newboi
Đàn iem Duy Mạnh
ngày 2 tháng 11 năm 2025
rủ nhau buôn thuốc phiện vào Trung Quốc không chỉ có ông ngoại của Roosevelt, còn có dòng họ Astor, dòng họ Forbes, dòng họ Perkins, dòng họ Cabot, giáo phái Bà La Môn ở thành Boston, dòng họ Russell... thập niên 1830 chiếm 10% thị phần thuốc phiện Trung Quốc
năm 1793 Hoàng đế Càn Long viết thư trả lời Vua George III (ảnh dưới) hồi đáp yêu cầu buôn bán của Phái bộ Macartney: "Đế quốc Thiên朝 của chúng ta sở hữu muôn vật dồi dào và không thiếu thứ gì trong lãnh thổ. Vì vậy, không cần phải nhập khẩu hàng hóa của những người man di bên ngoài để đổi lấy sản phẩm của chúng ta."
Trà đã phải trả bằng bạc, và các nhà phê bình về buôn bán trà thời đó chỉ ra thiệt hại cho của cải nước Anh do mất bạc này. Để có bạc trả tiền trà, Anh bắt đầu xuất khẩu thuốc phiện từ những vùng trồng truyền thống ở Ấn Độ thuộc Anh (ở Pakistan và Afghanistan ngày nay) vào Trung Quốc.
việc sử dụng thuốc phiện ở Trung Quốc có lịch sử lâu dài, nhưng việc Anh nhập khẩu thuốc phiện, bắt đầu vào cuối thế kỷ 18, đã tăng gấp 5 lần từ năm 1821 đến năm 1837, và việc sử dụng thuốc phiện trở nên phổ biến hơn trong xã hội Trung Quốc.
thái độ của chính phủ nhà Thanh đối với thuốc phiện, vốn thường mập mờ, đã cứng rắn hơn do các vấn đề xã hội do sử dụng ma túy gây ra, và đã thực hiện các biện pháp nghiêm túc để hạn chế việc nhập khẩu thuốc phiện vào năm 1838-1839. Đến lúc này, trà đã trở thành nguồn thuế quan trọng của Đế chế Anh và việc cấm buôn bán thuốc phiện, do đó gây ra vấn đề tài chính cho những người nhập khẩu trà, là một trong những nguyên nhân chính của Chiến tranh thuốc phiện lần thứ nhất."
FDR
Franklin Delano Roosevelt sinh ngày 30 tháng 1 năm 1882 tại thị trấn Hyde Park thuộc thung lũng sông Hudson, tiểu bang New York. Cha của Franklin, James Roosevelt, Sr. và mẹ, Sara Ann Delano đều xuất thân từ những gia đình giàu có lâu đời ở tiểu bang New York. Họ nội của Franklin là người gốc Hà Lan trong khi họ ngoại đến từ Pháp. Franklin là người con duy nhất của gia đình.
Roosevelt lớn lên trong một môi trường sống với nhiều đặc quyền. Bà nội của Franklin, Mary Rebecca Aspinwall (ảnh trên) là chị em họ với Elizabeth Kortright Monroe, phu nhân tổng thống thứ năm của Hoa Kỳ, James Monroe. Còn ông ngoại của Franklin, Warren Delano, Jr., là hậu duệ của những nhà lập quốc đến đất Mỹ trên tàu Mayflower (ảnh dưới) - Richard Warren, Isaac Allerton, Degory Priest, và Francis Cooke - từng làm giàu nhờ buôn nha phiến tại Trung Hoa.
Roosevelt đến học tại trường nội trú Groton thuộc giáo hội Anh giáo tại tiểu bang Massachusetts
Roosevelt hoàn tất chương trình cử nhân tại trường đại học Harvard (Harvard College là một trường thuộc viện Đại học Harvard). Đang lúc học ở Harvard, người anh em họ năm đời của Franklin là Theodore Roosevelt (ảnh dưới: thứ 3 từ trái qua) đắc cử tổng thống; chính phong thái lãnh đạo cương quyết của Theodore và nhiệt tâm cải cách đã biến ông thành hình mẫu lý tưởng và nhân vật anh hùng trong mắt FDR.
năm 1905 FDR vào trường luật Columbia nhưng không bao giờ tốt nghiệp.
năm 1907 Roosevelt bỏ học, sau khi qua được kỳ thi sát hạch của Luật sư đoàn tiểu bang New York
năm 1908 Roosevelt đến Wall Street làm việc cho tập đoàn Carter, Ledyard and Milburn chuyên về luật doanh nghiệp
Thượng nghị sĩ Tiểu bang New York: Roosevelt nhậm chức ngày 1 tháng 1 năm 1911 và trở thành thủ lĩnh nhóm “phản loạn” chống đối bộ máy chính trị “Tammany Hall” (nhóm chính trị thuộc Đảng Dân chủ luôn đóng vai trò chính kiểm soát chính trường thành phố New York) là nhóm đang chi phối Đảng Dân chủ của tiểu bang.
Trợ tá Bộ trưởng Hải quân Trợ tá Bộ trưởng Hải quân Roosevelt.
năm 1913 Woodrow Wilson (ảnh trên) bổ nhiệm Roosevelt vào chức vụ Phụ tá Bộ trưởng Hải quân Hoa Kỳ. Phục vụ dưới quyền của Bộ trưởng Josephus Daniels (ảnh dưới)
vận động tranh cử Phó Tổng thống Hoa Kỳ: Đại hội Đảng toàn quốc năm 1920 của Đảng Dân chủ chọn Roosevelt là ứng viên Phó Tổng thống Hoa Kỳ trong liên danh tranh cử tổng thống của Thống đốc tiểu bang Ohio là James M. Cox. Tuy nhiên liên danh tranh cử của Cox-Roosevelt bị liên danh tranh cử của phe Cộng hòa là Warren G. Harding đánh bại thảm hại trong cuộc bầu cử tổng thống. Lúc đó Roosevelt trở về hành nghề pháp lý tại New York và gia nhập Câu lạc bộ Civitan New York vừa mới được thành lập
Thống đốc Tiểu bang New York, 1928-1932: trong cuộc vận động tái tranh cử năm 1930. Roosevelt cần sự thiện chí của nhóm Tammany Hall ở Thành phố New York. Tuy nhiên, đối thủ của ông thuộc Đảng Cộng hòa là Charles H. Tuttle đã nêu chuyện tham nhũng của nhóm Tammany Hall ra làm vấn đề tranh cử. Khi bầu cử sắp đến, Roosevelt ra lệnh điều tra việc mua bán các chức vụ tư pháp. Ông đắc cử nhiệm kỳ 2 với con số cách biệt khoảng 700.000 phiếu.
bầu cử Tổng thống năm 1932: nhờ hậu thuẫn của tiểu bang đông dân nhất, Roosevelt trở thành ứng viên sáng giá trong cuộc chạy đua tranh sự đề cử của Đảng Dân chủ. Song cuộc đua trở nên quyết liệt hơn khi có những dấu hiệu cho thấy tổng thống đương nhiệm. Herbert Hoover, sẽ thất bại trong kỳ bầu cử tổng thống năm 1932.
Khi nhà lãnh đạo tiểu bang Texas John Nance Garner quay sang ủng hộ FDR. Thì vị lãnh đạo này được đề cử vào chức vụ phó tổng thống trong liên danh tranh cử của Roosevelt.
Roosevelt chiến thắng với 57% số phiếu phổ thông và thắng tại tất cả trừ 6 tiểu bang.
nhiệm kỳ thứ nhất, 1933-1937: Roosevelt tuyên thệ nhậm chức vào ngày 4 tháng 3 năm 1933. Lúc này nước Mỹ đang ở thời điểm tồi tệ nhất của cuộc khủng hoảng lớn nhất trong lịch sử.
New Deal lần thứ nhất, 1933-1934: từ ngày 9 tháng 3 đến 16 tháng 6 năm 1933. Roosevelt đệ trình Quốc hội con số kỷ lục các dự luật, và tất cả đều được thông qua
lễ nhậm chức của Roosevelt vào ngày 4 tháng 3 năm 1933 . Diễn ra khi nước Mỹ đang trong tình trạng hốt hoảng vì sự sụp đổ của hệ thống ngân hàng. Tình huống này cho ra đời câu nói nổi tiếng của ông: “Điều duy nhất mà chúng ta nên sợ hãi là nỗi sợ của chính mình”
hôm sau, Quốc hội Mỹ thông qua Đạo luật Ngân hàng Khẩn cấp (Emergency Banking Act). Tuyên bố một “ngày lễ ngân hàng” và thông báo một chương trình cho phép các ngân hàng mở cửa lại
kế hoạch cứu trợ của Roosevelt gồm có việc tiếp tục chương trình cứu trợ của Hoover. Nhưng mang một tên mới, Cơ quan Cứu trợ Khẩn cấp Liên bang
Roosevelt xem việc cứu trợ nông nghiệp là ưu tiên cao. Ông cho thiết lập Cơ quan Điều chỉnh Nông nghiệp với nhiệm vụ nâng cao giá nông sản. Bằng cách trả tiền cho nông gia ngưng canh tác và cắt giảm số thú nuôi.
cải cách nền kinh tế là mục tiêu của Đạo luật Khôi phục Công nghiệp Quốc gia năm 1933. Nhằm chấm dứt tình trạng cạnh tranh khốc liệt. Bằng cách buộc các ngành công nghiệp phải tuân thủ bộ quy tắc ấn định cơ chế vận hành cho mọi công ty trong ngành. Như giá sàn, thỏa hiệp tránh cạnh tranh và định mức sản xuất.
chính sách phục hồi kinh tế được theo đuổi bằng phương sách “bơm vào tiền mồi”. NIRA chi tiêu 3,3 tỷ USD cho Cơ quan Công Chính do Bộ trưởng Nội vụ Harold Ickes đảm trách nhằm kích thích nền kinh tế.
sắc lệnh Hành chính số 6102 đặt toàn bộ vàng cá nhân của công dân Hoa Kỳ thành tài sản ngân khố Hoa Kỳ. Mục đích là để đối phó tình trạng lạm phát đang hoành hành nền kinh tế.
việc bãi bỏ luật cấm rượu cồn cũng mang đến một nguồn thu nhập mới từ thuế . Và giúp Roosevelt giữ lời hứa trong lúc vận động tranh cử.
tháng 4 năm 1933 Roosevelt ra chỉ thị hành chính định nghĩa nồng độ cồn 3,2% được phép tiêu dùng. Sắc lệnh này theo sau hành động của Quốc hội .Nhằm thảo ra và thông qua tu chính án hiến pháp số 21 mà sau đó được thông qua vào cùng năm đó.
New Deal lần thứ hai, 1935 – 1936
cuộc bầu cử quốc hội năm 1934 đã mang lại thuận lợi cho Roosevelt khi Đảng Dân chủ nắm đa số ghế áp đảo tại cả hai viện lập pháp. Đó cũng là lúc hình thành một cao trào mới cho New Deal trong quy trình lập pháp
năm 1933 New Deal lần thứ nhất đã được đa số thành phần xã hội rộng rãi ủng hộ. New Deal lần thứ hai phải đối mặt với cộng đồng thương mại. Các Đảng viên Dân chủ bảo thủ, do Al Smith lãnh đạo, đánh trả bằng cách thành lập Liên đoàn Tự do Mỹ. Họ tấn công Roosevelt một cách điên cuồng và so sánh Roosevelt với Marx và Lênin. Ngược lại, các công đoàn, được thêm năng lực nhờ vào Đạo luật Wagner. Đã ký tên hàng triệu thành viên mới .Và trở thành lực lượng hậu thuẫn lớn cho các cuộc tái tranh cử của Roosevelt vào năm 1936, 1940 và 1944.
Môi trường Kinh tế
thời gian chiến tranh, nền kinh tế hoạt động dưới những điều kiện khác biệt. Nên việc so sánh với thời bình là không phù hợp. Roosevelt coi các chính sách New Deal là tâm điểm di sản của Roosevelt. Trong bài Diễn văn về Tình trạng Liên bang năm 1944 Roosevelt chủ trương rằng người Mỹ nên coi quyền lợi kinh tế cơ bản như là một đạo luật nhân quyền thứ hai.
kinh tế phát triển nhanh trong nhiệm kỳ của Roosevelt. Tuy nhiên, sự phát triển này được theo sau là tình trạng thất nghiệp liên tục ở mức độ cao
Roosevelt không tăng thuế thu nhập trước khi Chiến tranh thế giới thứ hai bắt đầu. Tuy nhiên thuế sổ lương (payroll tax) cũng bắt đầu được đưa ra .Nhằm gây quỹ cho chương trình mới là An sinh Xã hội năm 1937.
Chính sách ngoại giao, 1933–1937
việc không ký vào hiệp ước tham gia Hội Quốc Liên năm 1919 đã đánh dấu sự trỗi dậy mạnh mẽ của chủ nghĩa biệt lập trong chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ. Không tham gia vào các tổ chức thế giới. Mặc dù Roosevelt có nền tảng chủ nghĩa Wilson. Roosevelt và bộ trưởng ngoại giao của ông là Cordell Hull đã hành động rất cẩn thận, tránh kích động chủ nghĩa biệt lập
trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1936, Roosevelt vận động tranh cử dựa vào các chương trình New Deal của Roosevelt chống lại đối thủ Alf Landon
Roosevelt và Garner chiến thắng với tỉ lệ 60,8% phiếu bầu phổ thông và chiến thắng gần như ở tất cả các tiểu bang, trừ Maine và Vermont
Nhiệm kỳ hai, 1937–1941: cuối năm 1937 nền kinh tế bắt đầu tồi tệ trở lại, Roosevelt đưa ra một chương trình kích cầu cấp tiến, xin Quốc hội chi 5 tỷ đô la cho công chánh và giải cứu Cơ quan Quản trị Tiến trình Xây dựng Công chánh (WPA). Sự kiện này giúp tạo ra đỉnh điểm 3,3 triệu việc làm do WPA quản lý vào năm 1938.
Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ đã ra nhiều phán quyết lật ngược nhiều chương trình nghị sự của Roosevelt trong suốt nhiệm kỳ 2
quyết tâm vượt qua sự chống đối của các Đảng viên Dân chủ bảo thủ (đa số từ miền Nam Hoa Kỳ), Roosevelt tự dấn thân vào các cuộc bầu cử sơ bộ Đảng Dân chủ năm 1938, tích cực vận động cho các ứng viên có thái độ ủng hộ hơn dành cho chương trình cải cách New Deal.
ông ngoại của FDR, Warren Delano (ảnh dưới) làm giàu cho gia đình Roosevelt bằng cách buôn lậu thuốc phiện vào Trung Quốc suốt thế kỷ 19. Theo ông ta thì đó là một ngành buôn bán “công bằng, danh dự và hợp pháp”.
rủ nhau buôn thuốc phiện vào Trung Quốc không chỉ có ông ngoại của Roosevelt, còn có dòng họ Astor, dòng họ Forbes, dòng họ Perkins, dòng họ Cabot, giáo phái Bà La Môn ở thành Boston, dòng họ Russell... thập niên 1830 chiếm 10% thị phần thuốc phiện Trung Quốc
năm 1793 Hoàng đế Càn Long viết thư trả lời Vua George III (ảnh dưới) hồi đáp yêu cầu buôn bán của Phái bộ Macartney: "Đế quốc Thiên朝 của chúng ta sở hữu muôn vật dồi dào và không thiếu thứ gì trong lãnh thổ. Vì vậy, không cần phải nhập khẩu hàng hóa của những người man di bên ngoài để đổi lấy sản phẩm của chúng ta."
Trà đã phải trả bằng bạc, và các nhà phê bình về buôn bán trà thời đó chỉ ra thiệt hại cho của cải nước Anh do mất bạc này. Để có bạc trả tiền trà, Anh bắt đầu xuất khẩu thuốc phiện từ những vùng trồng truyền thống ở Ấn Độ thuộc Anh (ở Pakistan và Afghanistan ngày nay) vào Trung Quốc.
việc sử dụng thuốc phiện ở Trung Quốc có lịch sử lâu dài, nhưng việc Anh nhập khẩu thuốc phiện, bắt đầu vào cuối thế kỷ 18, đã tăng gấp 5 lần từ năm 1821 đến năm 1837, và việc sử dụng thuốc phiện trở nên phổ biến hơn trong xã hội Trung Quốc.
thái độ của chính phủ nhà Thanh đối với thuốc phiện, vốn thường mập mờ, đã cứng rắn hơn do các vấn đề xã hội do sử dụng ma túy gây ra, và đã thực hiện các biện pháp nghiêm túc để hạn chế việc nhập khẩu thuốc phiện vào năm 1838-1839. Đến lúc này, trà đã trở thành nguồn thuế quan trọng của Đế chế Anh và việc cấm buôn bán thuốc phiện, do đó gây ra vấn đề tài chính cho những người nhập khẩu trà, là một trong những nguyên nhân chính của Chiến tranh thuốc phiện lần thứ nhất."
FDR
Franklin Delano Roosevelt sinh ngày 30 tháng 1 năm 1882 tại thị trấn Hyde Park thuộc thung lũng sông Hudson, tiểu bang New York. Cha của Franklin, James Roosevelt, Sr. và mẹ, Sara Ann Delano đều xuất thân từ những gia đình giàu có lâu đời ở tiểu bang New York. Họ nội của Franklin là người gốc Hà Lan trong khi họ ngoại đến từ Pháp. Franklin là người con duy nhất của gia đình.
Roosevelt lớn lên trong một môi trường sống với nhiều đặc quyền. Bà nội của Franklin, Mary Rebecca Aspinwall (ảnh trên) là chị em họ với Elizabeth Kortright Monroe, phu nhân tổng thống thứ năm của Hoa Kỳ, James Monroe. Còn ông ngoại của Franklin, Warren Delano, Jr., là hậu duệ của những nhà lập quốc đến đất Mỹ trên tàu Mayflower (ảnh dưới) - Richard Warren, Isaac Allerton, Degory Priest, và Francis Cooke - từng làm giàu nhờ buôn nha phiến tại Trung Hoa.
Roosevelt đến học tại trường nội trú Groton thuộc giáo hội Anh giáo tại tiểu bang Massachusetts
Roosevelt hoàn tất chương trình cử nhân tại trường đại học Harvard (Harvard College là một trường thuộc viện Đại học Harvard). Đang lúc học ở Harvard, người anh em họ năm đời của Franklin là Theodore Roosevelt (ảnh dưới: thứ 3 từ trái qua) đắc cử tổng thống; chính phong thái lãnh đạo cương quyết của Theodore và nhiệt tâm cải cách đã biến ông thành hình mẫu lý tưởng và nhân vật anh hùng trong mắt FDR.
năm 1905 FDR vào trường luật Columbia nhưng không bao giờ tốt nghiệp.
năm 1907 Roosevelt bỏ học, sau khi qua được kỳ thi sát hạch của Luật sư đoàn tiểu bang New York
năm 1908 Roosevelt đến Wall Street làm việc cho tập đoàn Carter, Ledyard and Milburn chuyên về luật doanh nghiệp
Thượng nghị sĩ Tiểu bang New York: Roosevelt nhậm chức ngày 1 tháng 1 năm 1911 và trở thành thủ lĩnh nhóm “phản loạn” chống đối bộ máy chính trị “Tammany Hall” (nhóm chính trị thuộc Đảng Dân chủ luôn đóng vai trò chính kiểm soát chính trường thành phố New York) là nhóm đang chi phối Đảng Dân chủ của tiểu bang.
Trợ tá Bộ trưởng Hải quân Trợ tá Bộ trưởng Hải quân Roosevelt.
năm 1913 Woodrow Wilson (ảnh trên) bổ nhiệm Roosevelt vào chức vụ Phụ tá Bộ trưởng Hải quân Hoa Kỳ. Phục vụ dưới quyền của Bộ trưởng Josephus Daniels (ảnh dưới)
vận động tranh cử Phó Tổng thống Hoa Kỳ: Đại hội Đảng toàn quốc năm 1920 của Đảng Dân chủ chọn Roosevelt là ứng viên Phó Tổng thống Hoa Kỳ trong liên danh tranh cử tổng thống của Thống đốc tiểu bang Ohio là James M. Cox. Tuy nhiên liên danh tranh cử của Cox-Roosevelt bị liên danh tranh cử của phe Cộng hòa là Warren G. Harding đánh bại thảm hại trong cuộc bầu cử tổng thống. Lúc đó Roosevelt trở về hành nghề pháp lý tại New York và gia nhập Câu lạc bộ Civitan New York vừa mới được thành lập
Thống đốc Tiểu bang New York, 1928-1932: trong cuộc vận động tái tranh cử năm 1930. Roosevelt cần sự thiện chí của nhóm Tammany Hall ở Thành phố New York. Tuy nhiên, đối thủ của ông thuộc Đảng Cộng hòa là Charles H. Tuttle đã nêu chuyện tham nhũng của nhóm Tammany Hall ra làm vấn đề tranh cử. Khi bầu cử sắp đến, Roosevelt ra lệnh điều tra việc mua bán các chức vụ tư pháp. Ông đắc cử nhiệm kỳ 2 với con số cách biệt khoảng 700.000 phiếu.
bầu cử Tổng thống năm 1932: nhờ hậu thuẫn của tiểu bang đông dân nhất, Roosevelt trở thành ứng viên sáng giá trong cuộc chạy đua tranh sự đề cử của Đảng Dân chủ. Song cuộc đua trở nên quyết liệt hơn khi có những dấu hiệu cho thấy tổng thống đương nhiệm. Herbert Hoover, sẽ thất bại trong kỳ bầu cử tổng thống năm 1932.
Khi nhà lãnh đạo tiểu bang Texas John Nance Garner quay sang ủng hộ FDR. Thì vị lãnh đạo này được đề cử vào chức vụ phó tổng thống trong liên danh tranh cử của Roosevelt.
Roosevelt chiến thắng với 57% số phiếu phổ thông và thắng tại tất cả trừ 6 tiểu bang.
nhiệm kỳ thứ nhất, 1933-1937: Roosevelt tuyên thệ nhậm chức vào ngày 4 tháng 3 năm 1933. Lúc này nước Mỹ đang ở thời điểm tồi tệ nhất của cuộc khủng hoảng lớn nhất trong lịch sử.
New Deal lần thứ nhất, 1933-1934: từ ngày 9 tháng 3 đến 16 tháng 6 năm 1933. Roosevelt đệ trình Quốc hội con số kỷ lục các dự luật, và tất cả đều được thông qua
lễ nhậm chức của Roosevelt vào ngày 4 tháng 3 năm 1933 . Diễn ra khi nước Mỹ đang trong tình trạng hốt hoảng vì sự sụp đổ của hệ thống ngân hàng. Tình huống này cho ra đời câu nói nổi tiếng của ông: “Điều duy nhất mà chúng ta nên sợ hãi là nỗi sợ của chính mình”
hôm sau, Quốc hội Mỹ thông qua Đạo luật Ngân hàng Khẩn cấp (Emergency Banking Act). Tuyên bố một “ngày lễ ngân hàng” và thông báo một chương trình cho phép các ngân hàng mở cửa lại
kế hoạch cứu trợ của Roosevelt gồm có việc tiếp tục chương trình cứu trợ của Hoover. Nhưng mang một tên mới, Cơ quan Cứu trợ Khẩn cấp Liên bang
Roosevelt xem việc cứu trợ nông nghiệp là ưu tiên cao. Ông cho thiết lập Cơ quan Điều chỉnh Nông nghiệp với nhiệm vụ nâng cao giá nông sản. Bằng cách trả tiền cho nông gia ngưng canh tác và cắt giảm số thú nuôi.
cải cách nền kinh tế là mục tiêu của Đạo luật Khôi phục Công nghiệp Quốc gia năm 1933. Nhằm chấm dứt tình trạng cạnh tranh khốc liệt. Bằng cách buộc các ngành công nghiệp phải tuân thủ bộ quy tắc ấn định cơ chế vận hành cho mọi công ty trong ngành. Như giá sàn, thỏa hiệp tránh cạnh tranh và định mức sản xuất.
chính sách phục hồi kinh tế được theo đuổi bằng phương sách “bơm vào tiền mồi”. NIRA chi tiêu 3,3 tỷ USD cho Cơ quan Công Chính do Bộ trưởng Nội vụ Harold Ickes đảm trách nhằm kích thích nền kinh tế.
sắc lệnh Hành chính số 6102 đặt toàn bộ vàng cá nhân của công dân Hoa Kỳ thành tài sản ngân khố Hoa Kỳ. Mục đích là để đối phó tình trạng lạm phát đang hoành hành nền kinh tế.
việc bãi bỏ luật cấm rượu cồn cũng mang đến một nguồn thu nhập mới từ thuế . Và giúp Roosevelt giữ lời hứa trong lúc vận động tranh cử.
tháng 4 năm 1933 Roosevelt ra chỉ thị hành chính định nghĩa nồng độ cồn 3,2% được phép tiêu dùng. Sắc lệnh này theo sau hành động của Quốc hội .Nhằm thảo ra và thông qua tu chính án hiến pháp số 21 mà sau đó được thông qua vào cùng năm đó.
New Deal lần thứ hai, 1935 – 1936
cuộc bầu cử quốc hội năm 1934 đã mang lại thuận lợi cho Roosevelt khi Đảng Dân chủ nắm đa số ghế áp đảo tại cả hai viện lập pháp. Đó cũng là lúc hình thành một cao trào mới cho New Deal trong quy trình lập pháp
năm 1933 New Deal lần thứ nhất đã được đa số thành phần xã hội rộng rãi ủng hộ. New Deal lần thứ hai phải đối mặt với cộng đồng thương mại. Các Đảng viên Dân chủ bảo thủ, do Al Smith lãnh đạo, đánh trả bằng cách thành lập Liên đoàn Tự do Mỹ. Họ tấn công Roosevelt một cách điên cuồng và so sánh Roosevelt với Marx và Lênin. Ngược lại, các công đoàn, được thêm năng lực nhờ vào Đạo luật Wagner. Đã ký tên hàng triệu thành viên mới .Và trở thành lực lượng hậu thuẫn lớn cho các cuộc tái tranh cử của Roosevelt vào năm 1936, 1940 và 1944.
Môi trường Kinh tế
thời gian chiến tranh, nền kinh tế hoạt động dưới những điều kiện khác biệt. Nên việc so sánh với thời bình là không phù hợp. Roosevelt coi các chính sách New Deal là tâm điểm di sản của Roosevelt. Trong bài Diễn văn về Tình trạng Liên bang năm 1944 Roosevelt chủ trương rằng người Mỹ nên coi quyền lợi kinh tế cơ bản như là một đạo luật nhân quyền thứ hai.
kinh tế phát triển nhanh trong nhiệm kỳ của Roosevelt. Tuy nhiên, sự phát triển này được theo sau là tình trạng thất nghiệp liên tục ở mức độ cao
Roosevelt không tăng thuế thu nhập trước khi Chiến tranh thế giới thứ hai bắt đầu. Tuy nhiên thuế sổ lương (payroll tax) cũng bắt đầu được đưa ra .Nhằm gây quỹ cho chương trình mới là An sinh Xã hội năm 1937.
Chính sách ngoại giao, 1933–1937
việc không ký vào hiệp ước tham gia Hội Quốc Liên năm 1919 đã đánh dấu sự trỗi dậy mạnh mẽ của chủ nghĩa biệt lập trong chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ. Không tham gia vào các tổ chức thế giới. Mặc dù Roosevelt có nền tảng chủ nghĩa Wilson. Roosevelt và bộ trưởng ngoại giao của ông là Cordell Hull đã hành động rất cẩn thận, tránh kích động chủ nghĩa biệt lập
trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1936, Roosevelt vận động tranh cử dựa vào các chương trình New Deal của Roosevelt chống lại đối thủ Alf Landon
Roosevelt và Garner chiến thắng với tỉ lệ 60,8% phiếu bầu phổ thông và chiến thắng gần như ở tất cả các tiểu bang, trừ Maine và Vermont
Nhiệm kỳ hai, 1937–1941: cuối năm 1937 nền kinh tế bắt đầu tồi tệ trở lại, Roosevelt đưa ra một chương trình kích cầu cấp tiến, xin Quốc hội chi 5 tỷ đô la cho công chánh và giải cứu Cơ quan Quản trị Tiến trình Xây dựng Công chánh (WPA). Sự kiện này giúp tạo ra đỉnh điểm 3,3 triệu việc làm do WPA quản lý vào năm 1938.
Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ đã ra nhiều phán quyết lật ngược nhiều chương trình nghị sự của Roosevelt trong suốt nhiệm kỳ 2
quyết tâm vượt qua sự chống đối của các Đảng viên Dân chủ bảo thủ (đa số từ miền Nam Hoa Kỳ), Roosevelt tự dấn thân vào các cuộc bầu cử sơ bộ Đảng Dân chủ năm 1938, tích cực vận động cho các ứng viên có thái độ ủng hộ hơn dành cho chương trình cải cách New Deal.
Sửa lần cuối: