NGƯỜI QUỲ ÔM GỐI CÀN LONG CÓ PHẢI "HOÀNG ĐẾ" QUANG TRUNG HAY KHÔNG?

Ngu như con chó.
Mấy cái bức thư anh Huệ tự nhận người áo vải chỉ mới được dịch ra thời gian gần đây thôi
Còn Ai Tư Vãn của Ngọc Hân nổi tiếng quen thuộc và thiên hạ biết từ lâu rồi.
Bất cứ công trình nào ca ngợi anh Huệ đều lấy hai câu thơ đó
Khái niệm anh hùng áo vải của anh Huệ là bắt đài từ câu thơ đó đó thằng ngu ạ.
Thồi!
Anh càng nói càng lộ ra mà thôi!
Trích giúp tao câu trong Ai Tư Vãn ra đi!
Trích đúng bản gốc nhá!
Đừng trích bản dịch ra làm gì!
 
Trong bức tranh miêu tả cảnh yết kiến Càn Long, người mặc áo vàng ở chính giữa đang quỳ trước cung Nhiệt Hà nói là vua Quang Trung.
Nhiều nhà nghiên cứu Việt và 1 ít nhà nghiên cứu Tàu và Đài Loan cho là chuyện quỳ là có nhưng người quỳ không phải vua Quang Trung mà là ông Phạm Công Trị, cháu gọi vua Quang Trung bằng cậu và có ngoại hình có nét giống vua Quang Trung. Người ta nói vua Quang Trung cho ông Phạm Công Trị đóng thế thân cho mình.
Nhưng trong văn bản để lại ghi rất rõ rằng con trai vua Quan Trung là Nguyễn Quang Thùy trên đường đi bị bệnh nên Phúc An Khang nhờ ông Phạm Công Trị đưa Nguyễn Quang Thùy về nước. Như vậy chuyện ông Phạm Công Trị đóng thế vua Quang Trung thiệt là khó có thể xảy ra được.
Cũng có nhà nghiên cứu nói rằng không phải Phạm Công Trị nhưng là đại thần Ngô Văn Sở đóng thế thân. Nhưng không thể nào vì ông Ngô Văn Sở là 1 trong 2 người dẫn đầu phái đoàn và ông có mặt khi quỳ trước cung Nhiệt Hà (người mặc áo đỏ quỳ cạnh vua)
Thứ ba nhà Thanh nhiều lần đi sứ sang gặp vua Quang Trung trong vô số điều đình giữa 2 bên trước khi vua Quang Trung đích thân sang Nhiệt Hà quỳ. Vậy thì nhà Thanh đã biết mặt vua thì làm sao mà giả?
FB_IMG_1667434013868.jpg
Thời hiện đại mà Trung cộng còn cài được Chủ tiệm nước giả vào đông lào không ai phát hiện ra nữa là thời xưa làm đéo có máy ảnh, quay phim, đi lại khó khăn ít gặp nhau. Biết mặt cũng chỉ vài thằng quan triều Thanh nhớ nhớ quên quên.
 
Ai Tư Vãn

Gió hiu hắt phòng tiêu lạnh lẽo
Trước thềm lan, hoa héo ron ron.
Cầu Tiên khói tỏa đỉnh non,
Xe rồng thăm thẳm, bóng loan dàu dàu.

Nỗi lai lịch dễ hầu than thở
Trách nhân duyên mờ lỡ cớ sao ?
Sầu sầu, thảm thảm xiết bao...
Sầu đầy giạt bể, thảm cao ngất trời !

Từ cờ thắm trỏ vời cõi Bắc,
Nghĩa tôn phù vằng vặc bóng dương.
Rút dây vâng mệnh phụ hoàng,
Thuyền lan chèo quế thuận đường vu quy.

Trăm ngàn dặm quản chi non nước;
Chữ "nghi gia" mừng được phải duyên.
Sang yêu muôn đội ơn trên,
Rỡ ràng vẻ thúy, nối chen tiếng cầm.

Lượng che chở, vụng lầm nào kể.
Phận đinh ninh cặn kẽ mọi lời.
Dẫu rằng non nước biến dời,
Nguồn tình ắt chẳng chút vơi đâu là.

Lòng đùm bọc thương hoa đoái cội,
Khắp tôn thân cùng đội ơn sang.
Miếu đường còn dấu chưng thường,
Tùng thu còn rậm mấy hàng xanh xanh.

Nhờ hồng phúc, đôi cành hòe quế
Đượm hơi dương dây rễ cùng tươi
Non Nam lần chúc tuổi trời,
Dâng câu Thiên Bảo, bày lời Hoa Phong.

Những ao ước trập trùng tuổi hạc,
Nguyền trăm năm ngõ được vầy vui.
Nào hay sông cạn, bể vùi,
Lòng trời giáo giở, vận người biệt ly.

Từ nắng hạ, mưa thu trái tiết,
Xót mình rồng mỏi mệt chẳng yên.
Xiết bao kinh sợ, lo phiền,
Miếu thần đã đảo, thuốc tiên lại cầu.

Khắp mọi chốn đâu đâu tìm rước,
Phương pháp nào đổi được cùng chăng ?
Ngán thay, máy Tạo bất bằng,
Bóng mây thoắt đã ngất chừng xe loan.

Cuộc tụ, tán, bi, hoan kíp bấy,
Kể sum vầy đã mấy năm nay ?
Lênh đênh chút phận bèo mây,
Duyên kia đã vậy, thân này nương đâu ?

Trằn trọc luống đêm thâu, ngày tối,
Biết cậy ai dập nỗi bi thương ?
Trông mong luống những mơ màng,
Mơ hồ bằng mộng, bàng hoàng như say.

Khi trận gió hoa bay thấp thoáng,
Ngỡ hương trời bãng bãng còn đâu:
Vội vàng sửa áo lên chầu,
Thương ôi, quạnh quẽ trước lầu nhện giăng.

Khi bóng trăng, lá in lấp lánh,
Ngỡ tàn vàng nhớ cảnh ngự chơi.
Vội vàng dạo bước tới nơi,
Thương ơi, vắng vẻ giữa trời tuyết sa !

Tưởng phong thể xót xa đòi đoạn,
Mặt rồng sao cách gián lâu nay,
Có ai chốn ấy về đây,
Nguồn cơn xin ngỏ cho hay được đành ?

Nẻo u minh khéo chia đôi ngả,
Nghĩ đòi phen, nồng nã đòi phen.
Kiếp này chưa trọn chữ duyên,
Ước xin kiếp khác vẹn tuyền lửa hương.

Nghe trước có đấng vương Thang, Võ,
Công nghiệp nhiều tuổi thọ thêm cao;
Mà nay áo vải cờ đào,
Giúp dân dựng nước xiết bao công trình !

Nghe rành rành trước vua Nghiêu, Thuấn,
Công đức dày, ngự vận càng lâu;
Mà nay lượng cả, ơn sâu,
Móc mưa rưới khắp chín châu đượm nhuần.

Công dường ấy, mà nhân dường ấy,
Cõi thọ sao hẹp bấy hóa công ?
Rộng cho chuộc được tuổi rồng,
Đổi thân ắt hẳn bõ lòng tôi ngươi.

Buồn thay nhẽ, sương rơi gió lọt,
Cảnh đìu hiu, thánh thót châu sa.
Tưởng lời di chúc thiết tha,
Khóc nào nên tiếng, thức mà cũng mê.

Buồn thay nhẽ, xuân về hoa ở,
Mối sầu riêng ai gỡ cho xong,
Quyết liều mong vẹn chữ tòng,
Trên rường nào ngại giữa dòng nào e.

Con trứng nước thương vì đôi chút,
Chữ tình thâm chưa thoát được đi,
Vậy nên nấn ná đòi khi,
Hình tuy còn ở, phách thì đã theo;

Theo buổi trước ngự đèo Bồng Đảo,
Theo buổi sau ngự nẻo sông Ngân,
Theo xa thôi lại theo gần,
Theo phen điện quế, theo lần nguồn hoa.

Đương theo bỗng tiếng gà sực tỉnh,
Đau đớn thay ấy cảnh chiêm bao !
Mơ màng thêm nỗi khát khao,
Ngọc kinh chốn ấy ngày nào tới nơi ?

Tưởng thôi lại bồi hồi trong dạ,
Nguyệt đồng sinh sao đã kíp phai ?
Xưa sao sớm hỏi khuya bày,
Nặng lòng vàng đá, cạn lời tóc tơ.

Giờ sao bỗng thờ ơ lặng lẽ,
Tình cô đơn, ai kẻ xét đâu ?
Xưa sao gang tấc gần chầu,
Trước sân phong nguyệt, trên lầu sính ca.

Giờ sao bỗng cách xa đôi cõi,
Tin hàn huyên khôn hỏi thăm nhanh.
Nửa cung gẫy phím cầm lành,
Nỗi con côi cút, nỗi mình bơ vơ !

Nghĩ nông nỗi ngẩn ngơ đòi lúc,
Tiếng tử quy thêm giục lòng thương.
Não người thay, cảnh tiên hương,
Dạ thường quanh quất, mắt thường ngóng trông.

Trông mái đông: lá buồm xuôi ngược,
Thấy mênh mông những nước cùng mây,
Đông rồi thì lại trông tây:
Thấy non cao ngất, thấy cây rườm rà.

Trông Nam thấy nhạn sa lác đác,
Trông bắc thời ngàn bạc màu sương.
Nọ trông trời đất bốn phương,
Cõi tiên khơi thẳm, biết đường nào đi.

Cậy ai có phép gì tới đó,
Dâng vật thường xin ngỏ lòng trung,
Này gương là của Hán cung
Ơn trên xưa đã soi chung đòi ngày.

Duyên hảo hợp xót rày nên lẽ,
Bụng ai hoài vội ghẽ vì đâu ?
Xin đưa gương ấy về chầu,
Ngõ soi cho tỏ gót đầu trông ơn.

Tưởng linh sảng nhơn nhơn còn dấu,
Nỗi sinh cơ có thấu cho không ?
Cung xanh đang tuổi ấu xung
Di mưu sao nỡ quên lòng đoái thương ?

Gót lân chỉ mấy hàng lẫm chẫm
Đầu mũ mao, mình tấm áo gai,
U ơ ra trước hương đài,
Tưởng quang cảnh ấy chua cay lòng này.

Trong sáu viện ố đào, ủ liễu
Xác ve gầy, lỏng lẻo xiêm nghê
Long đong xa cách hương quê,
Mong theo: lầm lối, mong về: tủi duyên.

Dưới bệ ngọc hàng uyên vò võ
Cất chân tay thương khó xiết chi.
Hang sâu nghe tiếng thương bi,
Kẻ sơ còn thế, huống gì người thân.

Cảnh ly biệt nhiều phần bát ngát,
Mạch sầu tuôn ai tát cho vơi ?
Càng trông càng một xa vời,
Tấc lòng thảm thiết, chín trời biết chăng ?

Buồn trông trăng, trăng mờ thêm tủi,
Gương Hằng Nga đã bụi màu trong.
Nhìn gương càng thẹn tấm lòng,
Thiên duyên lạnh lẽo, đêm đông biên hà.

Buồn xem hoa, hoa buồn thêm thẹn,
Cánh hải đường đã quyện giọt sương.
Trông chim càng dễ đoạn trường
Uyên ương chiếc bóng, phượng hoàng lẻ đôi.

Cảnh nào cũng ngùi ngùi cảnh ấy
Tiệc vui mừng còn thấy chi đâu ?
Phút giây bãi bể nương dâu,
Cuộc đời là thế biết hầu nài sao ?

Chữ tình nghĩa trời cao, đất rộng,
Nỗi đoạn trường còn sống còn đau.
Mấy lời tâm sự trước sau,
Đôi vầng nhật nguyệt trên đầu chứng cho.

Ai Tư Vãn viết bằng chữ Nôm nhé thằng ngu
Biểu bản dịch Ai Tư Vãn là quá ngu rồi
Đây là “chữ Nôm” hả?
T hỏi m câu cuối
Vì t chán lắm rồi!
Thánh Copy paste vẫn mãi đéo hiểu mình copy paste cái gì!
 
Ai Tư Vãn

Gió hiu hắt phòng tiêu lạnh lẽo
Trước thềm lan, hoa héo ron ron.
Cầu Tiên khói tỏa đỉnh non,
Xe rồng thăm thẳm, bóng loan dàu dàu.

Nỗi lai lịch dễ hầu than thở
Trách nhân duyên mờ lỡ cớ sao ?
Sầu sầu, thảm thảm xiết bao...
Sầu đầy giạt bể, thảm cao ngất trời !

Từ cờ thắm trỏ vời cõi Bắc,
Nghĩa tôn phù vằng vặc bóng dương.
Rút dây vâng mệnh phụ hoàng,
Thuyền lan chèo quế thuận đường vu quy.

Trăm ngàn dặm quản chi non nước;
Chữ "nghi gia" mừng được phải duyên.
Sang yêu muôn đội ơn trên,
Rỡ ràng vẻ thúy, nối chen tiếng cầm.

Lượng che chở, vụng lầm nào kể.
Phận đinh ninh cặn kẽ mọi lời.
Dẫu rằng non nước biến dời,
Nguồn tình ắt chẳng chút vơi đâu là.

Lòng đùm bọc thương hoa đoái cội,
Khắp tôn thân cùng đội ơn sang.
Miếu đường còn dấu chưng thường,
Tùng thu còn rậm mấy hàng xanh xanh.

Nhờ hồng phúc, đôi cành hòe quế
Đượm hơi dương dây rễ cùng tươi
Non Nam lần chúc tuổi trời,
Dâng câu Thiên Bảo, bày lời Hoa Phong.

Những ao ước trập trùng tuổi hạc,
Nguyền trăm năm ngõ được vầy vui.
Nào hay sông cạn, bể vùi,
Lòng trời giáo giở, vận người biệt ly.

Từ nắng hạ, mưa thu trái tiết,
Xót mình rồng mỏi mệt chẳng yên.
Xiết bao kinh sợ, lo phiền,
Miếu thần đã đảo, thuốc tiên lại cầu.

Khắp mọi chốn đâu đâu tìm rước,
Phương pháp nào đổi được cùng chăng ?
Ngán thay, máy Tạo bất bằng,
Bóng mây thoắt đã ngất chừng xe loan.

Cuộc tụ, tán, bi, hoan kíp bấy,
Kể sum vầy đã mấy năm nay ?
Lênh đênh chút phận bèo mây,
Duyên kia đã vậy, thân này nương đâu ?

Trằn trọc luống đêm thâu, ngày tối,
Biết cậy ai dập nỗi bi thương ?
Trông mong luống những mơ màng,
Mơ hồ bằng mộng, bàng hoàng như say.

Khi trận gió hoa bay thấp thoáng,
Ngỡ hương trời bãng bãng còn đâu:
Vội vàng sửa áo lên chầu,
Thương ôi, quạnh quẽ trước lầu nhện giăng.

Khi bóng trăng, lá in lấp lánh,
Ngỡ tàn vàng nhớ cảnh ngự chơi.
Vội vàng dạo bước tới nơi,
Thương ơi, vắng vẻ giữa trời tuyết sa !

Tưởng phong thể xót xa đòi đoạn,
Mặt rồng sao cách gián lâu nay,
Có ai chốn ấy về đây,
Nguồn cơn xin ngỏ cho hay được đành ?

Nẻo u minh khéo chia đôi ngả,
Nghĩ đòi phen, nồng nã đòi phen.
Kiếp này chưa trọn chữ duyên,
Ước xin kiếp khác vẹn tuyền lửa hương.

Nghe trước có đấng vương Thang, Võ,
Công nghiệp nhiều tuổi thọ thêm cao;
Mà nay áo vải cờ đào,
Giúp dân dựng nước xiết bao công trình !

Nghe rành rành trước vua Nghiêu, Thuấn,
Công đức dày, ngự vận càng lâu;
Mà nay lượng cả, ơn sâu,
Móc mưa rưới khắp chín châu đượm nhuần.

Công dường ấy, mà nhân dường ấy,
Cõi thọ sao hẹp bấy hóa công ?
Rộng cho chuộc được tuổi rồng,
Đổi thân ắt hẳn bõ lòng tôi ngươi.

Buồn thay nhẽ, sương rơi gió lọt,
Cảnh đìu hiu, thánh thót châu sa.
Tưởng lời di chúc thiết tha,
Khóc nào nên tiếng, thức mà cũng mê.

Buồn thay nhẽ, xuân về hoa ở,
Mối sầu riêng ai gỡ cho xong,
Quyết liều mong vẹn chữ tòng,
Trên rường nào ngại giữa dòng nào e.

Con trứng nước thương vì đôi chút,
Chữ tình thâm chưa thoát được đi,
Vậy nên nấn ná đòi khi,
Hình tuy còn ở, phách thì đã theo;

Theo buổi trước ngự đèo Bồng Đảo,
Theo buổi sau ngự nẻo sông Ngân,
Theo xa thôi lại theo gần,
Theo phen điện quế, theo lần nguồn hoa.

Đương theo bỗng tiếng gà sực tỉnh,
Đau đớn thay ấy cảnh chiêm bao !
Mơ màng thêm nỗi khát khao,
Ngọc kinh chốn ấy ngày nào tới nơi ?

Tưởng thôi lại bồi hồi trong dạ,
Nguyệt đồng sinh sao đã kíp phai ?
Xưa sao sớm hỏi khuya bày,
Nặng lòng vàng đá, cạn lời tóc tơ.

Giờ sao bỗng thờ ơ lặng lẽ,
Tình cô đơn, ai kẻ xét đâu ?
Xưa sao gang tấc gần chầu,
Trước sân phong nguyệt, trên lầu sính ca.

Giờ sao bỗng cách xa đôi cõi,
Tin hàn huyên khôn hỏi thăm nhanh.
Nửa cung gẫy phím cầm lành,
Nỗi con côi cút, nỗi mình bơ vơ !

Nghĩ nông nỗi ngẩn ngơ đòi lúc,
Tiếng tử quy thêm giục lòng thương.
Não người thay, cảnh tiên hương,
Dạ thường quanh quất, mắt thường ngóng trông.

Trông mái đông: lá buồm xuôi ngược,
Thấy mênh mông những nước cùng mây,
Đông rồi thì lại trông tây:
Thấy non cao ngất, thấy cây rườm rà.

Trông Nam thấy nhạn sa lác đác,
Trông bắc thời ngàn bạc màu sương.
Nọ trông trời đất bốn phương,
Cõi tiên khơi thẳm, biết đường nào đi.

Cậy ai có phép gì tới đó,
Dâng vật thường xin ngỏ lòng trung,
Này gương là của Hán cung
Ơn trên xưa đã soi chung đòi ngày.

Duyên hảo hợp xót rày nên lẽ,
Bụng ai hoài vội ghẽ vì đâu ?
Xin đưa gương ấy về chầu,
Ngõ soi cho tỏ gót đầu trông ơn.

Tưởng linh sảng nhơn nhơn còn dấu,
Nỗi sinh cơ có thấu cho không ?
Cung xanh đang tuổi ấu xung
Di mưu sao nỡ quên lòng đoái thương ?

Gót lân chỉ mấy hàng lẫm chẫm
Đầu mũ mao, mình tấm áo gai,
U ơ ra trước hương đài,
Tưởng quang cảnh ấy chua cay lòng này.

Trong sáu viện ố đào, ủ liễu
Xác ve gầy, lỏng lẻo xiêm nghê
Long đong xa cách hương quê,
Mong theo: lầm lối, mong về: tủi duyên.

Dưới bệ ngọc hàng uyên vò võ
Cất chân tay thương khó xiết chi.
Hang sâu nghe tiếng thương bi,
Kẻ sơ còn thế, huống gì người thân.

Cảnh ly biệt nhiều phần bát ngát,
Mạch sầu tuôn ai tát cho vơi ?
Càng trông càng một xa vời,
Tấc lòng thảm thiết, chín trời biết chăng ?

Buồn trông trăng, trăng mờ thêm tủi,
Gương Hằng Nga đã bụi màu trong.
Nhìn gương càng thẹn tấm lòng,
Thiên duyên lạnh lẽo, đêm đông biên hà.

Buồn xem hoa, hoa buồn thêm thẹn,
Cánh hải đường đã quyện giọt sương.
Trông chim càng dễ đoạn trường
Uyên ương chiếc bóng, phượng hoàng lẻ đôi.

Cảnh nào cũng ngùi ngùi cảnh ấy
Tiệc vui mừng còn thấy chi đâu ?
Phút giây bãi bể nương dâu,
Cuộc đời là thế biết hầu nài sao ?

Chữ tình nghĩa trời cao, đất rộng,
Nỗi đoạn trường còn sống còn đau.
Mấy lời tâm sự trước sau,
Đôi vầng nhật nguyệt trên đầu chứng cho.

Ai Tư Vãn viết bằng chữ Nôm nhé thằng ngu
Biểu bản dịch Ai Tư Vãn là quá ngu rồi
Có ai tag hộ thánh “Chữ Nôm” @Atlas01 hộ t với!
Cần đưa vào viện bảo tàng “chữ Nôm”
:vozvn (14)::vozvn (14)::vozvn (14):
 
@Atlas01 sủa vài câu chữ Nôm xem nào!
Ko thì chửi vài câu kiểu như “ngu nửa”, “ngu như bò”...bằng “chữ Nôm” xem nào!
 
Nhân tiện nói về “Vải”, ngoài Bố Y làm bằng sợi bông, gai, còn 1 vài loại nữa: trừu [綢], đoạn [緞] gấm [錦]...
À mà Đoạn vs Gấm cũng phân biệt nhé.
Như t nói ở trên, tại sao dịch là Vải chưa thực sự đúng nghĩa vì thế, chỗ nayg đéo sân si gì hết nhé, cái này để anh em hiểu thêm, ko lại có thằng bảo là đéo gọi là Vải thì gọi là gì, chuẩn, tất cat trên đều gọi là Vải!

Tiên sư @Atlas01 , ông hoàng chữ Nôn, thánh Copy paste!
 
Tao vẫn đéo hiểu mày muốn chứng tỏ gì, thật đấy. Chữ Lôm mày còn bắt bản gốc với bản dịch, hay xưa nay tao đéo hiểu chữ Lôm quê mày nó thế nào, nhỉ.

Còn gấm, vóc, đoạn, gai, sô...đều gọi chung là vải, nhưng trong thơ văn từ "Bố Y" dịch là "áo vải" và chỉ thảo dân nông phu đúng mẹ rồi, bắt bẻ đéo gì nữa hả
 
Tao vẫn đéo hiểu mày muốn chứng tỏ gì, thật đấy. Chữ Lôm mày còn bắt bản gốc với bản dịch, hay xưa nay tao đéo hiểu chữ Lôm quê mày nó thế nào, nhỉ.

Còn gấm, vóc, đoạn, gai, sô...đều gọi chung là vải, nhưng trong thơ văn từ "Bố Y" dịch là "áo vải" và chỉ thảo dân nông phu đúng mẹ rồi, bắt bẻ đéo gì nữa hả
Đm
T hỏi thật!
M có biết tranh luận ko?
Nếu m muốn tranh luận thì m quote bài t ra!

Thứ 2 là thằng bản đồ quá mất dạy, chưit anh em nên t cho nó bài học để nó bớt mồm lại, như m chẳng hạn, t thèm đéo gì nói, chứ Lôm là cái l gì!
T biết bài của nó, đéo biết toàn copy paste, nên biết ngay nó sẽ coi đó là chứ Nôm, xong chửi, nên t giăng sẵn đợi nó, hiểu chưa!

Thứ 3, t đã nói rất rõ là nói để hiểu thêm về Bố Y, chứ t đéo nói nó đéo phải Vải và ý của QT là nói minhg chỉ là dân thường!
M đéo đọc trên t nói thì đừng đặt vấn đề!

Thế nhé!
 
Đm
T hỏi thật!
M có biết tranh luận ko?
Nếu m muốn tranh luận thì m quote bài t ra!

Thứ 2 là thằng bản đồ quá mất dạy, chưit anh em nên t cho nó bài học để nó bớt mồm lại, như m chẳng hạn, t thèm đéo gì nói, chứ Lôm là cái l gì!
T biết bài của nó, đéo biết toàn copy paste, nên biết ngay nó sẽ coi đó là chứ Nôm, xong chửi, nên t giăng sẵn đợi nó, hiểu chưa!

Thứ 3, t đã nói rất rõ là nói để hiểu thêm về Bố Y, chứ t đéo nói nó đéo phải Vải và ý của QT là nói minhg chỉ là dân thường!
M đéo đọc trên t nói thì đừng đặt vấn đề!

Thế nhé!

Thế cái bản dịch chữ Lôm nhà mày nó so với bản gốc khác như nào mày kể tao cái đcm, chả hiểu mày đang chứng minh clg nữa.

Đặc biệt câu: "áo vải cờ đào" trong Ai Tư Vãn, bản gốc khác bản dịch như nào.
 
Sửa lần cuối:
Thế cái bản dịch nhữ Lôm nhà mày nó so với bản gốc khác như nào mày kể tao cái đcm, chả hiểu mày đang chứng minh clg nữa.

Đặc biệt câu: "áo vải cờ đào" trong Ai Tư Vãn, bản gốc khác bản dịch như nào.
M vẫn còn Lôm thì biến mẹ đi!
 
:)) ừ thì Nôm đcm quê tao nông phu áo vải nên ngọng, ngày xưa con Thơm Hồ có khi còn đéo biết đọc ý, vặn vẹo đéo gì.
M còn giữ thái độ ấy thì biến mẹ đi!
Cút!
 
M còn giữ thái độ ấy thì biến mẹ đi!
Cút!

Thằng này vào xàm rồi mà vẫn giữ trinh tiết, nghiêm cẩn thủ lễ vậy mậy.

Hồ Thơm sang ôm gối anh Long Càng là đúng mẹ rồi làm gì có con Trị giả vương nào. Ngoại giao với thiên triều mà lá mặt lá trái nó vả cho rụng mẹ răng. Thơm sang ăn chơi gần năm gái mú nhiều quá, sức như rồng hổ cũng đéo ai mà chịu được. Về gặp vợ trẻ lại đè ra dập lấy dập để, giang hồ đồn cuối cùng thượng mã phong đứt trên bụng chị Hân.

Âu cũng kết thúc một đời gian hùng. RIP anh
 
Sửa lần cuối:
Thằng này vào xàm rồi mà vẫn giữ trinh tiết, nghiêm cẩn thủ lễ vậy mậy.

Hồ Thơm sang ôm gối anh Long Càng là đúng mẹ rồi làm gì có con Trị giả vương nào. Ngoại giao với thiên triều mà lá mặt lá trái nó vả cho rụng mẹ răng. Thơm sang ăn chơi gần năm gái mú nhiều quá, sức như rồng hổ cũng đéo ai mà chịu được. Về gặp vợ trẻ lại đè ra dập lấy dập để, giang hồ đồn cuối cùng thượng mã phong đứt trên bụng chị Hân.

Âu cũng kết thúc một đời gian hùng. RIP anh
Đéo đâu, mày nói gì kệ mày chứ!
T ghét thái độ và khả năng đọc hiểu của mày thôi!
:-h:-h:-h
 
Địt mẹ, chúng mày cứ lấy cái tư duy của thời nay để phán xét thời xưa. Quan hệ của mình với Tàu là thiên tử - chư hầu, thời đó mấy nước nhỏ man di mọi rợ được vào ôm chân hoàng đế thì đều vinh dự và tự hào chứ đéo phải thấy nhục nhã hay sợ hãi gì đâu, dcm. Thiên tử đã chịu gặp chúng mày nghĩa là công nhận chế độ, vào để vỗ về an phận, đéo thèm tiếp thì mới là đen cho chúng mày, chứ việc đéo gì phải giở trò bắt giết?
Đéo hiểu sao Càn long có vẻ quý Huệ, lấy lễ thân vương để đón tiếp coi như con. Địt mẹ đám ở nhà định nhân cơ hội làm loạn á, chúng mày cứ thử bật con của thiên tử đi?
t thấy m nói đúng, ngoài chính trị quân sự ra, còn phải làm kinh tế, buôn bán với Hán tộc. Hòa bình dân yên ổn, giao thương tốt thì dân thịnh vượng. Tùy thời mà định hướng ngoại giao khác nhau, ko có kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích quốc gia là vĩnh viễn
 
Chả có cái nào căn cứ tin cậy cả.
Chỉ lấy ra làm dẫn chứng để xác minh
Bây giờ sử Tàu nói là anh Huệ thật
Sử nhà Nguyễn nói anh Huệ giả.
Vậy bây giờ hãy suy đoán xem đó là thật hay giả.
Tao suy đoán đó là Huệ thật
Vì đéo dễ qua mặt bọn Thanh và mật vụ của Càn Long
Và phái đoàn mang sang 150 người đông gấp mấy lần quy định
Và toàn là đại thần trụ cột của Tây Sơn
Phái đoàn này đi rình rang từ tháng 1 đi mà cuối năm mới về
Nếu anh Huệ giả thì đéo ai dám đi cả.
Toàn trụ cột Tây Sơn ko đi bị nó phát hiện thì chôn thây xứ người
Và nếu Huệ giả thì đi nhanh về nhanh vì càng lâu càng dễ lộ
Đây phái đoàn đi vừa chơi ngắm cảnh rình rang thơ phú ăn tiệc linh đình như chuyến đi nghỉ mát xài tiền chùa của anh Long.
Bảo Huệ giả thì phái đoàn 150 ông đại quan này phải thần kinh thép và liều mạng hết
Toàn là suy luận chủ quan của anh. Bộ sậu sang Tq chống lệnh cũng tèo, sang tq còn có cơ hội mà sống. QT vừa thắng quân Thanh, sang làm mẹ gì, CL có biết QT giả thì làm sao, cũng ngậm bồ hòn làm ngọt chứ làm mẹ gì hay đem quân sang đánh tiếp? Bênh NA bằng mọi giá nên bị (cố tình) che hết mợ mắt rồi.
Còn quân số quân Thanh sang Đại Việt bao nhiêu thì tôi không biết, nhưng có đọc được bài này trên face:
 
Sửa lần cuối:
Tao vẫn đéo hiểu mày muốn chứng tỏ gì, thật đấy. Chữ Lôm mày còn bắt bản gốc với bản dịch, hay xưa nay tao đéo hiểu chữ Lôm quê mày nó thế nào, nhỉ.

Còn gấm, vóc, đoạn, gai, sô...đều gọi chung là vải, nhưng trong thơ văn từ "Bố Y" dịch là "áo vải" và chỉ thảo dân nông phu đúng mẹ rồi, bắt bẻ đéo gì nữa hả
Vải cũng có thể hiểu là vải xô, vải thô, vải lụa,... nhưng anh bản đồ bảo “anh hùng áo vải” là hạng thấp kém, nhưng anh Mát lon kêu là vải lụa, gấm; mà đã là lụa gấm thì không thể thấp kém hay lông dân rồi, anh ấy muốn yêu cầu bản Nôm chắc để chỉ rõ chữ đó là “vải gấm” chứ không phải vải thấp kém.
 
Thực tế 2 vạn quân Quảng Tây và 1 vạn quân Vân Nam
Quân Vân Nam đóng ở Cao Bằng và rút về ngay không giao chiến với Nguyễn Huệ
Còn chỉ có 2 vạn quân Quảng Tây và 1 nghìn quân điền châu của Sầm Nghi Đống là giao chiến thực sự
Ước tính quân Thanh tiến sang Việt Nam có 4 vạn quân chính quy, 10 vạn dân phu. Ngay tại Bắc Hà thì có thêm 2 vạn quân Cần Vương người Việt trung thành với Lê Chiêu Thống và 1 vạn dân binh Hoa Kiều sống ở Bắc Hà nổi dậy hưởng ứng. Ngoài ra theo sử Thanh thì khi quân Thanh tiến vào Việt Nam thì đám thổ hào sống ở biên giới cũng tập hợp người thành từng đoàn đi theo quân Thanh tràn vào Việt Nam, lấy danh là nghĩa binh, chí nguyện binh đi theo quân triều đình đánh giặc nhưng thực ra là chỉ để tranh thủ cướp bóc, giết hiếp là chính, đám này ước tính đến vài vạn tên. Đám quân Thanh chính quy sang Việt Nam khá kỉ luật, nhưng bọn nghĩa binh với Hoa Kiều đi theo thì cướp phá, giết hiếp tràn lan làm hủy hoại hết thanh danh của đám quân Thanh. Quân Tây Sơn đóng ở Bắc Hà có 6 vạn quân. Khi bị quân Thanh đánh thì có chống cự vài trận xong rút về đổ bê tông bảo vệ phòng tuyến ở Thanh Hóa. Tôn Sỹ Nghị chiếm được Thăng Long thì chia quân làm 2, một nửa vượt sông Hồng đóng ở phía nam, một nửa đóng bên phía bắc sông Hồng.
Quang Trung nghe tin quân Thanh đánh thì dẫn tầm 1 vạn quân cấp tốc đi thuyền từ Phú Xuân ra Nghệ An, bắt vét thêm khoảng 3 vạn dân binh vùng Thanh Nghệ nữa được gần chục vạn kéo ra đánh bất ngờ làm quân của Tôn Sỹ Nghị và Lê Chiêu Thống ko kịp trở tay. Đám giáo sĩ phương Tây ghi chép 1 nửa số quân Thanh đóng ở phia nam sông Hồng kẹt lại ko chạy qua sông được bị diệt sạch, nửa còn lại nghe tin quân Thanh bên kia sông bị tiêu diệt thì vọt luôn về nước trước. Thành thử lúc Tôn Sỹ Nghị chạy được về nước chỉ có vài chục lính đi cùng bảo vệ. 2 vạn quân Cần Vương, 1 vạn lính Hoa kiều và 1 phần đám nghĩa binh kẹt lại ở bờ nam sông Hồng cũng bị quân Tây Sơn đồ sát.
Ngoài ra cái lễ Quang Trung phải làm khi gặp Càn Long là khom lưng ôm eo Càn Long, đầu tựa lên ngực Càn Long, còn Càn Long thì ôm lấy hai vai Quang Trung. Đây là cách thức hai bố con xa nhau lâu ngày ôm nhau khi hội ngộ bên Tàu thời đó. Càn Long dùng nghi lễ này để thể hiện "tao nhận mày làm con, mày phải coi tao là bố". Đám sử gia mất dạy thời Nguyễn sau này dịch sửa lại thành quỳ ôm gối để bôi nhọ Quang Trung.
 
Họa sĩ cung đình Càn Long vẽ
Nó vẽ An Nam Quốc Vương sang chầu mừng thượng thọ Càn Long
Và nó có mặt ở tận nơi vẽ sự kiện này.
Cái tranh cãi là cái ông quỳ lạy đó có phải Nguyễn Huệ hay là ông khác giả.
Cũng giống như các cháu bây giờ học văn, phải phân tích tác giả tác phẩm thôi.
Thằng vẽ thì nó thích vẽ cái mẹ gì thì vẽ, sau nó chết đi rồi thì lôi ra phán vẽ người này người kia. Muốn biết thì đi theo mà hỏi nó.
 
Cái bài phân tích đó đọc nhảm nhí chết mẹ.
Số quân của Thanh lúc đầu thì bảo số tử vong số tù binh trả về cộng lại là 21.000.
Sau lại trích sử Nguyễn bảo là Thanh mang sang 29 vạn
À idol đây rồi!
Chuyên za chữ Nôm!
Sao trốn mãi như con chó thế idol?
 
Đây là “chữ Nôm” hả?
T hỏi m câu cuối
Vì t chán lắm rồi!
Thánh Copy paste vẫn mãi đéo hiểu mình copy paste cái gì!
Ai Tư Vãn

Gió hiu hắt phòng tiêu lạnh lẽo
Trước thềm lan, hoa héo ron ron.
Cầu Tiên khói tỏa đỉnh non,
Xe rồng thăm thẳm, bóng loan dàu dàu.

Nỗi lai lịch dễ hầu than thở
Trách nhân duyên mờ lỡ cớ sao ?
Sầu sầu, thảm thảm xiết bao...
Sầu đầy giạt bể, thảm cao ngất trời !

Từ cờ thắm trỏ vời cõi Bắc,
Nghĩa tôn phù vằng vặc bóng dương.
Rút dây vâng mệnh phụ hoàng,
Thuyền lan chèo quế thuận đường vu quy.

Trăm ngàn dặm quản chi non nước;
Chữ "nghi gia" mừng được phải duyên.
Sang yêu muôn đội ơn trên,
Rỡ ràng vẻ thúy, nối chen tiếng cầm.

Lượng che chở, vụng lầm nào kể.
Phận đinh ninh cặn kẽ mọi lời.
Dẫu rằng non nước biến dời,
Nguồn tình ắt chẳng chút vơi đâu là.

Lòng đùm bọc thương hoa đoái cội,
Khắp tôn thân cùng đội ơn sang.
Miếu đường còn dấu chưng thường,
Tùng thu còn rậm mấy hàng xanh xanh.

Nhờ hồng phúc, đôi cành hòe quế
Đượm hơi dương dây rễ cùng tươi
Non Nam lần chúc tuổi trời,
Dâng câu Thiên Bảo, bày lời Hoa Phong.

Những ao ước trập trùng tuổi hạc,
Nguyền trăm năm ngõ được vầy vui.
Nào hay sông cạn, bể vùi,
Lòng trời giáo giở, vận người biệt ly.

Từ nắng hạ, mưa thu trái tiết,
Xót mình rồng mỏi mệt chẳng yên.
Xiết bao kinh sợ, lo phiền,
Miếu thần đã đảo, thuốc tiên lại cầu.

Khắp mọi chốn đâu đâu tìm rước,
Phương pháp nào đổi được cùng chăng ?
Ngán thay, máy Tạo bất bằng,
Bóng mây thoắt đã ngất chừng xe loan.

Cuộc tụ, tán, bi, hoan kíp bấy,
Kể sum vầy đã mấy năm nay ?
Lênh đênh chút phận bèo mây,
Duyên kia đã vậy, thân này nương đâu ?

Trằn trọc luống đêm thâu, ngày tối,
Biết cậy ai dập nỗi bi thương ?
Trông mong luống những mơ màng,
Mơ hồ bằng mộng, bàng hoàng như say.

Khi trận gió hoa bay thấp thoáng,
Ngỡ hương trời bãng bãng còn đâu:
Vội vàng sửa áo lên chầu,
Thương ôi, quạnh quẽ trước lầu nhện giăng.

Khi bóng trăng, lá in lấp lánh,
Ngỡ tàn vàng nhớ cảnh ngự chơi.
Vội vàng dạo bước tới nơi,
Thương ơi, vắng vẻ giữa trời tuyết sa !

Tưởng phong thể xót xa đòi đoạn,
Mặt rồng sao cách gián lâu nay,
Có ai chốn ấy về đây,
Nguồn cơn xin ngỏ cho hay được đành ?

Nẻo u minh khéo chia đôi ngả,
Nghĩ đòi phen, nồng nã đòi phen.
Kiếp này chưa trọn chữ duyên,
Ước xin kiếp khác vẹn tuyền lửa hương.

Nghe trước có đấng vương Thang, Võ,
Công nghiệp nhiều tuổi thọ thêm cao;
Mà nay áo vải cờ đào,
Giúp dân dựng nước xiết bao công trình !

Nghe rành rành trước vua Nghiêu, Thuấn,
Công đức dày, ngự vận càng lâu;
Mà nay lượng cả, ơn sâu,
Móc mưa rưới khắp chín châu đượm nhuần.

Công dường ấy, mà nhân dường ấy,
Cõi thọ sao hẹp bấy hóa công ?
Rộng cho chuộc được tuổi rồng,
Đổi thân ắt hẳn bõ lòng tôi ngươi.

Buồn thay nhẽ, sương rơi gió lọt,
Cảnh đìu hiu, thánh thót châu sa.
Tưởng lời di chúc thiết tha,
Khóc nào nên tiếng, thức mà cũng mê.

Buồn thay nhẽ, xuân về hoa ở,
Mối sầu riêng ai gỡ cho xong,
Quyết liều mong vẹn chữ tòng,
Trên rường nào ngại giữa dòng nào e.

Con trứng nước thương vì đôi chút,
Chữ tình thâm chưa thoát được đi,
Vậy nên nấn ná đòi khi,
Hình tuy còn ở, phách thì đã theo;

Theo buổi trước ngự đèo Bồng Đảo,
Theo buổi sau ngự nẻo sông Ngân,
Theo xa thôi lại theo gần,
Theo phen điện quế, theo lần nguồn hoa.

Đương theo bỗng tiếng gà sực tỉnh,
Đau đớn thay ấy cảnh chiêm bao !
Mơ màng thêm nỗi khát khao,
Ngọc kinh chốn ấy ngày nào tới nơi ?

Tưởng thôi lại bồi hồi trong dạ,
Nguyệt đồng sinh sao đã kíp phai ?
Xưa sao sớm hỏi khuya bày,
Nặng lòng vàng đá, cạn lời tóc tơ.

Giờ sao bỗng thờ ơ lặng lẽ,
Tình cô đơn, ai kẻ xét đâu ?
Xưa sao gang tấc gần chầu,
Trước sân phong nguyệt, trên lầu sính ca.

Giờ sao bỗng cách xa đôi cõi,
Tin hàn huyên khôn hỏi thăm nhanh.
Nửa cung gẫy phím cầm lành,
Nỗi con côi cút, nỗi mình bơ vơ !

Nghĩ nông nỗi ngẩn ngơ đòi lúc,
Tiếng tử quy thêm giục lòng thương.
Não người thay, cảnh tiên hương,
Dạ thường quanh quất, mắt thường ngóng trông.

Trông mái đông: lá buồm xuôi ngược,
Thấy mênh mông những nước cùng mây,
Đông rồi thì lại trông tây:
Thấy non cao ngất, thấy cây rườm rà.

Trông Nam thấy nhạn sa lác đác,
Trông bắc thời ngàn bạc màu sương.
Nọ trông trời đất bốn phương,
Cõi tiên khơi thẳm, biết đường nào đi.

Cậy ai có phép gì tới đó,
Dâng vật thường xin ngỏ lòng trung,
Này gương là của Hán cung
Ơn trên xưa đã soi chung đòi ngày.

Duyên hảo hợp xót rày nên lẽ,
Bụng ai hoài vội ghẽ vì đâu ?
Xin đưa gương ấy về chầu,
Ngõ soi cho tỏ gót đầu trông ơn.

Tưởng linh sảng nhơn nhơn còn dấu,
Nỗi sinh cơ có thấu cho không ?
Cung xanh đang tuổi ấu xung
Di mưu sao nỡ quên lòng đoái thương ?

Gót lân chỉ mấy hàng lẫm chẫm
Đầu mũ mao, mình tấm áo gai,
U ơ ra trước hương đài,
Tưởng quang cảnh ấy chua cay lòng này.

Trong sáu viện ố đào, ủ liễu
Xác ve gầy, lỏng lẻo xiêm nghê
Long đong xa cách hương quê,
Mong theo: lầm lối, mong về: tủi duyên.

Dưới bệ ngọc hàng uyên vò võ
Cất chân tay thương khó xiết chi.
Hang sâu nghe tiếng thương bi,
Kẻ sơ còn thế, huống gì người thân.

Cảnh ly biệt nhiều phần bát ngát,
Mạch sầu tuôn ai tát cho vơi ?
Càng trông càng một xa vời,
Tấc lòng thảm thiết, chín trời biết chăng ?

Buồn trông trăng, trăng mờ thêm tủi,
Gương Hằng Nga đã bụi màu trong.
Nhìn gương càng thẹn tấm lòng,
Thiên duyên lạnh lẽo, đêm đông biên hà.

Buồn xem hoa, hoa buồn thêm thẹn,
Cánh hải đường đã quyện giọt sương.
Trông chim càng dễ đoạn trường
Uyên ương chiếc bóng, phượng hoàng lẻ đôi.

Cảnh nào cũng ngùi ngùi cảnh ấy
Tiệc vui mừng còn thấy chi đâu ?
Phút giây bãi bể nương dâu,
Cuộc đời là thế biết hầu nài sao ?

Chữ tình nghĩa trời cao, đất rộng,
Nỗi đoạn trường còn sống còn đau.
Mấy lời tâm sự trước sau,
Đôi vầng nhật nguyệt trên đầu chứng cho.

Ai Tư Vãn viết bằng chữ Nôm nhé thằng ngu
Biểu bản dịch Ai Tư Vãn là quá ngu rồi
Cod ai tag hộ @Atlas01 vào với!
 
Cái bài phân tích đó đọc nhảm nhí chết mẹ.
Số quân của Thanh lúc đầu thì bảo số tử vong số tù binh trả về cộng lại là 21.000.
Sau lại trích sử Nguyễn bảo là Thanh mang sang 29 vạn
Trình độ đọc hiểu đúng bằng con nít!
Nó phân tích con số 21000 là để phản bác lại con số Tôn Sĩ Nghị báo lên triều!
Đm đúng là thánh bản đồ voz, ông hoàng thơ Nôm!
 
Mày lại ngu rồi, chuyện QT sang làm lễ quỳ với Càn Long thì đã đc ghi chép trong sử sách của cả VN ( Hoàng lê nhất thống chí) và sử tàu, nên đó hiển nhiên là sự thật. Thời gian, địa điểm rõ ràng còn muốn chối sao :))
Mày trích thử xem Hoàng Lê Nhất thống chí chép như nào cái :vozvn (1):
 

Có thể bạn quan tâm

Top