Nhóm Ngũ Long An Nam - "Nguyễn Ái Quốc".

thandieuhieplu11@

Khổ vì lồn
[url=https://anh.moe/view/AS2Oj3][/URL]

- Phan Chu Trinh: ngọn cờ cách mạng đại tài, quan Bộ Lễ triều Nguyễn - quê Quảng Nam
- Phan Văn Trường: học vị tiến sĩ, luật sư - quê Hà Nội
- Nguyễn Thế Truyền: kỹ sư, tiến sĩ - quê Nam Định
- Nguyễn An Ninh: cử nhân luật, chủ soạn báo cách mạng Chuông rè (La Cloche fêlée) - quê Chợ Lớn
- Thành: phụ bếp - quê Nghệ An
 
Nguyễn Thế Truyền - đẹp trai, phong trần vcl.

Ông sinh 17 tháng 12 năm 1898, quê làng Hành Thiện, tỉnh Nam Định, con một gia đình quyền thế: cha ông là Nguyễn Duy Nhạc làm án sát tỉnh Hà Nam; ông nội là Nguyễn Duy Hàn làm tuần phủ tỉnh Thái Bình, mất ngày 12/4/1913, bị sát hại bởi trái tạc đạn của Phan Văn Tráng, trong Quang Phục Hội (Phan Bội Châu).

Năm 1910, Truyền 12 tuổi, được phó công sứ Thái Bình Dupuy đem qua Pháp du học. Vào nội trú trường Parangon (Joinville le Pont, ngoại ô Paris) trực thuộc Alliances françaises do André Salles, cựu thanh tra thuộc địa làm giám đốc. Theo Phan Văn Trường, trường Parangon có mục đích đào tạo những trẻ em thuộc địa để trở thành những “công dân tốt” trung thành với mẫu quốc. Là học sinh xuất sắc, Nguyễn Thế Truyền liên tiếp được học bổng của Alliances françaises từ 1913 đến 1922. Năm 1915, đậu Brevet Supérieur, về nước một năm, học thêm Hán văn, rồi trở lại Pháp học tiếp kỹ sư hóa học (1916-1920) ở Toulouse. 1920, tốt nghiệp, về nước một năm, học tiếp Hán văn. Tháng 8/1921 trở lại Paris, sửa soạn luận án tiến sĩ, học thêm triết (đậu cử nhân triết năm 1922).

Khi mới trở lại Paris, Nguyễn Thế Truyền ở số 3 Champollion, Paris 5. Đầu năm 1922, đến ở nhà Phan Văn Trường, số 6 villa des Gobelins. (Lúc này Phan Văn Trường đi Đức, biện hộ tại toà án binh Mayence từ giữa 1921 đến tháng 5/1922). Khi Phan Văn Trường về Pháp, thì Nguyễn Thế Truyền mướn nhà số 6 Saint Louis en l’Ile, Paris. Kết duyên với cô La Tour, làm y tá, sống chung từ cuối 1922, có bốn con.

Trong thời gian ở Pháp ông liên lạc và sinh hoạt với các ông Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh và Nguyễn Sinh Cung[3] được người đương thời gọi là "nhóm Ngũ long." Bút hiệu "Nguyễn Ái Quốc" trên"Thỉnh nguyện thư của dân tộc An Nam" được ghi nhận là đại diện cho bốn ông: Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, và Nguyễn Sinh Cung.[4]

Trong thời gian tại Pháp ông gia nhập Đảng Xã hội Pháp rồi Đảng ******** Pháp (1922)[2] và chính ông là người giới thiệu Nguyễn Sinh Cung đến với chính giới Đảng Xã hội Pháp và Đảng ******** Pháp. Khi được tin Phan Bội Châu bị quản thúc, ông hoạt động tích cực đòi nhà chức trách Pháp trả tự do cho nhà chí sĩ họ Phan. Ông đứng ra quyên góp hơn 6.000 franc Pháp để gửi về cho Phan Bội Châu khi được tin ông bị đưa an trí ở Huế, số tiền mà luật sư Phan Văn Trường gọi là "món nợ thiêng liêng" đối với nhà chí sĩ.[5]

Nguyễn Thế Truyền đã đóng góp bài vở và từng làm chủ bút cho báo Le Paria của Đảng ******** Pháp nhưng sau ông từ bỏ chủ thuyết ******** và cho ra một tờ báo riêng mang tên Việt Nam hồn (ra được 8 số từ Tháng Giêng đến Tháng Tám 1926), rồi Hồn Việt Nam (4 số), L'Ame Annamite, La Nation Annamite và tờ Phục quốc vào cuối năm 1926 đòi hỏi chính quyền Pháp đáp ứng nguyện vọng tự do của dân Việt Nam. Sau lại thêm tờ Việt Nam xuất bản vào Tháng Chín năm 1927.[2] Cộng tác với ông là nhà văn Mai Lâm Nguyễn Đắc Lộc. Những tờ báo này là tụ điểm của nhiều người Việt đồng chí hướng ở Pháp. Tháng 6 năm 1927 Ông khai sinh và làm chủ tịch Đảng Việt Nam Độc lập ở Pháp.

Ngày 7/12/1927 Nguyễn Thế Truyền bàn giao lại cho Tạ Thu Thâu, cùng gia đình và Nguyễn An Ninh lên tàu Chantilly, về nước. Tháng 1/1928, ông về đến nhà, sau đó cùng với vợ người Pháp và 4 đứa con định cư ở làng Hành Thiện và thành phố Nam Định.

1934 Ông sang Pháp trở lại, hoạt động đến 1937 thì về nước.

Một giai thoại còn lưu truyền là việc ông đánh tổng đốc Vi Văn Định của tỉnh Thái Bình khi quan tổng đốc tỏ ra hống hách, ngang ngược ở bến đò Tân Đệ.[6]

Ngày 1/5/1941 ông bị Sở mật thám Đông Dương bắt và kết tội thông đồng với người Nhật nên bị án đày sang Madagascar cùng với người em là Nguyễn Thế Song[7] đến năm 1946 mới được thả.[8]

Sau Hiệp định Genève (1954) ông di cư vào Nam, tiếp tục nghề báo thời Việt Nam Cộng hòa rồi ra tranh cử trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1961 thời Đệ nhất Cộng hòa liên danh với Hồ Nhựt Tân nhưng thất bại.

Ông mất ngày 19 Tháng 9 năm 1969 ở Sài Gòn và được chôn cất long trọng, gần mộ cụ PHAN tại nghĩa địa Gò Công (quận Gò Vấp).
 
Nguyễn An Ninh.

Nguyễn An Ninh sinh trưởng trong một gia đình nhà Nho yêu nước tại Hóc Môn - Gia Định[1]. Cha và chú của Nguyễn An Ninh là cụ Nguyễn An Khương và Nguyễn An Cư đều là hai nhà Nho, nhà văn danh tiếng, bạn của nhiều chí sĩ yêu nước lớn và hành nghề thuốc Đông y có tiếng ở Sài Gòn - Gia Định xưa. Thân mẫu của ông là cụ Trương Thị Ngự - con một gia đình giàu có, danh giá ở Chợ Lớn thời đầu thế kỷ XX. Cụ Trương Thị Ngự sau này được Nhà nước phong tặng Mẹ Việt Nam Anh hùng. Còn ở Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh có con đường mang tên cha ông là Nguyễn An Khương.
Thuở thiếu thời, Nguyễn An Ninh học rất giỏi - xem như thần đồng ở tất cả các cấp học. Ông được cha dạy chữ Hán trước khi cắp sách đến trường. Năm 1910, ông học tiểu học ở Trường dòng Taberd, sau đó học trung học ở Trường Chasseloup-Laubat (nay là Trường Trung học phổ thông Lê Quý Đôn) tại Sài Gòn, tốt nghiệp hạng ưu năm 1916.

Được miễn chuẩn bằng tú tài, ông ra Hà Nội học Cao đẳng Y - Dược Đông Dương. Học được nửa năm ông nhận ra y dược không phải là sở nguyện của mình nên xin chuyển sang học luật tại Trường Cao đẳng Pháp chính thuộc Đại học Đông Dương.

Năm 1918, ông bỏ học sang Pháp, thi đỗ vào khoa Luật của Đại học Sorbonne, Paris. Đây là ngôi trường danh tiếng của nước Pháp, đào tạo ra các chính khách, các nhà khoa học và văn hóa lớn. Ở tuổi 20, sau hai năm học tập, ông đã hoàn thành chương trình học 4 năm và được cấp bằng Cử nhân Luật hạng xuất sắc, gây chấn động đương thời.

Những năm học tập trên đất Pháp, Nguyễn An Ninh đã nghiên cứu Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền rồi chuyển sang nghiên cứu Tuyên ngôn của Đảng ********, nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, có khuynh hướng mácxít. Cha ông là bạn thân của cụ Phan Châu Trinh cho nên những năm sống trên đất Pháp, Nguyễn An Ninh sống và hoạt động cùng cụ Phan, thân thiết với nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc, Tiến sĩ Luật Phan Văn Trường, Kỹ sư Hóa học, Cử nhân Triết học Nguyễn Thế Truyền hợp thành “Ngũ Long An Nam” trên đất Pháp.

Khi học ở Đại học Sorbonne ông may mắn gặp được người thầy đáng kính trọng là Giáo sư Marcel Cachin, một học giả, một nhà cách mạng của nước Pháp và là lãnh tụ của Đảng ******** Pháp, luôn tìm cách giúp đỡ Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn An Ninh, hướng dẫn Nguyễn An Ninh vào con đường cách mạng.

Sau khi tốt nghiệp đại học, tháng 5 năm 1920, ông trở lại Sài Gòn để làm lễ đính hôn do gia đình hai bên sắp đặt. Tháng 7 năm 1920, ông quay lại Pháp làm nghiên cứu sinh ngành Luật với đề tài luận án Tính dân chủ ở các làng xã Việt Nam. Năm 1922, ông đã hoàn thành luận án tiến sĩ nhưng chưa vội bảo vệ để có thể đi lại giữa Sài Gòn và Paris. Là người bạn vong niên thân thiết của Nguyễn Ái Quốc, ông tham gia Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa, cùng Nguyễn Thế Truyền viết bài cho báo Le Paria (Người cùng khổ) do Nguyễn Ái Quốc làm chủ bút.

Tháng 10 năm 1922, Nguyễn An Ninh xuống tàu trở lại Sài Gòn để hoạt động cách mạng, thức tỉnh đồng bào. Được chính quyền thực dân mời cộng tác nhưng ông từ chối. Tối ngày 25 tháng 1 năm 1923, ông ra mắt công chúng Sài Gòn tại Hội Khuyến học Nam Kỳ, số 34 đường Aviateur Roland Garros (nay là đường Thủ Khoa Huân), với bài diễn thuyết làm nức lòng 3.000 người nghe nhan đề Chung đúc một nền học thức cho dân An Nam làm chấn động Nam Kỳ thời đó.

Tháng 2 năm 1923, ông trở lại Paris gặp Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thế Truyền để thống nhất hành động. Nguyễn Ái Quốc hoạt động ở nước ngoài, còn Nguyễn An Ninh, Nguyễn Thế Truyền về nước tổ chức phong trào, chờ thời cơ để đón Nguyễn Ái Quốc về nước lãnh đạo cách mạng. Tháng 8 năm 1923, Nguyễn An Ninh về Sài Gòn tổ chức phong trào chờ Nguyễn Ái Quốc trở về.

Giữa tháng 10 năm 1923, ông diễn thuyết lần thứ hai với bài Lý tưởng của thanh niên An Nam hay còn gọi là Thanh niên cao vọng. Cả hai bài diễn thuyết này ông đều cực lực lên án chế độ thực dân, kêu gọi đồng bào, nhất là thanh niên tìm đường cứu dân tộc, xây dựng một nền văn hóa mới tự do cho đất nước. Ông trở thành thủ lĩnh tinh thần của thanh niên Nam Bộ thời đó. Mật thám chính quốc và mật thám Nam Kỳ theo dõi chặt chẽ hoạt động yêu nước của Nguyễn An Ninh. Sau bài diễn thuyết này Thống đốc Nam Kỳ Cognacq đã gọi Nguyễn An Ninh lên Dinh Thống đốc cảnh cáo và ra lệnh cấm không cho ông diễn thuyết.


Sau cuộc gặp gỡ với Thống đốc Nam Kỳ, ngày 10 tháng 12 năm 1923, báo Tiếng chuông rè (La Cloche Fêlée) số đầu tiên ra mắt ở Sài Gòn do ông sáng lập, làm chủ nhiệm kiêm chủ bút, tự viết bài, tự biên tập, in ấn và tự đi bán báo. Tờ báo đã gióng lên tiếng chuông thức tỉnh đồng bào và lột trần bản chất của chế độ thuộc địa ở Nam Kỳ. Bị chính quyền thuộc địa o ép, sau khi xuất bản 19 số thì ngày 14 tháng 7 năm 1924, Tiếng chuông rè phải tạm đình bản.

Tháng 1 năm 1925, Nguyễn An Ninh xuống tàu sang Paris để đón cụ Phan Châu Trinh. Trong chuyến đi này, ông đã cho xuất bản tác phẩm Nước Pháp ở Đông Dương cùng chủ đề với tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp của Nguyễn Ái Quốc in ấn và phát hành cùng thời gian ở Paris gây ra tiếng vang lớn. Tạp chí Europe (Châu Âu) đã đăng lại toàn văn tác phẩm của Nguyễn An Ninh, nhưng ở Đông Dương tác phẩm bị cấm lưu hành. Trong thời gian ở Paris, Nguyễn An Ninh diễn thuyết tại Hội quán Sociétés Savantes (Hội bác học), tuyên bố: “Tôi không phải ********, không xuất thân từ giai cấp vô sản, nhưng tôi tán thành những nguyên lý ********”.

Sau khi về nước lần này, ông cùng Phan Văn Hùm - một người bạn thân thiết xuống Mỹ Tho ra mắt ẩn sĩ Mai Văn Ngọc để thành lập Thanh niên cao vọng Đảng, một tổ chức quần chúng yêu nước hoạt động theo nguyên tắc hội kín ở Nam Kỳ mà nhiều người còn gọi là Hội kín Nguyễn An Ninh, có hàng ngàn hội viên tham gia.

Ngày 26 tháng 11 năm 1925, sau khi Luật sư Phan Văn Trường về nước, Nguyễn An Ninh tiếp tục xuất bản báo Tiếng chuông rè số 20, số lượng tới 5.000 bản. Vừa làm báo, Nguyễn An Ninh vừa vận động quần chúng, tiếp tục tổ chức lớp trẻ vào Thanh niên cao vọng Đảng làm lực lượng nòng cốt cho phong trào cách mạng, tiếp tục tổ chức diễn thuyết ở nhiều nơi, khắp các tỉnh Nam Kỳ. Ngày 21 tháng 3 năm 1926, ông diễn thuyết trước 3.000 người thì bị chính quyền giải tán và ngày 24 tháng 3 năm 1920 ông bị mật thám bắt giam.

Mặc dù ở trong tù, nhưng theo kế hoạch của Nguyễn An Ninh, ngày 29 tháng 3 năm 1926 báo Tiếng chuông rè của ông đăng tải Tuyên ngôn của Đảng ******** do Mác và Ăngghen soạn thảo (từ số 53 đến số 60). Ngày 23 tháng 4 năm 1926, tòa án Pháp kết tội ông xúi giục dân chúng làm loạn với mức án 2 năm tù, sau rút xuống còn 18 tháng, nhưng đến ngày 7 tháng 1 năm 1927, sau khi ông ở tù gần 10 tháng thì được trả tự do. Báo Tiếng chuông rè kết thúc vai trò lịch sử ở số 62, để từ ngày 3 tháng 5 năm 1926 đổi tên thành báo L’Annam (Nước Nam) mở đầu bằng số 63 kéo dài đến ngày 2 tháng 2 năm 1928, xuất bản tổng cộng được 182 số thì đình bản.

Ngày 8 tháng 8 năm 1927, Nguyễn An Ninh đi Pháp lần thứ năm với mục đích tìm gặp Nguyễn Ái Quốc, nhờ Đảng ******** Pháp và bạn bè Pháp giúp đỡ phong trào yêu nước ở Đông Dương, dự trại hè sinh viên Việt Nam tại Pháp và đón người bạn thân thiết Nguyễn Thế Truyền về nước để cùng mưu việc lớn.

Ngày 6 tháng 1 năm 1928, Nguyễn An Ninh cùng gia đình Nguyễn Thế Truyền về đến Sài Gòn, đây là lần cuối cùng ông sang đất Pháp để rồi từ đây ông chuyên tâm vào việc viết báo, viết sách và tổ chức phong trào yêu nước tại Nam Kỳ. Từ tháng 2 đến tháng 8 năm 1928, ông cùng người bạn thân Phan Văn Hùm đi khắp các tỉnh Nam Kỳ để thu nạp những người tích cực vào Thanh niên cao vọng Đảng. Năm 1928, Thanh niên cao vọng Đảng đã có tới 7.000 hội viên, và ở vùng Bà Điểm, Hóc Môn, Gia Định đã bắt đầu xuất hiện tổ chức Đảng Thanh niên An Nam và Đảng ******** Nguyễn An Ninh.

Trước sự phát triển của phong trào hội kín, thực dân Pháp đã tổ chức truy bắt ông, ngày 8 tháng 5 năm 1929, Tòa tiểu hình Sài Gòn kết án ông 3 năm tù giam, 5 năm mất quyền công dân, phạt 1.000 quan tiền vì tội chủ mưu lập hội kín. Ông chống án nhưng ngày 17 tháng 7 năm 1929, Tòa đại hình tuyên y án sơ thẩm. Nhiều thành viên và cơ sở của Thanh niên cao vọng Đảng bị bắt, bị đánh vỡ.
Trong 3 năm chịu án tại Khám Lớn Sài Gòn, Nguyễn An Ninh bị giam chung với đồng chí Phạm Văn Đồng từ tháng 7 năm 1929 đến tháng 6 năm 1930. Hai ông thường xuyên trao đổi về con đường cứu nước, về chủ nghĩa Mác - Lênin. Tuy ở tù nhưng nhờ uy tín của mình, Nguyễn An Ninh đã tổ chức được đường dây bí mật từ nhà tù với bên ngoài, giúp ích rất lớn cho các đồng chí lãnh đạo Đảng ******** và Xứ ủy Nam Kỳ với bên ngoài. Ngày 3 tháng 10 năm 1931, Nguyễn An Ninh được trả tự do, nhận viết bài cho báo Trung lập của Nguyễn Văn Tạo và có nhiều hoạt động rất có ý nghĩa.

Từ năm 1932 đến năm 1935, ông cùng Nguyễn Văn Trân giả dạng đi bán dầu cù là khắp các tỉnh Nam Kỳ để lần lượt bàn giao lực lượng Thanh niên cao vọng Đảng cho tổ chức ******** để có thể tuyển chọn, kết nạp vào Đảng ******** Đông Dương.

Tháng 8 năm 1933, khi Paul Vaillant Couturier - Ủy viên Trung ương Đảng ******** Pháp đi dự Hội nghị quốc tế bảo vệ hòa bình từ Thượng Hải về Sài Gòn, Nguyễn An Ninh tổ chức tiếp đón, cung cấp cho phái đoàn tình hình thực tế chính quyền thuộc địa ở Đông Dương đàn áp phong trào cách mạng, đàn áp khốc liệt những người ********. Vì vậy, Đảng ******** Pháp báo cáo với Quốc tế ******** giúp đỡ Đảng ******** Đông Dương. Đầu năm 1934, nghị sĩ Đảng ******** Pháp Gabriel Péri dẫn đầu phái đoàn Quốc tế cứu tế đỏ sang Sài Gòn, Nguyễn An Ninh đã hướng dẫn phái đoàn đi khắp Sài Gòn điều tra đời sống thợ thuyền, tình hình tù chính trị tại Khám Lớn mà ông từng hai lần bị lưu đày. Thông qua ông, phái đoàn đã bí mật chuyển tiền và tài liệu của Quốc tế ******** cho Đảng ******** Đông Dương.

Tháng 6 năm 1936, tại Pháp, Chính phủ Bình dân được thành lập sau thắng lợi vang dội của Mặt trận Bình dân Pháp. Lúc này ở Đông Dương, sau những đợt khủng bố nặng nề, Đảng ******** Đông Dương chưa kịp phục hồi và chưa có chủ trương cụ thể, thì Nguyễn An Ninh đã nhạy bén đề xuất với Xứ ủy Nam Kỳ mà ông có mối quan hệ mật thiết triệu tập Đông Dương đại hội.

Ngày 29 tháng 7 năm 1936, trên báo La Lutte số 92, Nguyễn An Ninh cho đăng bài Tiến tới một Đại hội Đông Dương và ngày 05 tháng 8 năm 1936, ông cho đăng tiếp bài Hãy bắt tay vào Đại hội Đông Dương trên báo La Lutte số 93 đã thổi bùng lên phong trào cách mạng quần chúng rất sôi nổi. Theo thỏa thuận của ông với các đồng chí lãnh đạo Xứ ủy Nam Kỳ, sau khi báo đăng lời kêu gọi thì các cấp ủy địa phương đồng loạt lập các Ủy ban hành động đấu tranh công khai do Đảng lãnh đạo. Chỉ trong một thời gian ngắn đã có 600 Ủy ban hành động ra đời mà Nguyễn An Ninh như một hạt nhân nòng cốt, một ngọn cờ để hiệu triệu quần chúng. Đông Dương đại hội trở thành cao trào cách mạng của quần chúng những năm 1936 - 1939.

Ngày 28 tháng 9 năm 1936, Nguyễn An Ninh bị địch bắt giam ở Khám Lớn Sài Gòn lần thứ ba. Sau đó trong nhóm của báo La Lutte còn có Tạ Thu Thâu và Nguyễn Văn Tạo cũng bị địch bắt. Trong tù các ông tuyệt thực phản đối và trước sức ép đấu tranh của quần chúng, ngày 5 tháng 11 năm 1936, ba ông được trả tự do. Tuy không phải đảng viên ******** nhưng ông thân thiết và là chỗ dựa tin cậy của những người ******** Nam Kỳ. Với tư cách một trí thức yêu nước lớn, một lãnh tụ tinh thần của quần chúng, Nguyễn An Ninh đứng hẳn về phái những người ********, phê phán quyết liệt những phần tử cơ hội troskit và nhóm lập hiến.

Đầu tháng 5 năm 1937, Nguyễn An Ninh cùng Nguyễn Văn Nguyễn xuống các tỉnh miền Tây để vận động tài chính ủng hộ Đảng ******** xuất bản báo L’Avant-Garde, và ngày 07 tháng 5 năm 1937 hai ông có mặt ở Càng Long - Trà Vinh khi ở đó Đảng bộ Trà Vinh tổ chức biểu tình nhân ngày Quốc tế Lao động 1-5. Nhân dịp này chính quyền thuộc địa vu cáo, kết tội hai ông xúi giục quần chúng biểu tình phá rối trị an, cho nên chúng truy nã Nguyễn An Ninh trong toàn xứ Nam Kỳ và thông báo cho cả Bắc Kỳ, Trung Kỳ.

Ngày 5 tháng 9 năm 1937 kẻ địch bắt được ông tại nhà cụ Hội đồng Võ Công Tồn ở Bến Lức - Long An. Tòa án thực dân kết án ông 5 năm tù giam và 10 năm biệt xứ, ông chống án, chúng rút xuống còn 2 năm tù giam và 5 năm biệt xứ. Ngày 18 tháng 2 năm 1939, ông mãn hạn tù, đưa cả gia đình về sống ở Mỹ Tho, cạnh Đông Phương thư xã - cơ quan của Xứ ủy Nam Kỳ, theo lệnh biệt xứ khỏi Sài Gòn.

Bìa sách Hội kín Nguyễn An Ninh. (Nguồn: Ảnh tư liệu).
Bìa sách Hội kín Nguyễn An Ninh. (Nguồn: Ảnh tư liệu).
Tháng 4 năm 1939, ông đứng tên vào Sổ Dân chúng (báo Dân chúng) ra ứng cử vào Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ.

Tháng 9 năm 1939, khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, chính quyền thuộc địa ở Đông Dương siết chặt ách thống trị tàn bạo, truy lùng những chiến sĩ yêu nước và cách mạng. Vì vậy, ngày 4 tháng 10 năm 1939, thực dân Pháp bắt lại ông, bí mật kết án ông 5 năm tù giam và 10 năm biệt xứ vì tội gây rối trị an. Ngay sau đó, ngày 10 tháng 12 năm 1940, chúng đã đày ông ra Côn Đảo.

Tháng 9 năm 1940, sau khi Nhật đánh chiếm Đông Dương, chúng đã hai lần cử người ra Côn Đảo gặp gỡ thuyết phục đón Nguyễn An Ninh về lập Chính phủ thân Nhật, mặc dù đang bệnh nặng ông đã khẳng khái từ chối. Không trực tiếp lay chuyển được ông cộng tác, tháng 7 và tháng 8 năm 1943, phát xít Nhật hai lần cho người đến gặp vợ Nguyễn An Ninh thuyết phục bà ra Côn Đảo mời ông về lập Chính phủ thân Nhật nhưng bà cũng từ chối.

Dưới chế độ hà khắc của địa ngục trần gian Côn Đảo, lại bị bệnh nặng, ông hy sinh ngày 14 tháng 8 năm 1943 khi mới 43 tuổi đời và trước Cách mạng tháng Tám 1945 thành công hai năm.

Từ một trí thức được đào tạo công phu, Nguyễn An Ninh trở thành một chiến sĩ cách mạng có tầm ảnh hưởng sâu rộng suốt hai thập kỷ (1923 - 1943) của phong trào yêu nước - nhất là ở Nam Bộ. Ông là nhà văn hóa, nhà báo, nhà tư tưởng lớn của nước ta hồi đầu thế kỷ XX. Có thể nói ông là một trí thức tiêu biểu, dấn thân, xả thân vì sự nghiệp giải phóng dân tộc thời cận đại.

Ông mất đi nhưng để lại một di sản lớn. Những tác phẩm tiêu biểu của ông gồm có: Cao vọng của thanh niên An Nam (1923); Dân ước (dịch những đoạn chính trong tác phẩm Khế ước xã hội của J. J. Rousseau (1923); Nước Pháp ở Đông Dương (1925); Tuyên ngôn của Đảng ******** của Mác - Ăngghen, tổ chức dịch và cho đăng báo Tiếng chuông rè năm 1926; Hai Bà Trưng, tuồng hát (1928); Tôn giáo (1932); Phê bình Phật giáo (1937); Nguyễn An Ninh - Tác phẩm (Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, Nxb. Văn học, 2009)…
 
Phan Văn Trường.

Từ “Hội Đồng bào thân ái” với Phan Chu Trinh

Phan Văn Trường sinh ngày 25/9/1876, quê làng Đông Ngạc, Từ Liêm, Hà Nội. Thuở nhỏ ông học chữ Hán, sau đó học chữ Quốc ngữ và chữ Pháp. Sau khi tốt nghiệp Trường Thông ngôn, ông làm thông ngôn ở Phủ Thống sứ Bắc Kì. Trong thời gian này, ông tham gia phong trào Đông Kinh nghĩa thục rất tích cực. Năm 1908, thực dân Pháp tiến hành khủng bố các phong trào Duy Tân, Đông Kinh nghĩa thục, ông bị bắt.

Sau khi thoát khỏi nhà tù, cuối năm 1908, nhận thấy học vấn là con đường để có thể tiếp tục sự nghiệp cứu nước của mình, ông đã xin sang Pháp. Tại Pháp, Phan Văn Trường làm phụ giảng tiếng Việt ở Trường Ngôn ngữ phương Đông và theo học Luật khoa tại Đại học Sorbonne, Paris. Ông còn đồng thời học cả văn chương và chỉ trong vài năm ông đỗ cả cử nhân Luật khoa lẫn cử nhân Văn khoa. Không dừng lại ở đó, ông tiếp tục học trình tiến sĩ luật khoa. Việc học tiến sỹ của ông bị ngắt quãng vì Thế chiến thứ nhất bùng nổ, ông phải nhập ngũ, sau đó bị bắt vì nghi làm gián điệp cho Đức. Chiến tranh chấm dứt, ông lại tiếp tục việc học và đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ Lluật khoa với đề tài “Lược khảo về Bộ luật Gia Long”, trở thành một người Việt Nam đầu tiên có bằng tiến sĩ luật.

Khoảng cuối năm 1911, Phan Văn Trường lần đầu tiên gặp gỡ Phan Chu Trinh tại Paris. Ông đã giúp đỡ Phan Chu Trinh rất nhiều, đã mời cụ về ở cùng trong ngôi nhà thuê tại số 6 Villa des Gobelins, quận 13, Paris. Sự gặp gỡ này đã tạo ra bước ngoặt lớn trong phong trào của người Việt Nam yêu nước tại Pháp. Tại đây, hai nhà yêu nước đã sớm đi đến quyết định thành lập Hội Đồng bào thân ái, ra mắt vào ngày 18-01-1912 tại trường Parangon, nơi có đông đảo học sinh, sinh viên Việt Nam theo học. Là Chủ tịch Hội, Phan Văn Trường là người lãnh đạo, tổ chức các hoạt động của Hội để giúp đỡ các đồng bào của mình tại Pháp, mở ra thời kì mới cho phong trào của người Việt Nam tại đây.

Mặc dù cho phép thành lập nhưng chính quyền thuộc địa vẫn cho rằng hoạt động của Hội Đồng bào thân ái sẽ gây nguy hiểm cho sự cai trị của Pháp tại Đông Dương. Do đó, giữa tháng 9/1914, chính quyền Pháp đã lấy cớ làm gián điệp cho Đức để bắt giam cả hai ông. Sau hơn 10 tháng ngồi tù, ngày 16/7/1915, hai ông được trả tự do nhưng lúc này Hội Đồng bào thân ái cũng đã tan rã vì không có người lãnh đạo.

Sau khi ra tù, Phan Văn Trường phải trở lại quân ngũ với vai trò phiên dịch và dạy tiếng Pháp cho lính thợ người Việt tại Xưởng đóng tàu ở Toulouse cho đến khi kết thúc chiến tranh. Tại đây, ông đã nỗ lực tập hợp, đoàn kết và bênh vực cho những người Việt bị bắt đi lính sang Pháp.

Chính vì thế, chính quyền Pháp càng có lí do để lo lắng vì những ảnh hưởng của ông đối với lính thợ người Việt Nam và muốn tách ông ra khỏi cộng đồng này. Tuy nhiên, Phan Văn Trường đã cảnh giác và hành động rất thận trọng nên vẫn tiếp tục được ở lại và có nhiều hoạt động thiết thực giúp đỡ đồng bào mình, tiếp tục duy trì và phát triển những hoạt động của phong trào yêu nước của người Việt tại Pháp.

Đến “Bản yêu sách của Nhân dân An Nam” với Nguyễn Tất Thành

Năm 1917, Nguyễn Tất Thành đến Paris. Nhưng trước đó, giữa Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường và Nguyễn Tất Thành đã có sự liên hệ qua thư từ. Từ khi Nguyễn Tất Thành đến Paris, đã hình thành nhóm “Ngũ Long An Nam” gồm Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Tất Thành – những trí thức dẫn đầu phong trào yêu nước của người Việt tại Pháp. Sau khi ra tù, để tránh sự khủng bố của thực dân Pháp nếu trực tiếp lãnh đạo phong trào, Phan Văn Trường và Phan Chu Trinh đã quyết định chuyển giao vai trò cho Nguyễn Tất Thành. Sau một thời gian tìm hiểu, làm quen với tình hình nước Pháp, dưới sự hỗ trợ của Phan Văn Trường và các đồng bào mình tại Paris, cuối năm 1917, Nguyễn Tất Thành đã thành lập Nhóm những người Việt Nam yêu nước tại Pháp. Nhóm này đã sớm có những hoạt động sôi nổi trong việc đoàn kết người Việt yêu nước ở Pháp. Hoạt động nổi bật nhất của tổ chức này là soạn thảo và gửi cho Hội nghị Versailles Bản Yêu sách của Nhân dân An Nam, ký tên là Nguyễn Ái Quốc vào ngày 18-6-1919. Phan Văn Trường được cho là “kiến trúc sư” của Bản yêu sách này. Hành động trên đã gây được tiếng vang rất lớn ở Pháp và góp phần thúc đẩy phong trào đấu tranh yêu nước của người Việt Nam. Ngoài ra, Phan Văn Trường rất ủng hộ các hoạt động của Nguyễn Ái Quốc trong phong trào của Đảng Xã hội và sau này là Đảng ******** Pháp. Ông đã sát cánh cùng Nguyễn Ái Quốc trong nhiều hoạt động như lập Hội Liên hiệp thuộc địa, học nghề báo và ra báo Le Paria. Ông cũng bày tỏ sự tán thành đối với hoạt động của Đảng ******** Pháp và đồng tình, ủng hộ đối với những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc trong phong trào ******** và công nhân Pháp.

Và các báo Chuông rè, Nước Nam với Nguyễn An Ninh

Cuối năm 1923, Phan Văn Trường về nước, mở văn phòng luật sư tại Sài Gòn. Ông còn tham gia các cuộc diễn thuyết về chính trị, văn hóa, giáo dục; Biên soạn cuốn “Pháp luật lược luận” để giúp đồng bào có công cụ đấu tranh bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình. Năm 1928, cuốn sách ông viết tại Pháp là “Une histoire des conspirateurs annamites à Paris ou La Vérité sur l’Insochine” (Một câu chuyện về những người Việt Nam mưu loạn ở Paris hay sự thật về Đông Dương) được xuất bản ở Sài Gòn, khiến Khâm sứ Trung Kỳ phải ra nghị định ngày 31/8/1929 cấm lưu hành tại Trung Kỳ.

Hoạt động nổi bật nhất là ông cộng sự cùng Nguyễn An Ninh xuất bản báo La Cloche Fêlée (Chuông rè) bằng tiếng Pháp tại Sài Gòn theo tinh thần tự do, bình đẳng, bác ái. Đây là một trong những tờ báo đầu tiên thuộc dòng báo chí công khai trực tiếp phê phán mạnh mẽ chính sách cai trị của thực dân Pháp, phơi bày nỗi thống khổ của người dân, đồng thời truyền bá các tư tưởng cách mạng, đặc biệt là tư tưởng cách mạng Pháp, Ấn Độ và chủ nghĩa Mác – Lê-nin.

Do sự o ép của chính quyền thực dân, lại thiếu tiền và sức khỏe Nguyễn An Ninh không tốt nên đến số 19 ra ngày 14/7/1924 thì La Cloche Fêlée tạm ngừng hoạt động.

Ngày 26/6/1925, La Cloche Fêlée tái bản do Phan Văn Trường chủ nhiệm (vì có quốc tịch Pháp) với sự cộng tác của nhiều cây bút nổi tiếng đương thời. Từ số 63 ra ngày 6/6/1926, báo đổi tên thành L’Annam (Nước Nam).

Cùng với La Cloche Fêlée/L’Annam, và Nguyễn An Ninh, Phan Văn Trường đã có sự chuyển hóa về tư tưởng, trở nên quyết liệt, thiên tả hơn trong đấu tranh chống lại chế độ thực dân cai trị. Từ tư tưởng cải lương ôn hòa, ông công khai ủng hộ việc dùng bạo lực trong cuộc đấu tranh giải phóng, giành quyền sống cho Nhân dân, phát triển cho dân tộc. Ông đã cho đăng một số bài của các báo Người cùng khổ, Nhân đạo (của Đảng ******** Pháp), Diễn đàn thông tin quốc tế (của Quốc tế ********); đặc biệt ông là người đầu tiên đăng Tuyên ngôn Đảng ******** trên báo.

Cũng trong thời kỳ này, Phan Văn Trường còn tích cực tham gia hoạt động trong Thanh niên Cao vọng Đảng – một tổ chức chính trị chống chính quyền thực dân Pháp ở Nam Kỳ từ năm 1923 đến 1929, do Nguyễn An Ninh sáng lập và tổ chức.

Tháng 5/1927, nhà chức trách buộc tội ông với vai trò chủ nhiệm có liên can đến một bài báo trên tờ L’Hummanité mà tờ L’Annam đăng lại, nội dung kêu gọi “những binh lính thuộc địa người bản xứ trong đế quốc Pháp nổi loạn”.

Tháng 6/1927, ông bị khởi tố vì cho là có tham gia chuẩn bị lễ tang tưởng niệm Lương Văn Can. Ngày 21/7/1927, Phan Văn Trường bị bắt; ngày 2/2/1928, báo L’Annam bị đình bản.

Ngày 27/3/1928, ông bị Tòa án thực dân kết tội “xúi kích làm phản, kêu dân Việt Nam nổi loạn để đuổi người Pháp ra khỏi xứ”, xử 2 năm tù giam. Ông chống án sang Pháp, nhưng một năm rưỡi sau Tòa Thượng thẩm Paris mới đem ra xử, và y án cũ. Bị giam ở Pháp đến năm 1931 mới mãn hạn tù, ông trở về Sài Gòn và gặp lại Nguyễn An Ninh với ý định tiếp tục cuộc đấu tranh trên mặt trận báo chí công khai. Nhưng không may, khi về Hà Nội để thăm gia đình, ông đã bị bệnh và qua đời tại quê nhà ngày 23/4/1933.

Phan Văn Trường là một trí thức lớn đã lựa chọn con đường đi riêng để suốt đời phấn đấu vì sự nghiệp độc lập và tự do cho đất nước; dám hy sinh quyền lợi cá nhân vì lợi ích dân tộc. Bài học lớn nhất mà ông để lại là phấn đấu để có tri thức tiến bộ để đấu tranh và cống hiến vì đất nước
 

Có thể bạn quan tâm

Top