STOP !!!!!!!!!!!!!

Để lý luận phát triển thì nó phải ít nhiều xuất thế, phải có tháp ngà; nhưng đồng thời cũng không thể quá chú trọng đến tu luyện.
Trong môi trường mà nhà nước quá mạnh thì chính giáo hợp nhất, nhà nước kiểm soát tôn giáo và các hoạt động tinh thần, khiến cho tính nhập thế lấn át tính xuất thế, hoạt động tinh thần bị định hướng để phục vụ cho nhà nước thế tục. Đế chế La Mã và TQ là những trường hợp như vậy.
 
Đế chế La Mã không có thể chế tương tự như Academia của Plato. Anh em khắc kỷ nhìn chung rất tự phát, không có tổ chức chặt chẽ, trọng thực hành hơn lý thuyết, tham gia vào công việc thế tục. Giáo dục ở La Mã chủ yếu do gia đình đảm nhận, thuê gia sư về dạy con - môi trường phân tán thay vì tập trung tích lũy, ít điều kiện trao đổi tranh luận. Mục đích giáo dục chủ yếu là để đào tạo công dân, chính trị gia chứ không phải để truyền bá hay biện hộ một giáo lý siêu hình học nào đó; cho nên nội dung học tập chủ yếu là các môn thực tiễn như đạo đức, chính trị, hùng biện, ngữ pháp hay nghệ thuật như thơ ca, chứ ít chú trọng đến siêu hình học, lý giải thế giới.
 
Còn Nho giáo TQ thì cũng có học viện nhưng nội dung đào tạo chủ yếu hướng vào thực tiễn nhập thế. Lý luận TQ phát triển mạnh trong thời kỳ Xuân thu Chiến quốc, thiên hạ phân mảnh không có quyền lực thống nhất, nhưng đồng thời do bối cảnh chiến tranh nên nội bộ mỗi nước cũng ngày càng tập quyền, kẻ sĩ muốn được trọng dụng thì phải chứng minh tính hữu dụng của mình cho vua chúa, cho nên lý luận của của kẻ sĩ TQ là nhằm thuyết phục vua chúa, có khuynh hướng thực tiễn thế tục. Sau khi thống nhất thì nhà nước có nhu cầu tuyển dụng người biết chữ để cai trị đất nước, cho nên kẻ sĩ đọc sách chủ yếu là để làm quan, kinh bang tế thế hay tu dưỡng đạo đức (tu tề trị bình), ít chú trọng lý giải thế giới (cách vật trí tri) -- cái học tương đối có hạn. Sau khi nhà nước không còn cần đến nho sĩ nữa giai cấp nho sĩ tự động tiêu vong, không bền vững như các tôn giáo vãng sinh chăm sóc nhu cầu tâm linh sau khi chết của con người như các tôn giáo Ấn, Hồi.
 
Lý luận phương tây phát triển trong môi trường nhà nước yếu của Hy Lạp cổ đại và châu âu trung cổ. Công dân Hy Lạp nhờ chế độ nô lệ nên họ có thời gian rảnh rỗi để tích cực tham gia tranh luận về mọi thứ trên đời và lý giải thế giới, đồng thời ở một số thành bang có chế độ dân chủ thì họ cũng tích cực tham gia vào chính trị; thế nên họ rất có nhu cầu phát triển lý luận để thuyết phục kẻ khác. Nhưng đối tượng thuyết phục là đồng bào cùng đẳng cấp với mình thay vì những kẻ đứng trên đầu mình, cho nên họ có chủ đề đa dạng, không cần phải giới hạn vào các vấn đề thực tiễn, và đồng thời họ phải phát triển logic để tăng sức thuyết phục thay vì chỉ cốt nói sao cho thuyết phục được vua chúa có hứng thú thực dụng.
 
Về mặt thể chế, nhờ có sự tách biệt giữa tổ chức tôn giáo với quyền lực chính trị, chức sắc Ki-tô giáo không cần phải phát triển lý luận theo nhu cầu của quyền lực thế tục. Đồng thời, Ki-tô giáo cũng tách biệt được hoạt động truyền giáo (do các cấp giáo sĩ đảm nhiệm) với hoạt động tu hành, lý luận (do các tu sĩ đảm nhiệm).
 
Ki-tô giáo đã phát triển thể chế tương tự như Academia của Plato, đó là các trường học tu viện nơi các tu sĩ không làm gì ngoài nghiên cứu kinh điển, phân tích và tranh luận (bên cạnh việc cầu nguyện tu hành v.v...), được bao ăn bao ở nên có thể toàn tâm toàn ý cho nghiên cứu lý thuyết. Chính môi trường đó mới sản sinh ra thần học kinh viện và hệ thống đại học. (Nietzsche nói rằng hệ thống giáo dục của châu âu vốn xuất phát từ hệ thống giáo dục trung cổ vốn được thiết kế nhằm đào tạo lý luận cho chức sắc Ki-tô giáo.)
 
Top