Đạo lý Thiền Vipassana - Tứ Niệm Xứ

Giới thiệu pháp môn Thiền Vipassana - Tứ Niệm Xứ


Phân biệt giữa Thiền Chỉ Tịnh (Samatha hay còn gọi là Thiền Chỉ) và Thiền Minh Sát (Vipassana hay còn gọi là Thiền Quán)

T không phải thiền sư nên chỉ biết một số giáo lý căn bản về thiền. Tôi xin phép giới thiệu sơ lược và khái quát định nghĩa và các loại Thiền trong Phật Giáo.

1.Trước tiên nên định nghĩa về Thiền. Chứ không biết thiền là gì thì sao mà hành thiền.

1. Thiền hay còn nguyên văn là Thiền na ( do Tàu phiên âm của Ấn). Từ gốc của nó theo tiếng Pali là jhāna dịch nôm na là “đốt cháy”. Cần phải định nghĩa rõ để hiểu thế nào là thiền để có thể thực hành được.

=> Hành thiền là để đốt cháy và bào mòn phiền não ( tham, sân, si, ái, mạn, kiến, nghi, ganh tỵ, hận thù, tị hiềm, hối hận, bủn xỉn, tật đố, trạo cử, hôn thuỵ …)

=> 4 đại oai nghi khi hành thiền : Đi - Đứng - Nằm - Ngồi ( Hán dịch là thiền hành - thiền trụ - thiền ngoạ - thiền toạ).

Ngồi thiền chỉ là 1 trong 4 oai nghi. Điều quan trọng là chú tâm và quan sát đề mục.

Thiền không phải là xếp bằng ngồi lim dim để đầu rảnh rang hay nghĩ bậy bạ.
Suy nghĩ lung tung nhớ về quá khứ nắm tay nàng hay vọng về tương lai 2 ta sánh đôi. Tất cả là tập trung và ghi nhận về đề mục hiện tại !


Cái đó là Thiền mông cổ ( giữ cái mông cho vững và cái cổ cho thẳng) mà không hề có 1 tác dụng nào cho hành giả. Vì vậy một người không có chút giáo lý không thể hành thiền được chứ đừng nói hành thiền đúng.

2. Trong Phật giáo có 2 loại thiền là Thiền Chỉ và Thiền Quán.

Ngoài 2 cái này ra là bậy bạ tà đạo.

- Các loại thiền trong Phật giáo - Những loại thiền không phải Phật giáo : thiền trà, thiền ca, thiền ôm, thiền nắm tay, thiền chăm cây, thiền điện chạy tùm lum trong người, thiền não bộ, thiền luân xa, thiền xuất hồn ... là ngoại đạo vì chỉ làm tăng thêm phiền nào chứ không hề bào mòn xíu nào.

=> Bất cứ cái nào ngoài Chỉ và Quán ra đều không phải là thiền ( bào mòn phiền não) mà chỉ làm ta thêm phiền nào mà thôi.

- Sau đây là định nghĩa sơ lược về Chỉ và Quán

Thiền Chỉ (Samatha) :
dùng để tu định và đắc định. Nếu đủ duyên thì chứng các tầng thiền. Có được thần thông nếu tu đúng ( ngũ thông trừ cái lậu tận thông). Thiền Chỉ trong PG chỉ có được tu tập để trợ duyên dễ dàng để chuyển qua Thiền Quán do năng lực đè nén 5 triền cái.

Khi hành loại thiền này hành giả chỉ chú tâm vào đề mục mà thôi. Đủ duyên thì chứng thiền và có tâm thiền. Nếu giữ được tâm thiền cho đến lúc chết chắc chắn sẽ sinh về cõi Phạm Thiên ( do đã đè nén 5 triền) nên nhàm chán 5 dục.

Loại thiền này có trước cả giáo pháp của Phật Gotama nên không phải là Phật tử vẫn tu bình thường.

Tiếp theo là pháp môn Thiền Vipassana - Chủ đề chính trong topic này !

Thiền Quán ( Vipassana ) : là loại chỉ có trong giáo pháp của 1 vị Chánh Đẳng Giác. Dùng để đoạn tận các phiền não một cách rốt ráo chứ không đơn thuần là đè nén. Một người có lí tưởng giải thoát đúng đắn thì bắt buộc phải tu Quán, thiền Chỉ chỉ là dùng để tu Quán dễ hơn.

Vipassana là một kỹ thuật đơn giản, thiết thực nhằm đạt đến sự bình tâm thực sự và xây dựng một cuộc sống hạnh phúc, hữu ích. Vipassana có nghĩa là “thấy mọi thứ như nó đang là”. Đó là một tiến trình khách quan của sự thanh lọc tâm thông qua quan sát.

Tức là 4 niệm xứ quán thân - thọ - tâm - pháp.

Nghĩa là làm gì biết đó


Thiền Quán thì dựa vào việc quán chiếu danh sắc để thấy rõ thực tánh tam tướng ( khổ - vô thường - vô ngã).

Hành giả sẽ chứng đạo khi thấy được 1 trong 3 tam tướng. Tuy 3 thằng này là 1 nhưng khi chứng thì tuỳ vào căn cơ sẽ thấy cái nào.

Tất nhiên là vẫn có đề mục như thiền quán nhưng không cần Định mạnh như vậy mà Niệm lại đóng vai trò quan trọng nhất. Khi Niệm có mặt thì Tuệ có mặt. Cụm từ Chánh Niệm ( niệm ) và Tỉnh Giác ( tuệ ) luôn được đề cập xuyên suốt trong Kinh Điển Pali.


3. T đã định nghĩa sơ về thế nào là thiền. Việc còn lại thì phải lựa cho mình 1 cái đề mục để tu tuỳ thuộc vào căn tánh hành giả.

Tài liệu để tu Chỉ và Quán ( search google) :


- Thanh Tịnh Đạo ( ghi rất rõ về các đề mục và khái quát về căn tánh hành giả. Tìm sách của Tỳ Khưu Khánh Hỷ dịch để dễ đọc vì đã được làm mềm hơn so với nguyên tác của luận sư Buddhaghosa).

- Kinh Đại Niệm Xứ ( nên tìm sách của thiền sư U Silananda để đọc vì diễn giải rất kĩ để thực hành và làm mềm đi rất nhiều về nội dung so với kinh tạng)

- Kinh và Chú giải Đại Niệm Xứ của Ngài Maha Thera

- Kiến thức A tỳ đàm căn bản để tu dễ hơn ( biết tâm là gì, tâm sở là gì, sắc pháp, triền cái là gì, 37 phẩm là gì, 6 căn, 12 xứ, 18 giới, 12 nhân duyên …. Rất cần cho việc tu thiền Quán). Trên đây t có 1 topic chuyên nói về cái này

Ngoài ra có thể tham khảo và trau dồi kiến thức của 3 tạng Pali để có cái nhìn tổng quan hơn nữa về giáo lý - giúp việc tu tập vững vàng hơn. Vì một thằng đại học dù gì vẫn giải phương trình ngon hơn thằng tiểu học.

Việc hành thiền hiện nay dựa theo lý thuyết và kinh nghiệm của thiền sư. Nhưng đã là kinh nghiệm thì trong đó sẽ có tư kiến. Vì vậy cần phải bám vào giáo lý để tu tập hiệu quả. Từ đó hành giả sẽ có được những kinh nghiệm và trải nghiệm cá nhân.

Nếu được có thể tham gia 1 khoá thiền 7 ngày. Nhưng mà t cũng không rõ ở VN chỗ nào ok. Vì t cũng thấy hướng dẫn ko hay như t đọc sách nữa. Trên thế giới chắc mỗi Miến Điện là đáng để học thiền quá.

Tất cả kinh điển Phật giáo hay pháp môn đều rõ như ban ngày. Không có gì là huyền diệu hay là mật mật tâm linh cả. Đều chi tiết từng bước. Vì vậy phần còn lại là của hành giả. Nếu đủ duyên hay còn gọi là đủ Ba - la - mật hành giả sẽ chứng đạo. Còn không thì gieo duyên cho một kiếp nào đó gặp Phật thì mình tu dễ hơn và là bậc tốc chứng tốc đắc chứ không tu kiểu rị mọ vất vả như bây giờ.

Đôi khi, trong kinh tạng, Đức Phật có đề cập đến hai pháp thiền: (1) thiền an chỉ hay thiền chỉ (samatha-bhavana), và (2) thiền minh quán (vipassana-bhavana) hay thiền quán. Hai pháp Chỉ-Quán nầy cần phải được phát triển đồng đều, bổ túc cho nhau.

Trong Tăng Chi Bộ, Chương Hai Pháp, Đức Phật dạy:

Có hai pháp này, này các Tỳ-khưu, thuộc thành phần minh. Thế nào là hai? Chỉ và Quán. Chỉ được tu tập, sẽ được lợi ích gì? Tâm được tu tập. Tâm được tu tập, sẽ được lợi ích gì? Cái gì thuộc về tham được đoạn tận. Quán được tu tập, sẽ được lợi ích gì? Tuệ được tu tập. Tuệ được tu tập, sẽ được lợi ích gì? Cái gì thuộc vô minh được đoạn tận. Bị tham làm uế nhiễm, này các Tỳ-khưu, tâm không thể giải thoát. Hay bị vô minh làm uế nhiễm, tuệ không được tu tập. Vì vậy, do ly tham, là tâm giải thoát. Do đoạn vô minh, là tuệ giải thoát.

Trong kinh Kimsuka, Tương Ưng Bộ, Thiên Sáu Xứ, Ngài có ví dụ pháp tu Chỉ-Quán như là hai vị thiên sứ cùng đến báo cáo cho vị chủ một ngôi thành ở vùng biên giới về tình trạng an ninh, bảo vệ phòng chống quân địch. Vị chủ thành đó là Tâm Thức của chúng ta, và địch quân ở đây là các phiền não lậu hoặc. Người giữ cửa thành là Niệm, và thành có sáu cửa là sáu căn. Như thế, ta dùng Niệm để canh giữ sáu căn, và nhờ có tu tập thiền Chỉ-Quán mà ta có thể ngăn chận và phòng chống được các phiền não do lậu hoặc mang đến.


Lâu nay chữ Thiền là một trong vài thuật ngữ Phật học được sử dụng rộng rãi và cũng có phần bừa bãi nhất ở cả những người trong và ngoài Phật Giáo. Trong sách này, có lẽ ta nên tìm lại định nghĩa nguyên thủy nhất của từ nầy. Một cách chính xác, ngắn gọn và cần thiết nhất, chữ Thiền trong kinh điển Pali chỉ gồm trong hai trường hợp sau:

-Theo tinh thần giáo lý Tam Học của Phật giáo nguyên thủy, bên cạnh một đời sống thanh tịnh trên ngôn từ và sinh hoạt tức Giới Học, người hành đạo giải thoát dứt khoát phải có được khả năng tập trung tư tưởng tức Định học, gọi tắt là Samatha (Chỉ), gọi đủ là Àrammanùpanijjhàna hay Thiền Tập Chú Cảnh Đề Mục, tức khả năng tập trung tư tưởng vào một đề mục nào đó.

- Từ nền tảng Định học, với Àrammanùpanijjhàna trên đây, hành giả dùng sức định tâm của mình để quan sát thân tâm xem chúng là gì và đang ra sao.

- Phải thấy thân tâm, thiện ác, buồn vui thật ra là gì thì hành giả mới có thể chán sợ và lìa bỏ sinh tử được. Công phu này được gọi là Lakkhanùpanijjhàna hay Thiền Quán Chiếu Bản Tướng Vạn Hữu. Công phu này chính là Tuệ Học trong Tam Học, cũng được gọi là pháp môn Vipassanà.

Hơn hai ngàn năm lưu truyền ở đời, giáo pháp của của đức Thích Tôn qua những bước đường du nhập và kế thừa ở các miền đất thỉnh thoảng có thêm những kiểu diễn dịch trình bày mà ít nhiều phảng phất dấu ấn cá nhân của những người hoằng đạo. Ta người đời sau học để biết thêm những cái riêng tư ấy, thấy tâm đắc thì theo và dĩ nhiên thấy bất phục thì tránh.

Nội dung sách này là một tập đại thành những kinh nghiệm riêng tư của các thiền sư Myanmar dựa trên cái chung là kinh điển Pali mà chúng tôi đúc kết lại từ các nguồn tài liệu tiếng Anh trên cả Internet và sách in (vào Google thì biết ngay).

Đó là những kinh nghiệm có được từ công phu hành trì của các hành giả thực thụ chứ không phải những lý luận suy diễn của các học giả mọt sách. Hai thứ này khác nhau nhiều lắm, vì một bên là ngắm nhìn ảnh chụp và một bên là sờ chạm trực tiếp.
Chúng tôi đọc nguyên tác và viết lại nội dung, không phải phiên dịch, chỉ vì lâu nay vẫn thấy thoải mái với lối chuyển ngữ này hơn. Ai muốn kê cứu gì ấy thì chỉ cần một Smartphone cũng đủ.

Các truyền thống Vipassanà được nhắc đến trong sách không hẳn là những dòng thiền lừng lẫy nhưng ít nhất cũng là những địa chỉ được nhiều người tu học trong và ngoài Myanmar biết đến hoặc quan tâm. Người Việt có lòng cầu thị Phật pháp ở Miến Điện có lẽ ít nhiều cũng nên có chút khái niệm về bối cảnh kiến giải của xứ sở nầy trước khi bỏ công qua đó xếp bằng nhắm mắt.

Nói đến kinh nghiệm Tuệ Quán Myanmar là xem như đang chạm vào khu rừng thiêng mấy nghìn năm phong kín của một xứ sở Phật giáo mà cả chiều dài lịch sử lẫn chiều dày truyền thừa đều đáng nể, đôi ba trăm trang kể chuyện về nhau thì có bỏ bèn thấm tháp vào đâu. Đó chính là lý do tập sách này có ít nhất hai quyển, tổng chi non nghìn trang. Sự nhiệt tình đón đọc của quý độc giả dành cho tập 1 sẽ giúp tập 2 sớm được chào đời.

Niềm mong mỏi lớn nhất của chúng tôi chỉ đơn giản là bà con Phật tử người Việt có cái giắt lưng khi vừa đặt chân lần đầu trên đất Myanmar. Khi đã biết mình sẽ về đâu, làm gì, với ai thì tập sách này khi ấy chỉ là của thừa

Kinh Nghiệm Tuệ Quán

Tóm lại, Thiền định là một pháp môn tu tập cần thiết của người con Phật. Thiền định giúp tạo một khả năng bền vững để có đời sống thiện, hướng thiện, và cứu cánh là thiện. Thiền có thể được xem là một tiến trình huân tập về cảm thọ, nuôi dưỡng các cảm thọ tốt đẹp như hỷ, lạc, xả, và từ bỏ các cảm thọ không tốt đẹp, như khổ, ưu.

Đây là một sự giáo dục tâm lý, đoạn tận các tâm lý không tốt đẹp như năm triền cái vốn bắt nguồn từ tham sân si, và thay thế bởi những tâm lý tốt đẹp là năm thiền chi, có căn bản là không tham, không sân, và không si. Thiền định là một giai đoạn tiếp theo việc vun bồi Giới đức, và là nền tảng để bước vào giai đoạn kế là phát triển Tuệ giác.
 
Sửa lần cuối:
Có thể là hình vẽ ngẫu hứng về bản đồ và văn bản cho biết 'SレY 9方 Tuổi thơ sợ lạc hẻm nhà Lớn lên sợ lạc sân ga, phi trường Trầm luân là một đại dương Chưa nghe ai sợ lạc đường tử sinh. Toại Khanh'
 
THIỀN "PHỒNG XẸP" ĐƯỢC ĐẠI TRƯỞNG LÃO THIỀN SƯ PA-AUK TAWYA SAYADAW PHÂN TÍCH VÀ GIẢI THÍCH THEO KINH ĐIỂN PāḷI .

Câu hỏi về chủ đề này được đặt ra trong buổi thuyết pháp của ngài tại Hà Nội cũng như tại Đà Lạt tháng 5/2014 như sau:
“Thay vì quan sát (hơi thở tại) vùng đầu chóp mũi và môi trên thì quan sát (sự phồng xẹp) ở bụng có được không ?”
Trả lời:
Nếu quí vị muốn nói đến việc quan sát phồng xẹp ở bụng, tôi xin hỏi quí vị việc quan sát phồng xẹp ở bụng là đề mục thiền nào trong số tất cả bốn mươi đề mục thiền mà Đức Phật đã chỉ dạy(trong Tam Tạng Kinh Điển)?
Lúc đầu, người ta cho rằng việc quan sát phồng xẹp ở bụng chính là niệm hơi thở ( ān∙āpāna). Tuy nhiên, Trong Thanh Tịnh Đạo (VsM.viii.223), ‘Luận về Niệm Hơi Thở’ (Ān∙Āpāna∙Ssati∙Kathā) đã trích dẫn lời giải thích của ngài Xá Lợi Phất trong ‘Phân Tích Đạo’ về vấn đề này như sau:
“Phuṭṭha∙phuṭṭh∙okāse pana satiṃ thapetvā bhāventass∙eva bhāvanā sampajjati.”
[ Nhưng thiền tập của vị ấy thành tựu (bhāvanā sampajjati) chỉ khi sự tu tập (hơi thở) của vị ấy được cố định với niệm (satiṃ ṭhapetvā) trên sự xúc chạm (phuṭṭha) ngay tại điểm xúc chạm (phuṭṭh∙okāse)].
Vì vậy nếu hành giả muốn thực hành niệm hơi thở (Ān∙Āpāna∙Sati) hành giả cần phải đặt niệm trên hơi thở chỉ ngay tại điểm xúc chạm. Điểm xúc chạm ở đây chính là đầu chóp mũi hay môi trên. Ngay tại vị trí đầu chóp mũi hay môi trên ấy, nếu hành giả quan sát được đối tượng hơi thở ra vào (tại vị trí ấy), vị ấy có thể tiến đạt bậc thiền hơi thở (ān∙āpāna jhāna).
Bụng đâu phải điểm xúc chạm! Vì vậy việc quan sát phồng xẹp tại bụng không phải niệm hơi thở!
Nhưng về sau, người ta lập luận rằng, việc quan sát sự chuyển động phồng xẹp ở bụng chính là thiền niệm tứ đại. Nhưng Đức Phật luôn dạy việc quan sát “Bốn” đại trong thiền tứ đại, chứ không phải “nhất” đại. Cũng vậy khi quan sát sự chuyển động của bụng , họ cho rằng đó là đặc tính của phong đại (vāyo∙dhātū). Tuy nhiên, đặc tánh của phong đại thật sự là đẩy (+ hỗ trợ hay nâng đỡ) chứ không phải chỉ là sự chuyển động (của bụng).
Như vậy, khi nào hành giả quan sát đặc tính đẩy thì mới được xem là ghi nhận đặc tánh của phong đại. Nhưng để ghi nhận đặc tính đẩy của gió, hành giả không phải chỉ chú tâm tại vùng bụng mà thôi, hành giả còn phải chú tâm ghi nhận đặc tính này trong khắp toàn thân . Sau khi phân biệt được đặc tính đẩy ( cũng như nâng đỡ) của phong đại trong khắp toàn thân, hành giả cần phải chuyển sang phân biệt đặc tính khác nữa (của các đại còn lại). Bởi vì , Đức Phật chỉ dạy thiền Tứ Đại trên đặc tính của bốn đại chủng chứ không phải 1 đại chủng, thiền tứ đại mang ý nghĩa là việc quan sát đặc tính của bốn đại chứ không phải chỉ 1 đại là được. Đây cũng là lý do, nếu hành giả muốn hành thiền tứ đại đúng theo sự chỉ dẫn trong Bộ Pháp Tụ (Dhamma∙Saṅgaṇī), vị ấy cần hiểu rõ về tứ đại.
Thế nào là Tứ Đại ?
(1) Địa đại (pathavī∙dhātu).
(2) Thủy đại (āpo∙dhātu),
(3) Hỏa đại (tejo∙dhātu)
(4) Phong đại (vāyo∙dhātū)
Đức Phật chỉ dạy thiền “tứ” đại chứ không phải thiền “nhất” đại.
Vì vậy khi phân tích:
+ Đặc tính của Địa đại gồm: 1) Cứng, 2)Thô (nhám) , 3) Nặng, 4) Mềm, 5) Mịn, 6) Nhẹ.
+ Đặc tính của Thủy đại : 1) Chảy, 2) Kết dính.
+ Đặc tính của Hỏa đại: 1) Nóng, 2) Lạnh.
+ Đặc tính của Phong đại: 1) Đẩy, 2) Hỗ trợ ( nâng đỡ).
Tất cả có 12 đặc tính. Hành giả cần phải phân biệt tất cả mười hai đặc tính này trong khắp toàn thân, từ đầu đến chân, từ chân lên đầu, lặp đi, lặp lại. Sau khi phân biệt được 12 đặc tính này trong khắp toàn thân. Hành giả có thể chú tâm trên toàn thân để thấy ra các đặc tính của tứ đại liên tục, vào thời điểm có thể phân biệt các đặc tính của tứ đại một cách nhuần nhuyễn, hành giả sẽ chuyển sang ghi nhân được mười hai đặc tính này theo bốn nhóm:
+ Thấy được: 1) Cứng, 2) Thô (nhám) , 3) Nặng, 4) Mềm, 5) Mịn, 6) Nhẹ --> Nhận định đây là địa đại.
+ Thấy được: 1) Chảy, 2) Kết dính --> Nhận định đây là thủy đại.
+ Thấy được: 1) Nóng, 2) Lạnh --> Nhận định đây là hỏa đại.
+ Thấy được: 1) Đẩy, 2) Hỗ trợ (nâng đỡ) --> Nhận định đây là phong đại.
Cứ như vậy, hành giả ghi nhận Địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại hay đất , nước , lửa , gió…Theo cách này (nhận biết theo nhóm các đặc tính), hành giả sẽ định tâm trên đề mục tứ đại. Cứ như vậy, hành giả sẽ liên tục quan sát đề mục tứ đại trong khắp thân mình. Từ đó hành giả sẽ không còn thấy các khái niệm như thân thể của mình, hay cái bụng của mình mà chỉ thấy được các nhóm đặc tính của tứ đại. Nếu hành giả tiếp tục phân biệt tứ đại như vậy một cách đúng theo trình tự hệ thống… Hành giả sẽ tuệ tri được, trong toàn thân này được hợp thành từ các hạt hạ nguyên tử hay còn gọi là rūpa kalāpa, mỗi hạt rūpa kalāpa cơ bản được cấu thành từ 8 loại sắc bất ly ( đất , nước, lửa, gió , màu, mùi, vị , dưỡng chất)... Đây mới được xem là thiền tứ đại. Còn việc chỉ quan sát sự chuyển động phồng xẹp ở bụng như vậy không được đề cập trong lời dạy của Đức Phật.
Pa-Auk Tawya Sayadaw.
(Pháp Quang trích dẫn và dịch lại theo https://www.youtube.com/watch?v=00y9j2UuVto&hd=1)
Các tài liều cần tham Khảo về thiền Tứ Đại :
1) * ‘Kinh Đại Niệm Xứ’ (Mahā∙Sati∙Paṭṭhāna Sutta), Đức Phật dạy tóm tắt thiền tứ đại
“Lại nữa này các Tỳ-khưu, Tỳ-khưu quán sát thân này về vị trí các giới và sự sắp đặt các giới: “Trong thân này có địa đại (pathavī∙dhātu), thủy đại (āpo∙dhātu), hỏa đại (tejo∙dhātu) và phong đại (vāyo∙dhātū’ti).”
2) Ðại kinh Giáo giới La-hầu-la, Đức Phật dạy chi tiết về thiền tứ đại.
3) Bộ ‘Pháp Tụ’ (Dhamma∙Saṅgaṇī), Đức Phật mô tả sắc theo mười hai đặc tánh.
4) Bộ Phân Tích Đạo (Paṭisambhidāmagga)
5) Bộ Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga)
Trong những buổi thuyết pháp tại quốc tế, Ngài Đại Lão Thiền Sư Pa-Auk Sayadaw thường đặt ra một câu hỏi trước thính chúng trước khi thuyết pháp như sau:
Do you have enough faith in the Buddha’s Teachings?
(Qúi vị có đủ tín tâm vào lời dạy của Đức Phật hay không?)
If you have enough faith, you would never get over the Buddha’s Teachings!
(Nếu quí vị có đủ niềm tin, quí vị sẽ không bao giờ vượt qua điều học của Đức Phật!!!)
Việc làm sáng tỏ về phương pháp thiền này là tiêu chí cho sự nhận định chân pháp mà những ai mong muốn hướng đến Thiền Phật Giáo đúng nghĩa cần phải nương theo. Vì pháp hành chân chánh và đáng tin cậy chỉ có thể được triển khai theo đúng nền tảng Pháp Học có Kinh Văn Pāḷi làm y cứ mà thôi!
Và nếu như chúng ta có đủ niềm tin vào lời dạy của Đức Phật, chúng ta sẽ không vượt qua, không thêm, không bỏ bớt những điều học từ Ngài!
Cầu mong cho tất cả chúng sanh có được tri kiến chân chánh đối với Thiền Phật Giáo.
Pháp Quang
 
Top