TUG
Địt mẹ đau lòng
Lũ miền Tây ngày càng ít phù sa, cá tôm cạn kiệt, ruộng đồng xơ xác, người làm lúa không có lãi, ngư dân dần giải nghệ, bỏ xứ tìm nghề khác mưu sinh.
Những năm "sống chung với lũ""Hơn 10 năm rồi mới có lũ tràn đồng, nhưng lợi ích mang về không nhiều như xưa", ông Nguyễn Văn Dũng, 52 tuổi, nói, đứng bên cánh đồng hơn một hecta đang xả đê bao ở ấp Trương Công Ý, xã Nhơn Hòa Lập, huyện Tân Thạnh (Long An cũ, vùng hạ nguồn lũ Đồng Tháp Mười).
Ruộng lúa của ông Dũng là một trong những cánh đồng cuối cùng ở xã vẫn giữ tập quán trồng lúa 2 vụ, sau đó xả đồng "sống chung với lũ". Cạnh đó, hơn 200 ha lúa hàng chục năm nay nông dân đã đắp đê thâm canh lúa 3 vụ.
Gia đình nhiều đời làm nông, ông Dũng kể xưa dân Đồng Tháp Mười gọi tháng 8 đến 10 là mùa lụt, khi nước từ thượng nguồn tràn dần vào ruộng rồi rút chậm, không ồ ạt như lũ miền Bắc, miền Trung.
Thời đó chưa có đê bao, cả cánh đồng ngập mênh mông, đường sá, nhà cửa chìm trong nước, người dân đi lại bằng xuồng. Thậm chí nhà có người thân qua đời không tìm được gò cao, phải dùng cây xóc tréo làm giá gác quan tài chờ lũ rút mới an táng.
"Có năm lũ còn vài tấc nữa là ngập nóc, tôi phải khoét mái đưa xuồng vào, đêm lấy dây cột chân con gái sợ ngủ quên rơi xuống nước", ông Dũng nhớ lại.
Ông kể, xưa lũ lớn nhưng dân không "chống lũ" mà sống nương vào nó. Con nước theo quy luật tự nhiên, người dân chỉ cần nhìn rễ cây cà na hay bụi điên điển mọc đến đâu là biết lũ chỉ dâng đến đó.
Trước những năm 1990, người dân vùng Đồng Tháp Mười còn trồng giống lúa mùa Trường Hưng – loại lúa bản địa dài ngày, gieo từ tháng 4 âm lịch, nước dâng tới đâu thân vươn theo tới đó, đến Tết mới gặt.
Chưa có nước giếng, nước máy, nhưng ruộng đồng khi ấy ít phân thuốc, nên vào mùa lũ, người dân chỉ múc nước ngoài đồng vào lu, cho phèn chua lắng rồi nấu uống.
Trong ký ức ông Dũng, lũ xưa tràn đồng cũng là mùa no đủ. Người dân có thể sống khỏe suốt ba tháng nước nổi. Sáng sớm, họ chỉ cần tay lưới 50 m bủa ra đồng, nửa giờ sau đã có chục kg cá linh, cá rô; thậm chí ngồi trong nhà câu một buổi cũng được vài ký. Lũ về còn mang theo rau đồng - bông súng, điên điển, hẹ nước - làm nên đặc sản mùa nước nổi.
Lũ đưa phù sa về đồng giúp việc canh tác lúa mùa rồi đến lúa hai vụ thuận theo tự nhiên. Cuối tháng 9, lũ rút, nông dân gieo vụ đông xuân, thu hoạch vào giữa tháng Giêng. Sau vụ này, đồng ruộng được "nghỉ" một, hai tháng trước khi xuống giống vụ hè thu vào tháng 4. Khi lúa hè thu vừa gặt xong, lũ lại về, người dân "bơm dề, sạt dệt" (bơm nước và sạ lúa) đồng loạt, tiết kiệm chi phí và chuẩn bị cho mùa mới.
Những năm sau lũ lớn, lúa đều trúng mùa nhờ phù sa bồi đắp, giảm khoảng 30% chi phí phân bón. Lũ còn rửa trôi mầm bệnh, cỏ dại trên đồng.
Từ sau năm 2011, lũ ở Đồng Tháp Mười ngày càng nhỏ, ruộng không còn được "tắm" phù sa, đất nghèo dinh dưỡng, nông dân phải tốn thêm tiền phân, thuốc. Hệ thống đê bao khép kín để làm vụ ba khiến những cánh đồng "đói lũ" càng thêm xơ xác.
Làm lúa hai vụ không còn lời, ông Dũng chuyển sang trồng sen. Thời gian đầu có thu nhập khá, nhưng ruộng sen nằm giữa đồng lúa, mỗi khi hàng xóm phun thuốc cỏ là sen chết héo. Thua lỗ, ông đành phá bỏ sen, quay lại trồng lúa.
Trước đây, vào mùa nước nổi, ông tranh thủ đặt dớn, giăng lưới kiếm thêm tôm cá, có năm lũ lớn cá nhiều, mỗi ngày bán gần trăm kg. Nhưng nhiều năm gần đây, khi lũ cạn, từ con cá đến mớ rau ông đều phải ra chợ mua.
Con gái lớn đã theo chồng, ông cùng vợ, người chị và con trai hơn 20 tuổi sống nhờ hơn một hecta ruộng, phải nuôi bò, trồng mít quanh vườn để xoay xở. Năm nay, con trai ông cũng rời quê lên trung tâm xin việc.
Sau hơn một thập kỷ lũ nghèo, ông Dũng nói, thứ ông mất mát nhiều hơn những gì còn giữ lại.
Cạn kiệt cá tôm
Cách nhà ông Dũng hơn 130 km, Trần Vũ Linh, 34 tuổi, cùng em trai lái chiếc vỏ lãi chạy hơn 5 km, dừng tại cánh đồng lũ thượng nguồn xã Bình Thạnh (Đồng Tháp), sát biên giới Campuchia. Tới nơi, anh đứng mũi xuồng kéo những chiếc lú - dân địa phương gọi là "12 cửa ngục", nghĩa là không con gì thoát được. Sau hơn 10 lú, thau cá chỉ còn vài con nhỏ, ốc, cua.
"Hơn chục năm trước, 150 lú mỗi ngày thu 20–30 kg cá là bình thường, nay giảm gấp chục lần", anh ngao ngán.


Mỗi ngày, Trần Vũ Linh cùng em trai chạy xuồng máy từ 0h đi đổ 150 chiếc lú, đến gần 8h mới về nhà. Ảnh: Hoàng Nam
Linh là thế hệ thứ 3 trong gia đình Việt Kiều đánh cá từ Campuchia. Gần 50 năm trước, ông nội cùng cha anh từ hồ Tonle Sap xuôi sông Mekong về sống trên căn nhà nổi ở Bình Thạnh. Học hết lớp 6, Linh theo cha làm nghề cá.
Ông Sáu Thạnh, cha Linh, không muốn con út nối nghiệp nên khuyên đi Bình Dương làm công nhân. Còn ông cùng vợ gửi nhà nổi cho hàng xóm trông coi, rong ruổi vùng Đồng Tháp Mười giăng câu, đặt lợp kiếm sống.
Trong ký ức ngư dân 67 tuổi, 20 năm trước, mỗi mùa lũ lớn ở Đồng Tháp Mười là thời điểm "ăn nên, làm ra".
Từ tháng 7, khi rắn lên gò cao, ông Sáu dùng chĩa xôm bắt hàng chục ký hổ đất, hổ hành; rắn mái gầm dài 2 m, nặng 3-4 kg như cơm bữa.
Trên sông lớn, cá linh, cá tra đi thành đàn đen mặt nước. Ghe đục của bạn hàng phải xếp hàng mua cá, nhiều hôm cá nhiều quá phải xả bỏ. Ngư dân cũng hay dính cá tra dầu 80-90 kg.
"Một lần giăng câu, dính cá đuối to hơn một sải tay, nặng cả trăm ký, chúng tôi phải dùng móc sắt kéo cả buổi mới lên xuồng", ông kể. Nghề cá giúp ông tích cóp mua mảnh đất nhỏ.
Những năm sau, lũ nhỏ dần, cá tôm khan hiếm, ông Sáu phải dạt đến rừng tràm ngập nước xã Thạnh Hưng (Mộc Hóa, Long An cũ) cách đó gần 100 km, dựng chòi tạm đặt lợp bắt cua đồng.
Sau hơn 10 năm, xóm nghề cá ven sông thưa dần, cua khan hiếm, ông Thạnh bán chòi tạm 4 triệu đồng, trở về Đồng Tháp.
Sáu năm trước, lo Covid-19, con trai ông đưa vợ con trở lại quê. Ông Thạnh nhường đất cho con, cùng vợ sống trong căn nhà nổi hơn 10 m2 dọc sông. Với 50 cái lú, mỗi ngày ông cố bơi xuồng lên đồng lũ đặt cá, kiếm hơn 100.000 đồng, đủ cho vợ chồng già trang trải sinh hoạt.
Trở về sau chuyến thăm lú suốt đêm, anh em Linh chỉ bắt hơn ký cá chạch, 2 ký tép và mớ cua, bán hơn 300.000 đồng. Mỗi cái lú giá hơn 300.000 đồng, mỗi mùa hao hụt 30-40 cái do mất trộm. Cá tôm ít, Linh phải tranh thủ phụ lái máy bay xịt thuốc để trang trải chi phí cho hai con. Hàng xóm nhiều năm cá ít đã "đi Bình Dương".
"Cứ đà này sang năm phải giải nghệ tìm việc khác ổn định hơn", Linh thở dài.
Nghịch lý lũ nghèo... ngập nặng
Lũ không chỉ ít phù sa, cá, tôm mà còn gây sạt lở, thiệt hại nặng ở miền Tây. Tại Tân Châu (An Giang), lũ cao hơn năm trước 0,75 m, khiến 250 nhà dân xã Vĩnh Châu, Tuyên Bình ngập, nhiều tuyến đường bị chia cắt. Xe máy phải gửi nhà hàng xóm, việc đi chợ, đưa con đi học đều bằng xuồng.
Lũ còn làm vỡ nhiều đê xung yếu ở Tân Hưng, Hưng Điền, Vĩnh Thạnh, Tuyên Bình và Trường Xuân, Phương Thịnh, gần 1.000 ha lúa vụ 3 mất trắng, 700 ha cây ăn quả thiệt hại.
Ở hạ nguồn Cần Thơ, triều cường cuối tháng 10 đạt đỉnh 2,33 m, vượt báo động 3 và mốc lịch sử 2022. Nhiều tuyến đường, khu dân cư, công viên ngập sâu, khiến hàng trăm hộ dân chịu tác động. Hơn 4.200 ha cây ăn quả, lúa, hoa màu bị ngập. Vĩnh Long cũng mất trắng trên 3.000 ha. Sơ bộ lũ và triều cường miền Tây năm nay ước gây thiệt hại khoảng 100 tỷ đồng.


Lũ gây ngập gần 40 ha vườn cây ăn quả cùng 200 nhà dân xã Vĩnh Châu (thuộc huyện Tân Hưng, Long An cũ là vùng thượng nguồn) hồi cuối tháng 10. Ảnh: Hoàng Nam
Thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện, chuyên gia nghiên cứu độc lập về sinh thái Đồng bằng sông Cửu Long, phân tích lũ phụ thuộc lượng mưa thượng nguồn, vốn biến động 15% giữa các năm, thập kỷ chênh lệch đến 30%. Hiện La Nina kéo dài đến tháng 12 khiến mưa nhiều, lũ dâng cao, nhưng mực nước Tân Châu, Châu Đốc vẫn thấp hơn các đợt 2000, 2011.
"Lũ thấp nhưng nhiều nơi vẫn ngập vì khu vực trung tâm đồng bằng mất không gian hấp thụ nước", ông Thiện giải thích.
Theo ông, mỗi năm từ tháng 8 đến 10 âm lịch, nước lũ từ sông Mekong đổ về sông Tiền, sông Hậu. Trước đây, Tứ giác Long Xuyên (An Giang, Kiên Giang, Cần Thơ cũ) và Đồng Tháp Mười (Đồng Tháp, Tiền Giang, Long An cũ) trữ tự nhiên 9,2-10 tỷ m³ nước.
Trong hơn 30 năm, hệ thống đê bao khép kín để làm lúa vụ 3 giảm khả năng trữ nước: Tứ giác Long Xuyên còn 4,7 tỷ m³, Đồng Tháp Mười còn 6,5 tỷ. Trước đây, thủy triều từ biển theo bảy nhánh sông lớn tỏa vào đồng ruộng, giúp điều hòa dòng chảy. Nay hệ thống đê và cống khép kín khiến nước triều bị dồn, chảy thẳng vào trung tâm. Nước từ thượng nguồn cũng không còn chỗ trữ, dồn về hạ lưu.
Khi hai nguồn nước gặp nhau giữa đồng bằng, mực nước trong sông dâng cao. Ruộng vườn đã có đê bao khép kín nên nước không thể thoát, tràn vào đô thị. Ở Cần Thơ, khu Ninh Kiều được bao đê, nước lại dồn sang Bình Thủy. Trong khi vùng giữa đồng bằng ngập sâu, nhiều cánh đồng ven biển trong các khu ngọt hóa vẫn khô ráo.
"Đồng bằng bây giờ như người bị cao huyết áp, mất mạch máu, chỉ còn động mạch chủ", chuyên gia nói, lý giải thêm nước lũ từ trên về ép xuống, thủy triều từ dưới ép lên khiến "động mạch chủ phình".


Sau khi bán căn chòi tạm ở Long An, ông Nguyễn Văn Thạnh về sống trên căn nhà nổi tại xã Bình Thạnh, cách đó khoảng 100 km. Ảnh trái là lão ngư trong chuyến đặt lợp cua sáu năm trước. Ảnh: Hoàng Nam
Thạc sĩ Thiện phân tích, nước lũ từ sông đổ ra biển hàng năm tạo vùng nước mặn vừa phải, giàu phù sa và chất dinh dưỡng, nuôi dưỡng hệ sinh thái ven biển. Sản lượng thủy sản biển Đồng bằng sông Cửu Long vì thế bằng tổng sản lượng vùng khác cả nước.
Phù sa tạo lớp nước đục khoảng 30 km tính từ bờ, bao bọc hơn 700 km bờ biển, bồi đắp đồng bằng ra biển suốt 6.000 năm, trung bình 16 m/năm về phía Đông, 26 m/năm về Mũi Cà Mau. Lớp nước đục nặng hơn nước biển, hấp thu bớt năng lượng sóng; khi ít phù sa, sóng lấy đất cát bờ đi, gây sạt lở.
Lũ cung cấp nước ngọt mùa khô, cân bằng mặn - ngọt vùng ven biển. Khi sông yếu, biển xâm nhập sâu. Phù sa lũ bồi đắp đồng ruộng, vườn tược; thiếu phù sa dẫn tới "nước đói", lấy đất cát, gây sạt lở bờ sông. Dinh dưỡng từ phù sa giảm chi phí canh tác, không phân bón nào thay thế được. Lũ cũng rửa phèn, mầm bệnh và độc chất tích tụ trong đất.
Nước lớn hàng năm còn mang theo trứng cá và cá con. Sản lượng cá trắng Đồng bằng sông Cửu Long ước 220.000-440.000 tấn/năm, là nguồn dinh dưỡng quan trọng cho người dân và hệ sinh thái.
"Lũ gây vỡ đê, ngập nhà, vườn cây, lúa dễ tính toán giá trị kinh tế, nhưng lợi ích của nước lũ rất lớn, song khó thấy, khó quy ra tiền", ông Thiện nhận định.
Những lợi ích ấy chỉ người dân vùng lũ mới cảm nhận rõ. Chiều đầu tháng 11, mưa lớn làm sóng đánh tròng trành căn nhà nổi, vợ chồng ông Sáu phải dùng dây tời neo lại. Sau ba thế hệ rong ruổi nghề cá, thấy cháu học trong căn nhà kiên cố, ông an lòng đôi chút.
Tuổi cao, lại mang bệnh tiểu đường, ông muốn nghỉ ngơi nhưng sau hàng chục mùa "lũ nghèo", cuộc sống vẫn chật vật. Mấy hôm nay, người quen ở Kiên Giang gọi rủ ông đi đặt lú bắt cua, cá biển.
Ông Sáu nói hiện sông đã hết cá, nên phải ra biển - nơi còn nhiều thủy sản - để đánh bắt. Nếu tằn tiện, mỗi năm ông có thể kiếm gần 100 triệu đồng gửi về cho vợ cất căn nhà nhỏ để tuổi già đỡ vất vả.


