Cu dài dái xệ .
Chú bộ đội
Cái nghiệp chung của nước mình còn quá nặng, nên dù đạo lực chuyển nghiệp có mạnh mẽ như sư Minh Tuệ vẫn khó thoát khỏi sự ám hại của những thế lực lợi ích từ triều đình và tăng binh. Số phận của sư Minh Tuệ có thể may mắn hơn giáo chủ Huỳnh Phú Sổ hay sư Minh Đăng Quang là không bị thủ tiêu và mất tích, song, cũng khó tránh khỏi cái cảnh bị giam lỏng dài hạn, hoặc bị buộc phải đi tị nạn để hành đạo ở một quốc gia khác.
Cùng điểm lại những lãnh đạo tôn giáo tử nạn trong lịch sử hiện đại việt nam
Huỳnh Phú Sổ (15 tháng 1 năm 1920- 1947) là người sáng lập đạo Phật giáo Hòa Hảo.

Ngày 18 tháng 5 năm Kỷ Mão (4 tháng 7 năm 1939), Huỳnh Phú Sổ đứng ra cử hành lễ "Đền linh Khứu Sơn trung thọ mạng" khai đạo, lấy tên là Phật giáo Hòa Hảo, đó vừa là tên quê hương ông vừa có ý nghĩa là "hiếu hòa" và "giao hảo", lại mang một hàm nghĩa là đạo Phật ở làng Hòa Hảo. Từ đó, ông đi chữa bệnh, tiên tri, thuyết pháp và sáng tác thơ văn, kệ giảng. Văn chương của ông bình dân nên dễ đi vào lòng người. Chỉ trong một thời gian ngắn số tín đồ và ảnh hưởng của ông càng ngày càng gia tăng và trở thành một phong trào tín ngưỡng mạnh mẽ khiến Thực dân Pháp lo ngại
Cuối năm 1946 đầu 1947, Pháp đã trở lại tái chiến Việt Nam, các tổ chức trong nước trước đây liên minh chống Pháp, thì nay bắt đầu có sự mâu thuận dẫn đến phân rã, kể từ sự hợp tác giữa Việt Minh và Hoà Hảo, không còn hoà thuận như trước nữa, mà là những cuộc đụng độ giữa các đơn vị quân sự đôi bên. Trong tình hình như vậy, Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ, với tư cách là uỷ viên đặc biệt của uỷ Ban hành chánh Nam Bộ và là người lãnh đạo cao nhất của Hoà Hảo, đã về miền Tây theo thư mời của ông Trần Văn Nguyên, thanh tra Quân Khu 8 miền Tây để cùng tìm cách giải quyết xung đột giữa Hoà Hảo và Việt Minh.
Chuyến đi là lần cuối cùng người ta biết đến sự tồn tại của Huỳnh giáo chủ, ông mất tích bí ẩn .Mọi suy đoán điều chĩa hướng về việt minh , bên mời , và họ vẫn im lặng đến giờ
Search wiki lý lịch giáo chủ thì phần mất tích hay chết ko nhắc một chữ , rất khiêm cưỡng
Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp

Diệp (1 tháng 1 năm 1897 – 12 tháng 3 năm 1946), thường được gọi là Cha Diệp, là một linh mục Công giáo người Việt Nam. Trong tiến trình tôn phong thánh của Giáo hội Công giáo, ông hiện đang ở bậc Tôi tớ Chúa
Sinh vào đầu năm 1897 tại An Giang, cậu bé Trương Bửu Diệp nhanh chóng theo con đường tu trì vào năm 1909, khi cậu được 12 tuổi. Trải qua nhiều năm sinh sống và tu học tại Campuchia, chủng sinh Diệp được truyền chức linh mục vào năm 1924. Thời kỳ linh mục, linh mục Diệp đảm nhận lần lượt các vai trò linh mục phó Hố Trư, Giáo sư Tiểu chủng viện Cù Lao Giêng và chính xứ Tắc Sậy. Ông cũng là người thiết lập các họ đạo nhỏ lẻ khác trong vùng.
Thi thể cố linh mục Trương Bửu Diệp được tìm thấy trong tình trạng lõa thể tại ao của ông giáo Sự. Một vết chém sau gáy ở vị trí ngang với mang tai được phát hiện.
Đến nay, thông tin về vụ bắt và giết linh mục Trương Bửu Diệp là không thống nhất. Trang mạng của Hội đồng Giám mục Việt Nam cho rằng vào ngày 12 tháng 3 năm 1946, Linh mục Trương Bửu Diệp bị quân lính Nhật bắt cùng với trên 70 giáo dân tại giáo xứ Tắc Sậy, bị lùa đi và nhốt chung với các giáo dân khác tại lẫm lúa của ông giáo Sự ở Cây Gừa
. Cũng theo những lời kể ủng hộ quan điểm này thì họ chất rơm chung quanh tính đốt tất cả, nhưng Linh mục Diệp đứng ra tranh đấu cho dân, đồng thời an ủi những người cùng bị giam giữ. Ông đã cố gắng để cứu giáo dân của mình và bị sát hại.
Cụ thể, trong lần đến làm việc lần thứ ba, linh mục Diệp không trở về nơi giam giữ.Theo Đình Quý viết trên trang báo Công giáo và Dân tộc, con số giáo dân bị bắt cùng là trên 100 người, và sau khi linh mục Diệp qua đời, họ đã được trả tự do và tiến hành tản cư ngay trong đêm. Theo bảng tóm tắt tiểu sử Trương Bửu Diệp hiện dựng tại nhà an nghỉ thì ông bị bắt và thủ tiêu "vì sự tranh chấp giữa các phe phái" nhưng không nêu rõ các phe phái nào.
Hiện tại có các luồng ý kiến cho rằng: hoặc quân Việt Minh,hoặc hai người lính Nhật, sau khi phát xít Nhật đầu hàng đầu quân cho quân Cao Đài. hoặc do chính quân Nhật. Bản tiểu sử do linh mục Lê Ngọc Tỏ biên soạn, công bố trên trang tin Công giáo VietCatholic News lưu ý chi tiết linh mục Trương Bửu Diệp bị sát hại do tranh chấp "Bản tiểu sử chính thức trên trang Trương Bửu Diệp Foundation không ghi nhận phe phái đã sát hại linh mục Diệp.
Theo linh mục Nguyễn Văn Thư qua lời kể của nhân chứng Ngô Minh Quang, cố linh mục Diệp bị chém hai nhát ở vùng đầu: một ở phía trên sọ và một phía sau gáy, nhưng đầu của ông không đứt lìa khỏi thân xác. Việc tìm thấy thi thể được do rằng do chính cố linh mục "báo mộng", cũng như thân xác trong tư thế chắp tay cùng vẻ mặt bình thản. Thi thể sau đó được các chức sắc đưa về chôn cất tạm tại họ đạo Khúc Tréo, vì hộ gia đình ông Sự thuộc về họ đạo này, cũng như giữ bí mật tốt hơn việc đưa về họ đạo Tắc Sậy
Minh Đăng Quang (sinh năm 1923 – mất tích năm 1954) là một tu sĩ Phật giáo và là người khai sơn hệ phái Đạo Phật Khất sĩ Việt Nam.
s
Nguyên thế danh Sư là Nguyễn Thành Đạt, tự Lý Huờn, sinh lúc 10 giờ đêm ngày 26 tháng Chín năm Quý Hợi (tức 4 tháng 11 năm 1923) tại làng Phú Hậu, tổng Bình Phú, quận Tam Bình (nay thuộc huyện Tam Bình) tỉnh Vĩnh Long; là con út trong một gia đình có năm người con. Song thân của Sư là ông Nguyễn Tồn Hiếu và bà Phạm Thị Tỵ.
Mười tháng sau khi sinh ra Sư, ngày 25 tháng Bảy năm Giáp Tý (1924), mẹ lâm bệnh nặng và qua đời, hưởng dương 32 tuổi . Từ đó, Sư được phụ thân và mẹ kế Hà Thị Song nuôi dưỡng cho đến lúc trưởng thành.
Có tiếng thông minh, lại chăm chỉ, việc học hành của Sư mỗi năm mỗi tiến phát. Ngoài giờ học tập ở trường, giúp việc nhà, Sư còn tìm tòi học hỏi về Tam giáo. Năm 15 tuổi, Sư xin phép cha qua Nam Vang để tầm sư học đạo. Tại đây, Sư thụ giáo với một tu sĩ người Khmer lai Việt để nghiên cứu kinh tạng và đường lối y bát chân truyền của Phật Tăng xưa Khoảng 3 năm sau, cuối năm 1941, Sư về lại Sài Gòn, vâng lời cha lập gia đình năm 1942. Tuy nhiên, chỉ một năm sau, thì vợ (tên Kim Huê, người Chợ Lớn, không rõ họ) và con nhỏ của Sư đều lâm bệnh rồi lần lượt qua đời.
Cám cảnh vô thường, Sư quyết chí đi tu. Đầu tiên Sư đến Hà Tiên định lần qua Phú Quốc, rồi sau đó sẽ đi nước ngoài học đạo. Nhưng khi vừa đến nơi thì đã trễ tàu, Sư ra đầu gành bãi biển Mũi Nai (Hà Tiên) ngồi tham thiền 7 ngày đêm. Trước cảnh trời nước bao la biến đổi khôn lường, cộng với nỗi đau riêng (mẹ và vợ con đều mất sớm)...vào một buổi chiều, Sư ngộ được lý vô thường, vô ngã, khổ vui của cuộc đời,...và ngộ được lý pháp "thuyền Bát Nhã ngược dòng đời cứu độ chúng sinh".
Sau khi ngộ đạo, Sư lên vùng Thất Sơn (An Giang) để tiếp tục tu tập
Ít lâu sau, chiến tranh lan tới vùng núi rừng Thất Sơn, phá tan cảnh yên tĩnh thường có. Trong bối cảnh ấy, Sư gặp được một nam tín đồ và theo vị này về trú ở Linh Bửu Tự, thuộc làng Phú Mỹ, tỉnh Mỹ Tho. Nơi đây, suốt ba năm (1944 - 1947), thường thì buổi sáng Sư đi khất thực, đến trưa thì thọ trai, buổi chiều giáo hóa, buổi tối tham thiền nhập định, nêu gương về đời sống phạm hạnh thanh tịnh, y theo truyền thống của Phật Tăng thời chính pháp
Đầu năm 1947, Sư rời chùa để đi giáo hóa khắp Nam Bộ, và các vùng miền khác như Tây Ninh, Bình Dương, Bà Rịa, Vũng Tàu, v.v... Sau 8 năm tiếp độ tăng chúng, vào ngày 1 tháng Hai năm Giáp Ngọ (1954), Sư rời Tịnh xá Ngọc Quang đi với một vị sư già và một chú tiểu qua Tịnh xá Ngọc Viên (Vĩnh Long), rồi qua tiếp Cần Thơ. Nhưng khi đến Cái Vồn (Bình Minh, Vĩnh Long) thì Sư bị một số người bắt đi mất tích cho đến nay
Cùng điểm lại những lãnh đạo tôn giáo tử nạn trong lịch sử hiện đại việt nam
Huỳnh Phú Sổ (15 tháng 1 năm 1920- 1947) là người sáng lập đạo Phật giáo Hòa Hảo.

Ngày 18 tháng 5 năm Kỷ Mão (4 tháng 7 năm 1939), Huỳnh Phú Sổ đứng ra cử hành lễ "Đền linh Khứu Sơn trung thọ mạng" khai đạo, lấy tên là Phật giáo Hòa Hảo, đó vừa là tên quê hương ông vừa có ý nghĩa là "hiếu hòa" và "giao hảo", lại mang một hàm nghĩa là đạo Phật ở làng Hòa Hảo. Từ đó, ông đi chữa bệnh, tiên tri, thuyết pháp và sáng tác thơ văn, kệ giảng. Văn chương của ông bình dân nên dễ đi vào lòng người. Chỉ trong một thời gian ngắn số tín đồ và ảnh hưởng của ông càng ngày càng gia tăng và trở thành một phong trào tín ngưỡng mạnh mẽ khiến Thực dân Pháp lo ngại
Cuối năm 1946 đầu 1947, Pháp đã trở lại tái chiến Việt Nam, các tổ chức trong nước trước đây liên minh chống Pháp, thì nay bắt đầu có sự mâu thuận dẫn đến phân rã, kể từ sự hợp tác giữa Việt Minh và Hoà Hảo, không còn hoà thuận như trước nữa, mà là những cuộc đụng độ giữa các đơn vị quân sự đôi bên. Trong tình hình như vậy, Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ, với tư cách là uỷ viên đặc biệt của uỷ Ban hành chánh Nam Bộ và là người lãnh đạo cao nhất của Hoà Hảo, đã về miền Tây theo thư mời của ông Trần Văn Nguyên, thanh tra Quân Khu 8 miền Tây để cùng tìm cách giải quyết xung đột giữa Hoà Hảo và Việt Minh.
Chuyến đi là lần cuối cùng người ta biết đến sự tồn tại của Huỳnh giáo chủ, ông mất tích bí ẩn .Mọi suy đoán điều chĩa hướng về việt minh , bên mời , và họ vẫn im lặng đến giờ
Search wiki lý lịch giáo chủ thì phần mất tích hay chết ko nhắc một chữ , rất khiêm cưỡng
Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp

Diệp (1 tháng 1 năm 1897 – 12 tháng 3 năm 1946), thường được gọi là Cha Diệp, là một linh mục Công giáo người Việt Nam. Trong tiến trình tôn phong thánh của Giáo hội Công giáo, ông hiện đang ở bậc Tôi tớ Chúa
Sinh vào đầu năm 1897 tại An Giang, cậu bé Trương Bửu Diệp nhanh chóng theo con đường tu trì vào năm 1909, khi cậu được 12 tuổi. Trải qua nhiều năm sinh sống và tu học tại Campuchia, chủng sinh Diệp được truyền chức linh mục vào năm 1924. Thời kỳ linh mục, linh mục Diệp đảm nhận lần lượt các vai trò linh mục phó Hố Trư, Giáo sư Tiểu chủng viện Cù Lao Giêng và chính xứ Tắc Sậy. Ông cũng là người thiết lập các họ đạo nhỏ lẻ khác trong vùng.
Thi thể cố linh mục Trương Bửu Diệp được tìm thấy trong tình trạng lõa thể tại ao của ông giáo Sự. Một vết chém sau gáy ở vị trí ngang với mang tai được phát hiện.
Đến nay, thông tin về vụ bắt và giết linh mục Trương Bửu Diệp là không thống nhất. Trang mạng của Hội đồng Giám mục Việt Nam cho rằng vào ngày 12 tháng 3 năm 1946, Linh mục Trương Bửu Diệp bị quân lính Nhật bắt cùng với trên 70 giáo dân tại giáo xứ Tắc Sậy, bị lùa đi và nhốt chung với các giáo dân khác tại lẫm lúa của ông giáo Sự ở Cây Gừa
. Cũng theo những lời kể ủng hộ quan điểm này thì họ chất rơm chung quanh tính đốt tất cả, nhưng Linh mục Diệp đứng ra tranh đấu cho dân, đồng thời an ủi những người cùng bị giam giữ. Ông đã cố gắng để cứu giáo dân của mình và bị sát hại.
Cụ thể, trong lần đến làm việc lần thứ ba, linh mục Diệp không trở về nơi giam giữ.Theo Đình Quý viết trên trang báo Công giáo và Dân tộc, con số giáo dân bị bắt cùng là trên 100 người, và sau khi linh mục Diệp qua đời, họ đã được trả tự do và tiến hành tản cư ngay trong đêm. Theo bảng tóm tắt tiểu sử Trương Bửu Diệp hiện dựng tại nhà an nghỉ thì ông bị bắt và thủ tiêu "vì sự tranh chấp giữa các phe phái" nhưng không nêu rõ các phe phái nào.
Hiện tại có các luồng ý kiến cho rằng: hoặc quân Việt Minh,hoặc hai người lính Nhật, sau khi phát xít Nhật đầu hàng đầu quân cho quân Cao Đài. hoặc do chính quân Nhật. Bản tiểu sử do linh mục Lê Ngọc Tỏ biên soạn, công bố trên trang tin Công giáo VietCatholic News lưu ý chi tiết linh mục Trương Bửu Diệp bị sát hại do tranh chấp "Bản tiểu sử chính thức trên trang Trương Bửu Diệp Foundation không ghi nhận phe phái đã sát hại linh mục Diệp.
Theo linh mục Nguyễn Văn Thư qua lời kể của nhân chứng Ngô Minh Quang, cố linh mục Diệp bị chém hai nhát ở vùng đầu: một ở phía trên sọ và một phía sau gáy, nhưng đầu của ông không đứt lìa khỏi thân xác. Việc tìm thấy thi thể được do rằng do chính cố linh mục "báo mộng", cũng như thân xác trong tư thế chắp tay cùng vẻ mặt bình thản. Thi thể sau đó được các chức sắc đưa về chôn cất tạm tại họ đạo Khúc Tréo, vì hộ gia đình ông Sự thuộc về họ đạo này, cũng như giữ bí mật tốt hơn việc đưa về họ đạo Tắc Sậy
Minh Đăng Quang (sinh năm 1923 – mất tích năm 1954) là một tu sĩ Phật giáo và là người khai sơn hệ phái Đạo Phật Khất sĩ Việt Nam.

Nguyên thế danh Sư là Nguyễn Thành Đạt, tự Lý Huờn, sinh lúc 10 giờ đêm ngày 26 tháng Chín năm Quý Hợi (tức 4 tháng 11 năm 1923) tại làng Phú Hậu, tổng Bình Phú, quận Tam Bình (nay thuộc huyện Tam Bình) tỉnh Vĩnh Long; là con út trong một gia đình có năm người con. Song thân của Sư là ông Nguyễn Tồn Hiếu và bà Phạm Thị Tỵ.
Mười tháng sau khi sinh ra Sư, ngày 25 tháng Bảy năm Giáp Tý (1924), mẹ lâm bệnh nặng và qua đời, hưởng dương 32 tuổi . Từ đó, Sư được phụ thân và mẹ kế Hà Thị Song nuôi dưỡng cho đến lúc trưởng thành.
Có tiếng thông minh, lại chăm chỉ, việc học hành của Sư mỗi năm mỗi tiến phát. Ngoài giờ học tập ở trường, giúp việc nhà, Sư còn tìm tòi học hỏi về Tam giáo. Năm 15 tuổi, Sư xin phép cha qua Nam Vang để tầm sư học đạo. Tại đây, Sư thụ giáo với một tu sĩ người Khmer lai Việt để nghiên cứu kinh tạng và đường lối y bát chân truyền của Phật Tăng xưa Khoảng 3 năm sau, cuối năm 1941, Sư về lại Sài Gòn, vâng lời cha lập gia đình năm 1942. Tuy nhiên, chỉ một năm sau, thì vợ (tên Kim Huê, người Chợ Lớn, không rõ họ) và con nhỏ của Sư đều lâm bệnh rồi lần lượt qua đời.
Cám cảnh vô thường, Sư quyết chí đi tu. Đầu tiên Sư đến Hà Tiên định lần qua Phú Quốc, rồi sau đó sẽ đi nước ngoài học đạo. Nhưng khi vừa đến nơi thì đã trễ tàu, Sư ra đầu gành bãi biển Mũi Nai (Hà Tiên) ngồi tham thiền 7 ngày đêm. Trước cảnh trời nước bao la biến đổi khôn lường, cộng với nỗi đau riêng (mẹ và vợ con đều mất sớm)...vào một buổi chiều, Sư ngộ được lý vô thường, vô ngã, khổ vui của cuộc đời,...và ngộ được lý pháp "thuyền Bát Nhã ngược dòng đời cứu độ chúng sinh".
Sau khi ngộ đạo, Sư lên vùng Thất Sơn (An Giang) để tiếp tục tu tập
Ít lâu sau, chiến tranh lan tới vùng núi rừng Thất Sơn, phá tan cảnh yên tĩnh thường có. Trong bối cảnh ấy, Sư gặp được một nam tín đồ và theo vị này về trú ở Linh Bửu Tự, thuộc làng Phú Mỹ, tỉnh Mỹ Tho. Nơi đây, suốt ba năm (1944 - 1947), thường thì buổi sáng Sư đi khất thực, đến trưa thì thọ trai, buổi chiều giáo hóa, buổi tối tham thiền nhập định, nêu gương về đời sống phạm hạnh thanh tịnh, y theo truyền thống của Phật Tăng thời chính pháp
Đầu năm 1947, Sư rời chùa để đi giáo hóa khắp Nam Bộ, và các vùng miền khác như Tây Ninh, Bình Dương, Bà Rịa, Vũng Tàu, v.v... Sau 8 năm tiếp độ tăng chúng, vào ngày 1 tháng Hai năm Giáp Ngọ (1954), Sư rời Tịnh xá Ngọc Quang đi với một vị sư già và một chú tiểu qua Tịnh xá Ngọc Viên (Vĩnh Long), rồi qua tiếp Cần Thơ. Nhưng khi đến Cái Vồn (Bình Minh, Vĩnh Long) thì Sư bị một số người bắt đi mất tích cho đến nay