luutrai
Thôi vậy thì bỏ
Ở Việt Nam, đi nhậu với sếp, nhân viên hay trả tiền. Nhưng khi tôi qua Mỹ, người trả tiền thường là sếp.
Hồi mới đi làm ở Mỹ, tôi gặp tình huống khó quên. Hôm đó sếp rủ tôi đi ăn trưa bàn thêm công việc. Lúc ăn xong, theo thói quen, tôi rút ví ra trả tiền mời sếp giống như ở Việt Nam, song ông đã đứng dậy thanh toán cho cả hai nhanh hơn. Và sau khi việc này diễn ra vài lần, cộng thêm giải thích của người quen, tôi mới hiểu, ở Mỹ, người trả tiền cho các bữa ăn bàn công việc thường là người có vai vế hay thu nhập cao hơn. Không chỉ thế, ngoài giờ làm việc, sếp và nhân viên cư xử khá bình đẳng, giống như bạn bè. Những lần sếp rủ tôi và đồng nghiệp đi uống bia, chúng tôi bàn luận thoải mái về nhiều chủ đề.
Không chỉ trong công sở mà với toàn xã hội, có những quy tắc ứng xử đã trở thành bất di bất dịch. Việc xếp hàng ở mọi nơi, từ nhà vệ sinh đến khách sạn năm sao là điều đương nhiên, dù cho bạn có địa vị thế nào. Người Mỹ không xa lạ gì với hình ảnh cựu tổng thống Mỹ Obama, xếp hàng trả tiền như mọi người khi đi mua hamburger. Ở quán ăn, ít thấy cảnh khách hàng lớn tiếng gọi người phục vụ "em ơi?" cho cả quán nghe thấy, thường họ nhã nhặn tìm cách ra dấu bằng tay. Nếu người phục vụ bận, khách kiên nhẫn đợi đến khi họ trở lại bàn mình. Đi taxi, tôi cũng không thấy cảnh khách hàng nghiễm nhiên coi tài xế như nhân viên khuân vác phải bê mọi đồ đạc cho mình, họ luôn cảm ơn hay tặng thêm tiền tip khi được giúp đỡ.
Các thói quen thông thường khác như, khi ra vào phòng hay tòa nhà, bạn vẫn cần giữ cửa mở nếu có người đi sau mình; khi gặp người đi ngược chiều trên hành lang hay đường phố, ta cần hơi mỉm cười chào người đó và nhìn vào mắt họ. Đây là một hành vi thiện ý nên việc đánh nhau do "nhìn đểu" rất khó xảy ra. Tôi vẫn nhớ cảm xúc "xao xuyến" lúc mới sang Mỹ học tiến sĩ. Trong khuôn viên đại học, khi được các cô sinh viên tóc vàng mắt xanh xinh đẹp chưa hề quen biết mỉm cười chào, tôi mất ngủ mấy hôm liền vì không hiểu chuyện gì đang xảy ra.
Ở Mỹ và một số nước Tây âu còn có những quy tắc ứng xử nhường nhịn và ưu tiên với phụ nữ mà ai cũng tuân theo. Chú tôi, một doanh nhân, có lần kể ông "rất bức xúc" khi đi máy bay từ Việt Nam ra nước ngoài. Trên khoang thương gia, ông chứng kiến cảnh một anh người Việt, dáng to cao, sau khi đã ngồi yên vị trong ghế hất hàm ra dấu cho cô tiếp viên mảnh khảnh với ý yêu cầu cất vali của ông lên khoang hành lý. Ông khách cũng không nói được câu "em cất hộ anh", rung đùi ngồi đọc báo trong khi cô tiếp viên khệ nệ một lúc mới nhấc được chiếc vali lên ngăn hành lý trên đầu.
Sẽ có người phản biện tôi: nhập gia tùy tục, ở đâu theo đó, anh sang Việt Nam phải theo văn hóa của tôi, mắc mớ gì bắt tôi theo anh? Nhưng, văn hóa còn phải đi liền với văn minh. Văn hóa là những gì ở lại khi thời gian đã đi qua, là những thói quen giúp cho con người là "người" hơn, tốt hơn, tôn trọng và quý mến nhau hơn. Nhà nghiên cứu văn hóa Trần Ngọc Thêm trong cuốn "Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam" nhận định rằng, giai đoạn hiện nay của văn hóa Việt Nam, xét trong mối giao lưu với văn hóa phương Tây, vẫn còn đang trong quá trình định hình. Văn hóa cần thời gian và tính tiếp nối để hoàn chỉnh.
Văn hóa phương Tây nhìn chung đề cao các thói quen tạo điều kiện phát triển vai trò, năng lực cũng như phẩm chất riêng của mỗi cá nhân nhưng "bảo vệ" sự bình đẳng thực sự giữa họ. Do vậy, việc phân thứ bậc trong quan hệ công việc chủ yếu nhằm tạo ra kết quả tốt nhất cho nhóm đó chứ không hàm ý phân chia kẻ trên người dưới trong xã hội. Văn hóa của người Việt và một số nước châu Á lại thường coi trọng tính thứ bậc trong cả các mối quan hệ gia đình, tình cảm và cả công việc hay trong cộng đồng. Một ví dụ dễ thấy, trong ngôn ngữ, tiếng Việt có rất nhiều đại từ nhân xưng: anh, chị, em, chú, bác, cháu, thím, mợ, cậu, dì, ông trẻ, bà trẻ... với hàm ý thứ bậc. Còn tiếng Anh chỉ có tôi, bạn ("I" và "you"), với hàm ý tương đối bình đẳng.
Nguồn: Sưu tầm và chia sẽ
Hồi mới đi làm ở Mỹ, tôi gặp tình huống khó quên. Hôm đó sếp rủ tôi đi ăn trưa bàn thêm công việc. Lúc ăn xong, theo thói quen, tôi rút ví ra trả tiền mời sếp giống như ở Việt Nam, song ông đã đứng dậy thanh toán cho cả hai nhanh hơn. Và sau khi việc này diễn ra vài lần, cộng thêm giải thích của người quen, tôi mới hiểu, ở Mỹ, người trả tiền cho các bữa ăn bàn công việc thường là người có vai vế hay thu nhập cao hơn. Không chỉ thế, ngoài giờ làm việc, sếp và nhân viên cư xử khá bình đẳng, giống như bạn bè. Những lần sếp rủ tôi và đồng nghiệp đi uống bia, chúng tôi bàn luận thoải mái về nhiều chủ đề.
Không chỉ trong công sở mà với toàn xã hội, có những quy tắc ứng xử đã trở thành bất di bất dịch. Việc xếp hàng ở mọi nơi, từ nhà vệ sinh đến khách sạn năm sao là điều đương nhiên, dù cho bạn có địa vị thế nào. Người Mỹ không xa lạ gì với hình ảnh cựu tổng thống Mỹ Obama, xếp hàng trả tiền như mọi người khi đi mua hamburger. Ở quán ăn, ít thấy cảnh khách hàng lớn tiếng gọi người phục vụ "em ơi?" cho cả quán nghe thấy, thường họ nhã nhặn tìm cách ra dấu bằng tay. Nếu người phục vụ bận, khách kiên nhẫn đợi đến khi họ trở lại bàn mình. Đi taxi, tôi cũng không thấy cảnh khách hàng nghiễm nhiên coi tài xế như nhân viên khuân vác phải bê mọi đồ đạc cho mình, họ luôn cảm ơn hay tặng thêm tiền tip khi được giúp đỡ.
Các thói quen thông thường khác như, khi ra vào phòng hay tòa nhà, bạn vẫn cần giữ cửa mở nếu có người đi sau mình; khi gặp người đi ngược chiều trên hành lang hay đường phố, ta cần hơi mỉm cười chào người đó và nhìn vào mắt họ. Đây là một hành vi thiện ý nên việc đánh nhau do "nhìn đểu" rất khó xảy ra. Tôi vẫn nhớ cảm xúc "xao xuyến" lúc mới sang Mỹ học tiến sĩ. Trong khuôn viên đại học, khi được các cô sinh viên tóc vàng mắt xanh xinh đẹp chưa hề quen biết mỉm cười chào, tôi mất ngủ mấy hôm liền vì không hiểu chuyện gì đang xảy ra.
Ở Mỹ và một số nước Tây âu còn có những quy tắc ứng xử nhường nhịn và ưu tiên với phụ nữ mà ai cũng tuân theo. Chú tôi, một doanh nhân, có lần kể ông "rất bức xúc" khi đi máy bay từ Việt Nam ra nước ngoài. Trên khoang thương gia, ông chứng kiến cảnh một anh người Việt, dáng to cao, sau khi đã ngồi yên vị trong ghế hất hàm ra dấu cho cô tiếp viên mảnh khảnh với ý yêu cầu cất vali của ông lên khoang hành lý. Ông khách cũng không nói được câu "em cất hộ anh", rung đùi ngồi đọc báo trong khi cô tiếp viên khệ nệ một lúc mới nhấc được chiếc vali lên ngăn hành lý trên đầu.
Sẽ có người phản biện tôi: nhập gia tùy tục, ở đâu theo đó, anh sang Việt Nam phải theo văn hóa của tôi, mắc mớ gì bắt tôi theo anh? Nhưng, văn hóa còn phải đi liền với văn minh. Văn hóa là những gì ở lại khi thời gian đã đi qua, là những thói quen giúp cho con người là "người" hơn, tốt hơn, tôn trọng và quý mến nhau hơn. Nhà nghiên cứu văn hóa Trần Ngọc Thêm trong cuốn "Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam" nhận định rằng, giai đoạn hiện nay của văn hóa Việt Nam, xét trong mối giao lưu với văn hóa phương Tây, vẫn còn đang trong quá trình định hình. Văn hóa cần thời gian và tính tiếp nối để hoàn chỉnh.
Văn hóa phương Tây nhìn chung đề cao các thói quen tạo điều kiện phát triển vai trò, năng lực cũng như phẩm chất riêng của mỗi cá nhân nhưng "bảo vệ" sự bình đẳng thực sự giữa họ. Do vậy, việc phân thứ bậc trong quan hệ công việc chủ yếu nhằm tạo ra kết quả tốt nhất cho nhóm đó chứ không hàm ý phân chia kẻ trên người dưới trong xã hội. Văn hóa của người Việt và một số nước châu Á lại thường coi trọng tính thứ bậc trong cả các mối quan hệ gia đình, tình cảm và cả công việc hay trong cộng đồng. Một ví dụ dễ thấy, trong ngôn ngữ, tiếng Việt có rất nhiều đại từ nhân xưng: anh, chị, em, chú, bác, cháu, thím, mợ, cậu, dì, ông trẻ, bà trẻ... với hàm ý thứ bậc. Còn tiếng Anh chỉ có tôi, bạn ("I" và "you"), với hàm ý tương đối bình đẳng.
Nguồn: Sưu tầm và chia sẽ