng có lái. Giỏi thì phản biện lại mấy cái dữ liệu như thằng lò rèn đi ăn cắp Phương trình maxweel, lý thuyết co thời gian xem con chó. Này là đi tiên phong, tự nghĩ ra công thức của mày đấy hả con chó?
Maxweel là ai? Thằng Lồn còn éo biết đang viết gì à con chó.
 
Maxweel là ai? Thằng lồn còn éo biết đang viết gì à con chó.
À bắt bẻ lỗi chính tả, ok tao sửa lại cho đúng.

Lý thuyết Maxwell (1865): cho ta biết ánh sáng là sóng điện từ, tốc độ c cố định

Thí nghiệm Michelson–Morley (1887): cho thấy vận tốc ánh sáng không đổi trong mọi hướng dù Trái Đất chuyển động.

Ý tưởng co chiều dài của FitzGerald (1892): mở ra hướng chỉnh đổi không gian để giải thích kết quả thí nghiệm.

Chứng minh tao xem công thức biến đổi của thằng lò rèn đéo dựa vào những thứ này cái nào.
 
đúng sai không phải do 1 người lên youtube quay 1 cái clip là xong, đó dù sao cũng chỉ là quan điểm cá nhân hoặc 1 nhóm người mà thôi, muốn chứng minh công thức E=mc2 sai thì phải có 1 bài nghiên cứu chứng minh và được công bố trên tạp chí khoa học, cũng như được hội đồng khoa học toàn thế giới công nhận thì mới được. Cũng như để công thức E=mc2 được phổ biến và ứng dụng khắp nơi như hiện nay thì bản thân Einstein cũng đã phải chứng minh nó trước hội đồng hàn lâm khoa học trên toàn thế giới chứ đâu phải ổng chỉ công bố bâng quơ là ai cũng tin và dùng
nghien ciu' la`M Lon gi cho nhuc' dau^`, tao cu' xem The Bigbang Theory la` hieu~ het' :vozvn (22):
 
Tao vẫn chưa thấy những cái phản biện của mày về thằng lò rèn tự làm, tự nấu, tự ăn mà đéo dựa vào những thứ của người đi trước để lại. Mày vẫn còn yếu trong tư duy phản biện lắm con à.
À còn tính tiên phong trong phương trình Maxwell là hợp nhất tính điện từ trong phương trình truyền sóng.
Trong thí nghiệm của Michelson là khả năng không tồn tại môi trường truyền sóng đối với sóng điện từ.
Còn trong biến đổi Lorentz là sự thay đổi cả khối lượng, thời gian, kích thước ở vận tốc cực lớn.
Tính chất các phương trình ở các công trình là khác nhau con chó ạ.
 

Các nhà vật lý tại Viện Công nghệ Massachusetts (MIT) đã sử dụng một thí nghiệm với độ chính xác đáng kinh ngạc ở cấp độ nguyên tử, sử dụng 10.000 nguyên tử siêu lạnh để chứng minh một sự thật khó tin: ánh sáng sở hữu hai bản chất cùng lúc, nhưng không bao giờ bộc lộ cả hai cho chúng ta thấy.​


Từ lâu, các nhà khoa học đã vật lộn với một câu hỏi cơ bản: Ánh sáng thực chất là gì? Liệu đó có phải là một con sóng chảy như gợn sóng trên mặt nước, hay nó được tạo thành từ những hạt nhỏ di chuyển trong không gian như những viên bi siêu nhỏ? Câu hỏi cơ bản này nằm ở trung tâm của thí nghiệm khe đôi, thí nghiệm đã tiết lộ bản chất kép của ánh sáng và trở thành nền tảng của cơ học lượng tử.


MIT dùng 10.000 nguyên tử siêu lạnh, giải quyết cuộc tranh cãi ‘thế kỷ’ giữa Einstein và Bohr về bản chất ánh sáng!- Ảnh 1.
Tại Hội nghị Solvay 1927, Einstein và Bohr công khai tranh luận về các vấn đề cơ bản của cơ học lượng tử, đặc biệt là về tính chất sóng-hạt và nguyên lý bất định (Ảnh: Sohu).


Bản chất kép của ánh sáng: Câu đố làm đau đầu Einstein và Bohr​

Thí nghiệm khe đôi, lần đầu tiên được Thomas Young chứng minh vào năm 1801, đã phát triển thành một khái niệm cốt lõi trong cơ học lượng tử. Nó chứng minh rằng ánh sáng vừa có tính chất sóng vừa có tính chất hạt cùng một lúc.

Ban đầu, các thí nghiệm cho thấy khi ánh sáng đi qua hai khe hở, nó tạo ra một mô hình giao thoa (các vân sáng và tối xen kẽ) hoạt động giống như sóng. Tuy nhiên, nếu các nhà khoa học cố gắng quan sát khe hở mà ánh sáng thực sự đi qua, thì hiện tượng giao thoa sẽ biến mất, và ánh sáng đột nhiên hoạt động như một hạt.

Hiện tượng khó hiểu này làm nổi bật nguyên lý cốt lõi của cơ học lượng tử: ánh sáng tồn tại đồng thời ở dạng hạt và dạng sóng, nhưng bạn chỉ có thể quan sát một trong hai tính chất này tại một thời điểm. "Tính chất sóng-hạt" có vẻ mâu thuẫn này từng làm đau đầu những người tiên phong trong lĩnh vực lượng tử.

Câu đố lượng tử này cuối cùng đã dẫn đến cuộc tranh luận nổi tiếng giữa Einstein và Bohr vào năm 1927. Einstein tin rằng ông có thể thiết kế một thí nghiệm cho phép ông quan sát cả đường đi của hạt ánh sáng và sự giao thoa của sóng ánh sáng.

Ngược lại, Bohr đã sử dụng nguyên lý bất định để lập luận rằng bất kỳ nỗ lực nào nhằm đo đường đi của một photon (hạt ánh sáng) chắc chắn sẽ làm nhiễu nó, do đó phá hủy mô hình giao thoa. Trong nhiều thập kỷ, nhiều phiên bản của thí nghiệm khe đôi đã được thực hiện, và tất cả đều xác nhận quan điểm của Bohr.


MIT dùng 10.000 nguyên tử siêu lạnh, giải quyết cuộc tranh cãi ‘thế kỷ’ giữa Einstein và Bohr về bản chất ánh sáng!- Ảnh 2.
Tùy thuộc vào hoàn cảnh, ánh sáng có thể được mô tả như một sóng hoặc một chùm các hạt photon (Ảnh: NBC News).


MIT và thí nghiệm "lý tưởng" ở cấp độ nguyên tử​


Nhưng hiện nay, các nhà vật lý MIT dưới sự dẫn đầu của giáo sư Wolfgang Ketterle đã hoàn thiện phiên bản "lý tưởng" nhất từ trước đến nay của thí nghiệm khe đôi, đưa nó lên đến lõi lượng tử. Thay vì sử dụng một khe hở vật lý, họ đã sử dụng một nguyên tử siêu lạnh duy nhất để đóng vai trò là "khe hở".

Nhóm nghiên cứu đã làm lạnh hơn 10.000 nguyên tử xuống gần độ không tuyệt đối (khoảng -273 độ C) và sử dụng tia laser để sắp xếp chúng thành cấu trúc mạng tinh thể chính xác. Trong cấu trúc này, mỗi nguyên tử thực sự trở thành một khe hở giống hệt nhau và cô lập. Sau đó, họ chiếu một chùm sáng rất yếu, đảm bảo rằng "mỗi nguyên tử chỉ tán xạ tối đa một photon".

Các nhà khoa học đưa ra giả thuyết rằng thiết bị của họ, sử dụng các nguyên tử riêng lẻ được sắp xếp chính xác, có thể hoạt động như một thí nghiệm khe đôi thu nhỏ. Bằng cách chiếu một chùm ánh sáng yếu vào các nguyên tử này, họ có thể nghiên cứu cách một photon đơn lẻ tương tác với hai nguyên tử lân cận, từ đó tiết lộ liệu ánh sáng có hoạt động giống sóng hay hạt. "Những gì chúng tôi đã làm có thể được coi là một biến thể mới của thí nghiệm khe đôi", giáo sư Ketterle nói. "Những nguyên tử riêng lẻ này giống như những khe hở nhỏ nhất mà bạn có thể tạo ra".


MIT dùng 10.000 nguyên tử siêu lạnh, giải quyết cuộc tranh cãi ‘thế kỷ’ giữa Einstein và Bohr về bản chất ánh sáng!- Ảnh 3.
Cuộc tranh luận kéo dài 98 năm giữa hai bộ óc vĩ đại nhất thế kỷ 20, Albert Einstein và Niels Bohr, về bản chất thực sự của ánh sáng đã được hóa giải theo một cách mà ít ai ngờ tới (Ảnh: MIT).


Kết luận "bùng nổ": Bohr đã đúng, Einstein đã sai trong trường hợp này!​

Nhóm nghiên cứu có thể điều chỉnh chính xác độ mờ của các "khe hở" nguyên tử này bằng cách điều chỉnh các chùm tia laser giữ nguyên tử tại chỗ. Độ mờ của các nguyên tử này ảnh hưởng đến lượng thông tin có thể thu được về đường đi của photon.

Kết quả của họ hoàn toàn phù hợp với thuyết lượng tử và rõ ràng ủng hộ quan điểm của Bohr. Họ tìm thấy một mối quan hệ rõ ràng: họ xác định đường đi của photon càng chính xác (xác nhận hành vi hạt của nó) thì mô hình giao thoa dạng sóng càng mờ dần.

Các nhà nghiên cứu quan sát thấy rằng mỗi lần nguyên tử bị một photon đi qua đẩy nhẹ, mô hình giao thoa sóng lại yếu đi. Điều này xác nhận rằng hành động thu thập thông tin về đường đi của photon đã tự động xóa bỏ các đặc tính sóng của nó.

Những phát hiện này đã chứng minh một cách thuyết phục rằng Einstein đã sai trong tình huống lượng tử cụ thể này, khẳng định lại bản chất kỳ lạ và phản trực giác của thực tại lượng tử. Cuộc tranh luận kéo dài gần một thế kỷ cuối cùng đã có lời giải đáp rõ ràng.

Kết quả nghiên cứu này được công bố trên tạp chí Physical Review Letters , không chỉ là một chiến thắng của vật lý thực nghiệm mà còn là một minh chứng hùng hồn cho sự kỳ diệu và phức tạp của thế giới lượng tử, nơi những quy luật thông thường của chúng ta không còn áp dụng.

Cách đây mấy năm có một bài báo tương tự thế này trên xàm (nhưng chủ đề nói về mô hình electron theo nguyên lý bất định của Heisenberg), bài báo này thì nói về cuộc tranh luận của Bohr và Einstein cũng trên nguyên lý bất định của Heisenberg.
Về cơ học lượng tử Einstein đã sai. Ông có một câu nói nổi tiếng: Chúa không tung xúc xắc.
Nhưnng thực tế chứng minh: Chúa có tung xúc xắc!

Điều này nếu hiểu theo khía cạnh triết học thì luật nhân quả có thật nhưng nó ở mức tương đối và bất định, có nghĩa là hoàn toàn có thể thay đổi nó!. Cách nghĩ này bần tăng đã ấp ủ mấy chục năm và biết nó hơi khác so với đa số người nghĩ về luật nhân quả. Chính nguyên lý của Heisenberg, cuộc tranh luận của Bohr, sự suy giảm entropy của S.Hawking đã củng cố hơn lập luận này của bần tăng.
Bài báo này rất hay, thí nghiệm này tuy nhỏ nhưng nó chứng minh cho nền móng cơ bản của cơ học lượng tử, là tiền đề để nhân loại hiểu thêm về cơ học lượng tử và có những bước tiến mới trong tương lai. Cảm ơn @đéo có hình chó nó tin , hi vọng những bài báo nâng cao dân trí này tiếp tục xuất hiện trên xàm :burn_joss_stick:
 

Các nhà vật lý tại Viện Công nghệ Massachusetts (MIT) đã sử dụng một thí nghiệm với độ chính xác đáng kinh ngạc ở cấp độ nguyên tử, sử dụng 10.000 nguyên tử siêu lạnh để chứng minh một sự thật khó tin: ánh sáng sở hữu hai bản chất cùng lúc, nhưng không bao giờ bộc lộ cả hai cho chúng ta thấy.​


Từ lâu, các nhà khoa học đã vật lộn với một câu hỏi cơ bản: Ánh sáng thực chất là gì? Liệu đó có phải là một con sóng chảy như gợn sóng trên mặt nước, hay nó được tạo thành từ những hạt nhỏ di chuyển trong không gian như những viên bi siêu nhỏ? Câu hỏi cơ bản này nằm ở trung tâm của thí nghiệm khe đôi, thí nghiệm đã tiết lộ bản chất kép của ánh sáng và trở thành nền tảng của cơ học lượng tử.


MIT dùng 10.000 nguyên tử siêu lạnh, giải quyết cuộc tranh cãi ‘thế kỷ’ giữa Einstein và Bohr về bản chất ánh sáng!- Ảnh 1.
Tại Hội nghị Solvay 1927, Einstein và Bohr công khai tranh luận về các vấn đề cơ bản của cơ học lượng tử, đặc biệt là về tính chất sóng-hạt và nguyên lý bất định (Ảnh: Sohu).


Bản chất kép của ánh sáng: Câu đố làm đau đầu Einstein và Bohr​

Thí nghiệm khe đôi, lần đầu tiên được Thomas Young chứng minh vào năm 1801, đã phát triển thành một khái niệm cốt lõi trong cơ học lượng tử. Nó chứng minh rằng ánh sáng vừa có tính chất sóng vừa có tính chất hạt cùng một lúc.

Ban đầu, các thí nghiệm cho thấy khi ánh sáng đi qua hai khe hở, nó tạo ra một mô hình giao thoa (các vân sáng và tối xen kẽ) hoạt động giống như sóng. Tuy nhiên, nếu các nhà khoa học cố gắng quan sát khe hở mà ánh sáng thực sự đi qua, thì hiện tượng giao thoa sẽ biến mất, và ánh sáng đột nhiên hoạt động như một hạt.

Hiện tượng khó hiểu này làm nổi bật nguyên lý cốt lõi của cơ học lượng tử: ánh sáng tồn tại đồng thời ở dạng hạt và dạng sóng, nhưng bạn chỉ có thể quan sát một trong hai tính chất này tại một thời điểm. "Tính chất sóng-hạt" có vẻ mâu thuẫn này từng làm đau đầu những người tiên phong trong lĩnh vực lượng tử.

Câu đố lượng tử này cuối cùng đã dẫn đến cuộc tranh luận nổi tiếng giữa Einstein và Bohr vào năm 1927. Einstein tin rằng ông có thể thiết kế một thí nghiệm cho phép ông quan sát cả đường đi của hạt ánh sáng và sự giao thoa của sóng ánh sáng.

Ngược lại, Bohr đã sử dụng nguyên lý bất định để lập luận rằng bất kỳ nỗ lực nào nhằm đo đường đi của một photon (hạt ánh sáng) chắc chắn sẽ làm nhiễu nó, do đó phá hủy mô hình giao thoa. Trong nhiều thập kỷ, nhiều phiên bản của thí nghiệm khe đôi đã được thực hiện, và tất cả đều xác nhận quan điểm của Bohr.


MIT dùng 10.000 nguyên tử siêu lạnh, giải quyết cuộc tranh cãi ‘thế kỷ’ giữa Einstein và Bohr về bản chất ánh sáng!- Ảnh 2.
Tùy thuộc vào hoàn cảnh, ánh sáng có thể được mô tả như một sóng hoặc một chùm các hạt photon (Ảnh: NBC News).


MIT và thí nghiệm "lý tưởng" ở cấp độ nguyên tử​


Nhưng hiện nay, các nhà vật lý MIT dưới sự dẫn đầu của giáo sư Wolfgang Ketterle đã hoàn thiện phiên bản "lý tưởng" nhất từ trước đến nay của thí nghiệm khe đôi, đưa nó lên đến lõi lượng tử. Thay vì sử dụng một khe hở vật lý, họ đã sử dụng một nguyên tử siêu lạnh duy nhất để đóng vai trò là "khe hở".

Nhóm nghiên cứu đã làm lạnh hơn 10.000 nguyên tử xuống gần độ không tuyệt đối (khoảng -273 độ C) và sử dụng tia laser để sắp xếp chúng thành cấu trúc mạng tinh thể chính xác. Trong cấu trúc này, mỗi nguyên tử thực sự trở thành một khe hở giống hệt nhau và cô lập. Sau đó, họ chiếu một chùm sáng rất yếu, đảm bảo rằng "mỗi nguyên tử chỉ tán xạ tối đa một photon".

Các nhà khoa học đưa ra giả thuyết rằng thiết bị của họ, sử dụng các nguyên tử riêng lẻ được sắp xếp chính xác, có thể hoạt động như một thí nghiệm khe đôi thu nhỏ. Bằng cách chiếu một chùm ánh sáng yếu vào các nguyên tử này, họ có thể nghiên cứu cách một photon đơn lẻ tương tác với hai nguyên tử lân cận, từ đó tiết lộ liệu ánh sáng có hoạt động giống sóng hay hạt. "Những gì chúng tôi đã làm có thể được coi là một biến thể mới của thí nghiệm khe đôi", giáo sư Ketterle nói. "Những nguyên tử riêng lẻ này giống như những khe hở nhỏ nhất mà bạn có thể tạo ra".


MIT dùng 10.000 nguyên tử siêu lạnh, giải quyết cuộc tranh cãi ‘thế kỷ’ giữa Einstein và Bohr về bản chất ánh sáng!- Ảnh 3.
Cuộc tranh luận kéo dài 98 năm giữa hai bộ óc vĩ đại nhất thế kỷ 20, Albert Einstein và Niels Bohr, về bản chất thực sự của ánh sáng đã được hóa giải theo một cách mà ít ai ngờ tới (Ảnh: MIT).


Kết luận "bùng nổ": Bohr đã đúng, Einstein đã sai trong trường hợp này!​

Nhóm nghiên cứu có thể điều chỉnh chính xác độ mờ của các "khe hở" nguyên tử này bằng cách điều chỉnh các chùm tia laser giữ nguyên tử tại chỗ. Độ mờ của các nguyên tử này ảnh hưởng đến lượng thông tin có thể thu được về đường đi của photon.

Kết quả của họ hoàn toàn phù hợp với thuyết lượng tử và rõ ràng ủng hộ quan điểm của Bohr. Họ tìm thấy một mối quan hệ rõ ràng: họ xác định đường đi của photon càng chính xác (xác nhận hành vi hạt của nó) thì mô hình giao thoa dạng sóng càng mờ dần.

Các nhà nghiên cứu quan sát thấy rằng mỗi lần nguyên tử bị một photon đi qua đẩy nhẹ, mô hình giao thoa sóng lại yếu đi. Điều này xác nhận rằng hành động thu thập thông tin về đường đi của photon đã tự động xóa bỏ các đặc tính sóng của nó.

Những phát hiện này đã chứng minh một cách thuyết phục rằng Einstein đã sai trong tình huống lượng tử cụ thể này, khẳng định lại bản chất kỳ lạ và phản trực giác của thực tại lượng tử. Cuộc tranh luận kéo dài gần một thế kỷ cuối cùng đã có lời giải đáp rõ ràng.

Kết quả nghiên cứu này được công bố trên tạp chí Physical Review Letters , không chỉ là một chiến thắng của vật lý thực nghiệm mà còn là một minh chứng hùng hồn cho sự kỳ diệu và phức tạp của thế giới lượng tử, nơi những quy luật thông thường của chúng ta không còn áp dụng.

thì trước giờ thế giới vẫn công nhận Bohr đúng mà, sách giáo khoa VN vẫn nhắc về bản chất lưỡng tính sóng hạt, và tính chất lượng tử thay đổi khi quan sát.
Thằng MIT chỉ là khẳng định lần nữa Bohr đúng, và điều thế giới công nhận lâu nay vẫn đúng.
 
À bắt bẻ lỗi chính tả, ok tao sửa lại cho đúng.

Lý thuyết Maxwell (1865): cho ta biết ánh sáng là sóng điện từ, tốc độ c cố định

Thí nghiệm Michelson–Morley (1887): cho thấy vận tốc ánh sáng không đổi trong mọi hướng dù Trái Đất chuyển động.

Ý tưởng co chiều dài của FitzGerald (1892): mở ra hướng chỉnh đổi không gian để giải thích kết quả thí nghiệm.

Chứng minh tao xem công thức biến đổi của thằng lò rèn đéo dựa vào những thứ này cái nào.
Sai nhé, con AI như kẹt
 
Mày xem cái clip lên mặt trăng của Nasa chưa? Có hoặc chưa, nếu chưa xem thì xem đi, rồi quay lại đây nói chuyện. Ở đây đéo nói thuyết âm mưu, mày chỉ cần xem clip đó, bằng chính mắt mày, và quay lại đây kết luận cũng chưa muộn.

bổ sung thêm thông tin bên lề:
- Mỹ đang triển khai kế hoạch đưa người đáp lên mặt trăng 1 lần nữa vào 2029. Trước đó 2 năm, dự kiến đưa 4 phi hành gia bay thử nghiệm vòng quanh mặt trăng vào năm 2027. Dư luận có đặt câu hỏi sao lên mặt trăng 4-5 lần rồi mà lần này lại phải thử nghiệm, Nasa bảo lần này áp dụng công nghệ tên lửa mới, do công nghệ tên lửa đáp lên mặt trăng 50 năm trước đã bị thất lạc :sweat:
- Tml phi hành gia Amstrong thì bị Xammer Mỹ dí, lần đéo nào gặp cũng bị thách đặt tay lên kinh thánh thề "tôi đã từng đặt chân lên mặt trăng". có lần còn bonus thêm 1000 USD mà lão đéo thề. Thằng xammer Mỹ mới bảo "mày là thằng nhát gan, dối trá", thế là thằng Amstrong điên lên lao vào đấm luôn.

Ai bảo mày công nghệ tên lửa cũ bị thất lạc? :)) đúng cái bọn chỉ tin vào thuyết âm mưu.
 
Có ai chứng minh được đâu nên nó chỉ là lý thuyết, phải đợi sau này có người chứng minh chứ thời đó làm gì đủ trình làm điều đó.
ko có công thức chuyển đổi năng lượng - khối lượng thì làm gì có chuyện tính toán làm đc bom hạt nhân, thế mày nghĩ dựa vào cơ sở lý thuyết đéo nào mà cả thế giới chạy đua vũ trang Hạt nhân, làm mò thôi ah!
 
Anh sờ tanh mà đc là con dân giao chỉ thì thế giới này đã khác, Roosevelt cũng phải alo bằng dép lào :vozvn (19):
 
Mày ngu quá nói đéo chịu hiểu. Kế thừa nhưng ý tưởng đột phá nó gọi là tiên phong (pioneer) thậm chí là hình thành trường phái như Bohr. Einstein không có ý tưởng tiên phong nào, tất cả những ý tưởng tiên phong đều ở những người tao đã kể. Và thành tựu của nhân loại là từ những ý tưởng đột phá của những người ấy chứ éo phải từ Einstein. Tao nói luôn như cái e=mc2 kia là từ biến đổi Lorentz, và thậm chí được Lorentz đưa ra trước.
nói về ý tưởng thì Mỹ Xô còn thua Việt Nam, ý tưởng chú cuội lên cung trăng cả ngàn năm rồi.
Thằng đéo nào mà chả phải dùng toán, nói càn như mày thì bảo mọi phát minh xuất phát từ con số Arập hết đi cho nhanh. khùng!
 
À còn tính tiên phong trong phương trình Maxwell là hợp nhất tính điện từ trong phương trình truyền sóng.
Trong thí nghiệm của Michelson là khả năng không tồn tại môi trường truyền sóng đối với sóng điện từ.
Còn trong biến đổi Lorentz là sự thay đổi cả khối lượng, thời gian, kích thước ở vận tốc cực lớn.
Tính chất các phương trình ở các công trình là khác nhau con chó ạ.
Thằng lò rèn dùng lại phương trình maxwell và mở rộng nó ra. Chứ đéo phải nó chứng minh phương trình người ta sai hay gì. Đéo có maxwell thì cũng đéo có lò rèn.
Tương tự đéo có lò rèn thì cũng đéo có thuyết tương đối hẹp.
Như thằng ở trên nói, khoa học nó có tính kế thừa.
Anhxtanh dùng công thức lò rèn và mở rộng định nghĩa tương đối của ko thời gian, loại bỏ ether.
 
Khùng quá mày, qua mồm mày thổi phồng lên phủ nhận hết công sức của người ta thế:

Lorentz: Thợ rèn công thức → tìm ra biến đổi Lorentz nhưng gắn nó vào “khung ê-te”.

Poincaré: Nhà chiến lược → thấy nguyên lý tương đối, nhưng chưa dám bỏ ê-te.

Einstein: Kiến trúc sư → bỏ ê-te, dựng hẳn tòa nhà mới từ nền móng biến đổi Lorentz và nguyên lý tương đối.
mie, Ein bỏ hẳn khái niệm Ete, cái mà mọi nhà khoa học hồi đó cứ nghĩ là tìm đc sẽ hoàn thiện đc mọi vấn đề Vật lý. Sau đó đề xuất thêm khái niệm Trọng lực thực ra đéo phải lực, mà do Không-Thời gian bị uốn cong.
Thay đổi thế giới Vốn cả lài mà thằng khùng kia cứ Lò rèn đéo gì ko biết!
 
Còn quan tâm nữa đến cấu trúc các hạt hạ nguyên tử người ta xây dựng lên thứ gọi là "mô hình chuẩn". Ở đó lũ Vật lý mơ tưởng về một thế giới được "chúa trời" xây nên vô cùng đẹp đẽ khác xa cái bầy hầy của lượng tử. Một thế giới với sự đối xứng tuyệt vời nơi ở của các quark.

Nói riết nói xàm
standard model là lượng tử chứ con mẹ gì mà khác
 
nói về ý tưởng thì Mỹ Xô còn thua Việt Nam, ý tưởng chú cuội lên cung trăng cả ngàn năm rồi.
Thằng đéo nào mà chả phải dùng toán, nói càn như mày thì bảo mọi phát minh xuất phát từ con số Arập hết đi cho nhanh. khùng!
Lại một thằng ngu. Mày nói thử ý tưởng thuyết tương đối hẹp của Einstein đi, tao sẽ cho mày biết ai là người đưa ra những cái đó trước.
Cùng lắm là Einstein chỉ gộp chung những ý tưởng đó lại thôi. Lũ chúng mày bị truyền thông dắt mũi ngây ngô thương thế.
 
Thằng lò rèn dùng lại phương trình maxwell và mở rộng nó ra. Chứ đéo phải nó chứng minh phương trình người ta sai hay gì. Đéo có maxwell thì cũng đéo có lò rèn.
Tương tự đéo có lò rèn thì cũng đéo có thuyết tương đối hẹp.
Như thằng ở trên nói, khoa học nó có tính kế thừa.
Anhxtanh dùng công thức lò rèn và mở rộng định nghĩa tương đối của ko thời gian, loại bỏ ether.
Bậy, phương trình maxwell có thành phần từ và điện, liên quan đéo gì biến đổi Lorentz về kích thước, khối lượng, thời gian tương đối tính.
Mày chỉ ra hộ tao cái. Địt con mẹ mày, thằng ngu dùng AI xong nói như vẹt. Tao đã cảnh báo rồi vẫn ngu.
 
Lại một thằng ngu. Mày nói thử ý tưởng thuyết tương đối hẹp của Einstein đi, tao sẽ cho mày biết ai là người đưa ra những cái đó trước.
Cùng lắm là Einstein chỉ gộp chung những ý tưởng đó lại thôi. Lũ chúng mày bị truyền thông dắt mũi ngây ngô thương thế.
trước Einstein có thằng nào nghĩa và tính toán ra được trọng lực là Không - Thời gian bị uốn cong ko con?
hay là mày lại định lôi thằng nào đó có phát biểu qua loa rồi bảo là Ein ăn cắp!
 
thà rằng đừng phát biểu để ng ta còn tưởng rằng mình ngu
Nói ra một câu là Xàm khẳng định chắc chắn mày ngu luôn!
mày kiểm tra độ mở não với test iq mensa chưa. tao test độ mở não 360 với iq 300
 
trước Einstein có thằng nào nghĩa và tính toán ra được trọng lực là Không - Thời gian bị uốn cong ko con?
hay là mày lại định lôi thằng nào đó có phát biểu qua loa rồi bảo là Ein ăn cắp!
Vãi luôn, lội page đi con. Tao nói thuyết tương đối hẹp đéo có Einstein thì vẫn thế, Einstein éo đóng góp gì. Còn thuyết tương đối tổng quát thì Einstein đóng góp về ý tưởng, còn mô hình toán thì không.
Tao cũng đéo nói Einstein ăn cắt đừng có nghe chụp mũ. Vấn đề là đóng góp bị đẩy lên overrated do là nhà khoa học người Đức chạy sang Mỹ chứ ko phải ở lại vs Đức như Heisenberg.
 
Bậy, phương trình maxwell có thành phần từ và điện, liên quan đéo gì biến đổi Lorentz về kích thước, khối lượng, thời gian tương đối tính.
Mày chỉ ra hộ tao cái. Địt con mẹ mày, thằng ngu dùng AI xong nói như vẹt. Tao đã cảnh báo rồi vẫn ngu.
Maxwell viết ra 4 phương trình mô tả điện và từ:

Nhưng khi áp dụng cơ học cổ điển, các phương trình này không “giữ nguyên” khi đổi sang hệ quy chiếu đang chuyển động.Lorentz tìm ra phép biến đổi Lorentz – bộ công thức đổi tọa độ & thời gian – để các phương trình Maxwell vẫn đúng y nguyên trong mọi hệ quy chiếu chuyển động đều (ở gần tốc độ ánh sáng).

Maxwell viết ra bản nhạc, thằng lò rèn chỉ là thằng thay nhạc cụ, đổi tông nhạc nhưng bản nhạc của Maxwell vẫn giữ nguyên nhé thằng ngu.
Nghĩa là đéo có thằng lò rèn, thì cũng sẽ có nhóm các nhà khoa học khác tìm ra cách biến đổi dựa theo phương trình maxwell, có chăng là mất thêm thời gian.
Tiên phong, tự nghĩ ra, số 1 cái địt cụ mày.
 

Có thể bạn quan tâm

Top