Don Jong Un
Xamer mới lớn

Trong cuộc cạnh tranh ngày càng gay gắt về tài nguyên tại các khu vực chung toàn cầu, các quốc gia đang sử dụng những biện pháp tinh vi nhằm khẳng định quyền lực. Trung Quốc, đặc biệt, triển khai “chiến tranh pháp lý” – sự thao túng có chiến lược các khuôn khổ pháp lý và dư luận để thúc đẩy chương trình nghị sự địa chính trị của mình. Đảng ******** Trung Quốc (ĐCSTQ) đặc biệt sử dụng hình thức chiến tranh pháp lý trong miền quan trọng là quyền đánh bắt và kiểm soát hàng hải.
Chiến lược của Bắc Kinh không hướng đến việc bảo vệ môi trường thực sự. Thay vào đó, đây là cái cớ được ngụy trang bằng ngôn ngữ bảo tồn để mở rộng lãnh thổ và chiếm đoạt tài nguyên. Đây không phải là ngoại giao thiện chí. Đó là sự bóp méo các quy ước quốc tế nhằm phá hoại các quốc gia có chủ quyền láng giềng.
Một số câu hỏi giúp nhận diện chiến tranh pháp lý môi trường của ĐCSTQ: Liệu Trung Quốc có đang sử dụng lý do môi trường để đạt được kết quả thường gắn liền với biện pháp quân sự hoặc cưỡng chế pháp luật ngoài vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) được quốc tế công nhận? Các yêu sách quá đáng của Bắc Kinh có nhằm làm suy yếu hoặc vô hiệu hóa các tuyên bố hợp pháp của các quốc gia láng giềng hoặc các bên đối lập? Các chuyên gia pháp lý, đặc biệt là những người cam kết duy trì luật pháp quốc tế, có trách nhiệm khẩn cấp vạch trần và chống lại các chiến thuật lừa dối này.
Phong trào môi trường toàn cầu, được thúc đẩy bởi những lo ngại sinh thái ngày càng tăng, đã dẫn đến các thỏa thuận quốc tế như Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) và Nghị quyết 77/118 năm 2022 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc về nghề cá bền vững. UNCLOS và các nghị quyết như 77/118 nhằm thúc đẩy hợp tác và bảo vệ các hệ sinh thái chung.
Bắc Kinh lạm dụng các hiệp ước và nghị quyết này để phục vụ lợi ích kinh tế và chiến lược riêng. Trong những năm gần đây, ĐCSTQ đã tận dụng mối quan tâm môi trường toàn cầu để mở rộng các mục tiêu bá quyền ở cả cấp khu vực lẫn toàn cầu.
Ví dụ, lệnh cấm đánh bắt cá hằng năm từ tháng 5 đến tháng 8 do Bắc Kinh đơn phương áp đặt từ năm 1999. Lệnh cấm này được tuyên bố là biện pháp bảo tồn, nhưng lại mở rộng ra toàn Biển Đông và cả các vùng EEZ hợp pháp của các quốc gia có chủ quyền như Philippines và Việt Nam – vi phạm UNCLOS. Hàng năm, nhiều quốc gia ở Biển Đông phản đối lệnh cấm đánh bắt cá quá mức này, nhưng Trung Quốc liên tục phản ứng một cách cứng rắn, thể hiện sự coi thường và bất chấp của Bắc Kinh đối với các phán quyết pháp lý quốc tế không phù hợp với lợi ích của mình.
Tương tự, ĐCSTQ biện minh cho các dự án xây dựng đảo nhân tạo của mình trên các thực thể tranh chấp ở Quần đảo Trường Sa như những nỗ lực bảo vệ môi trường. Bắc Kinh còn đi xa hơn khi tuyên bố các đảo nhân tạo và cơ sở hạ tầng đi kèm giúp tạo điều kiện thuận lợi cho giao thông vận tải hàng hải quốc tế trong khu vực. Tuy nhiên, việc xây dựng các đảo nhân tạo và các cấu trúc quân sự như đường băng đã gây ra sự tàn phá sinh thái không thể khắc phục được, phá hủy các rạn san hô và hệ sinh thái biển quan trọng. Đây không phải là sự quản lý môi trường; đây là thiệt hại sinh thái có tính toán được thiết kế để tạo ra các tiền đồn quân sự và củng cố các yêu sách hàng hải quá mức của Bắc Kinh.
Cái gọi là sự quản lý của Trung Quốc, được ngụy trang một cách vụng về dưới danh nghĩa các sáng kiến môi trường, thực chất bao gồm những nỗ lực nhằm khẳng định và thực thi quyền kiểm soát lãnh thổ. Bằng cách bắt giữ ngư dân nước ngoài, áp đặt các lệnh cấm đánh bắt cá tùy tiện và triển khai lực lượng bảo vệ bờ biển dưới chiêu bài bảo tồn biển, ĐCSTQ đã hệ thống hóa việc khẳng định quyền kiểm soát thực tế và các cơ chế thực thi trong các khu vực tranh chấp. Chiến thuật “quyền lực mềm” này cho phép Bắc Kinh từng bước củng cố các yêu sách quá mức của mình mà không cần tham gia vào xung đột quân sự công khai và khai thác các tập quán quốc tế về trách nhiệm sinh thái để thúc đẩy chương trình nghị sự của mình.
Philippines và Việt Nam đã phản đối các chiến thuật của Bắc Kinh, trong khi Malaysia và Indonesia đã tăng cường sự hiện diện hải quân để đáp lại các cuộc xâm nhập của Bắc Kinh và việc sử dụng chiến tranh pháp lý môi trường. Các quốc gia này coi những biện minh về sinh thái của Bắc Kinh là vỏ bọc cho việc chiếm đoạt lãnh thổ. Họ đã kêu gọi thực thi UNCLOS mạnh mẽ hơn trên trường quốc tế và tăng cường hợp tác khu vực thông qua các cơ quan như Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á. Tuy nhiên, sức mạnh kinh tế và quân sự của Trung Quốc trong khu vực khiến đây trở thành một vấn đề đầy thách thức đối với các quốc gia nhỏ hơn.
Binh sĩ Tuần duyên Hoa Kỳ lên kiểm tra một tàu cá ở Thái Bình Dương vào tháng 8 năm 2022. Chiến dịch của lực lượng Tuần duyên chống lại hoạt động đánh bắt cá trái phép, không báo cáo và không được kiểm soát theo Tổ chức Quản lý Nghề cá Khu vực Nam Thái Bình Dương.
NGUỒN: HẠ SĨ QUAN BẬC 2 JUSTIN UPSHAW/TUẦN DUYÊN HOA KỲ
Chiến lược của Bắc Kinh không hướng đến việc bảo vệ môi trường thực sự. Thay vào đó, đây là cái cớ được ngụy trang bằng ngôn ngữ bảo tồn để mở rộng lãnh thổ và chiếm đoạt tài nguyên. Đây không phải là ngoại giao thiện chí. Đó là sự bóp méo các quy ước quốc tế nhằm phá hoại các quốc gia có chủ quyền láng giềng.
Chiến tranh Pháp lý Môi trường
Bắc Kinh coi chiến tranh pháp lý là một vũ khí tấn công, nằm trong bộ “ba chiến tranh” mà họ đã chính thức hóa cùng với chiến tranh tâm lý và tuyên truyền truyền thông. Mục tiêu rất rõ ràng: định hình các câu chuyện, bẻ cong dư luận toàn cầu và vặn vẹo các khuôn khổ pháp lý để đạt được ưu thế chính trị và quân sự. Chiến tranh pháp lý đặc biệt nguy hiểm vì nó lợi dụng sự quan tâm thực sự của cộng đồng quốc tế đến môi trường và che giấu ý đồ xâm lược bằng lớp vỏ của trách nhiệm toàn cầu.Một số câu hỏi giúp nhận diện chiến tranh pháp lý môi trường của ĐCSTQ: Liệu Trung Quốc có đang sử dụng lý do môi trường để đạt được kết quả thường gắn liền với biện pháp quân sự hoặc cưỡng chế pháp luật ngoài vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) được quốc tế công nhận? Các yêu sách quá đáng của Bắc Kinh có nhằm làm suy yếu hoặc vô hiệu hóa các tuyên bố hợp pháp của các quốc gia láng giềng hoặc các bên đối lập? Các chuyên gia pháp lý, đặc biệt là những người cam kết duy trì luật pháp quốc tế, có trách nhiệm khẩn cấp vạch trần và chống lại các chiến thuật lừa dối này.
Phong trào môi trường toàn cầu, được thúc đẩy bởi những lo ngại sinh thái ngày càng tăng, đã dẫn đến các thỏa thuận quốc tế như Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) và Nghị quyết 77/118 năm 2022 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc về nghề cá bền vững. UNCLOS và các nghị quyết như 77/118 nhằm thúc đẩy hợp tác và bảo vệ các hệ sinh thái chung.
Bắc Kinh lạm dụng các hiệp ước và nghị quyết này để phục vụ lợi ích kinh tế và chiến lược riêng. Trong những năm gần đây, ĐCSTQ đã tận dụng mối quan tâm môi trường toàn cầu để mở rộng các mục tiêu bá quyền ở cả cấp khu vực lẫn toàn cầu.
Áp bức Môi trường ở Biển Đông
Biển Đông là nơi thể hiện rõ ràng nhất chiến tranh pháp lý môi trường của Trung Quốc, nơi Bắc Kinh không ngừng khẳng định các yêu sách lãnh thổ quá mức không có cơ sở trong luật pháp quốc tế và đã bị Tòa án Trọng tài thường trực bác bỏ năm 2016 theo UNCLOS. Bất chấp phán quyết này, Bắc Kinh vẫn thường xuyên viện dẫn lý do môi trường để củng cố các yêu sách bất hợp pháp.Ví dụ, lệnh cấm đánh bắt cá hằng năm từ tháng 5 đến tháng 8 do Bắc Kinh đơn phương áp đặt từ năm 1999. Lệnh cấm này được tuyên bố là biện pháp bảo tồn, nhưng lại mở rộng ra toàn Biển Đông và cả các vùng EEZ hợp pháp của các quốc gia có chủ quyền như Philippines và Việt Nam – vi phạm UNCLOS. Hàng năm, nhiều quốc gia ở Biển Đông phản đối lệnh cấm đánh bắt cá quá mức này, nhưng Trung Quốc liên tục phản ứng một cách cứng rắn, thể hiện sự coi thường và bất chấp của Bắc Kinh đối với các phán quyết pháp lý quốc tế không phù hợp với lợi ích của mình.
Tương tự, ĐCSTQ biện minh cho các dự án xây dựng đảo nhân tạo của mình trên các thực thể tranh chấp ở Quần đảo Trường Sa như những nỗ lực bảo vệ môi trường. Bắc Kinh còn đi xa hơn khi tuyên bố các đảo nhân tạo và cơ sở hạ tầng đi kèm giúp tạo điều kiện thuận lợi cho giao thông vận tải hàng hải quốc tế trong khu vực. Tuy nhiên, việc xây dựng các đảo nhân tạo và các cấu trúc quân sự như đường băng đã gây ra sự tàn phá sinh thái không thể khắc phục được, phá hủy các rạn san hô và hệ sinh thái biển quan trọng. Đây không phải là sự quản lý môi trường; đây là thiệt hại sinh thái có tính toán được thiết kế để tạo ra các tiền đồn quân sự và củng cố các yêu sách hàng hải quá mức của Bắc Kinh.
Cái gọi là sự quản lý của Trung Quốc, được ngụy trang một cách vụng về dưới danh nghĩa các sáng kiến môi trường, thực chất bao gồm những nỗ lực nhằm khẳng định và thực thi quyền kiểm soát lãnh thổ. Bằng cách bắt giữ ngư dân nước ngoài, áp đặt các lệnh cấm đánh bắt cá tùy tiện và triển khai lực lượng bảo vệ bờ biển dưới chiêu bài bảo tồn biển, ĐCSTQ đã hệ thống hóa việc khẳng định quyền kiểm soát thực tế và các cơ chế thực thi trong các khu vực tranh chấp. Chiến thuật “quyền lực mềm” này cho phép Bắc Kinh từng bước củng cố các yêu sách quá mức của mình mà không cần tham gia vào xung đột quân sự công khai và khai thác các tập quán quốc tế về trách nhiệm sinh thái để thúc đẩy chương trình nghị sự của mình.
Philippines và Việt Nam đã phản đối các chiến thuật của Bắc Kinh, trong khi Malaysia và Indonesia đã tăng cường sự hiện diện hải quân để đáp lại các cuộc xâm nhập của Bắc Kinh và việc sử dụng chiến tranh pháp lý môi trường. Các quốc gia này coi những biện minh về sinh thái của Bắc Kinh là vỏ bọc cho việc chiếm đoạt lãnh thổ. Họ đã kêu gọi thực thi UNCLOS mạnh mẽ hơn trên trường quốc tế và tăng cường hợp tác khu vực thông qua các cơ quan như Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á. Tuy nhiên, sức mạnh kinh tế và quân sự của Trung Quốc trong khu vực khiến đây trở thành một vấn đề đầy thách thức đối với các quốc gia nhỏ hơn.

NGUỒN: HẠ SĨ QUAN BẬC 2 JUSTIN UPSHAW/TUẦN DUYÊN HOA KỲ