Phần 1:
Chương 1
Chương 1
Chương 2:Chúa là một vị Chúa ma mãnh. Temple biết điều đó. Cô biết bởi vì tất cả những phép màu tuyệt diệu vẫn còn đó để chiêm ngưỡng trên quả địa cầu đổ nát này. Như lũ cá sáng lấp lánh như đèn vũ trường dưới vùng nước cạn kia. Đó là một điều gì đó, một kỳ quan vô song mà cô đã được chứng kiến. Lúc cô thấy cảnh đó trời đã tối mịt, nhưng trăng sáng đến nỗi đổ bóng rõ mồn một lên khắp hòn đảo. Sáng đến mức gần như còn sáng hơn ban ngày, bởi cô có thể thấy mọi vật rõ ràng hơn, như thể mặt trời là kẻ thù của sự thật, như thể đôi mắt cô là đôi mắt của màn đêm. Cô rời ngọn hải đăng và đi xuống bãi biển để ngắm vầng trăng thuần khiết và ngay chính diện, và cô đứng ở chỗ nước nông, để mặc cho đôi chân lún sâu vào cát khi những con sóng vỗ lăn tăn trêu ghẹo mắt cá. Và đó là khi cô thấy nó, một đàn cá bé tí, tất cả vụt đi như những viên bi trong vòng phấn, và chúng sáng rực như có điện, hầu hết là màu bạc nhưng cũng có vài con màu vàng và hồng. Chúng đến và nhảy múa quanh mắt cá chân cô, và cô có thể cảm nhận được thân mình điện giật nho nhỏ của chúng, và có cảm giác như cô đang đứng dưới trăng mà cũng như đang đứng trong trăng cùng một lúc. Và đó là điều cô chưa từng thấy bao giờ. Một thập kỷ rưỡi, khoảng đó, lang thang trên hành tinh Trái Đất, và cô chưa bao giờ thấy điều đó trước đây. Và bạn có thể nói rằng thế giới đã chìm vào chốn đọa đày tăm tối, và bạn có thể nói rằng lũ con cháu của Cain đang thống trị người tốt và kẻ công chính, nhưng đây là điều Temple biết. Cô biết rằng dù thế giới đã sa vào địa ngục nào, và dù chính cô đã gây ra tội ác gì, và dù chuỗi bất hạnh nghiệt ngã nào đã đưa cô xuống hòn đảo này để lánh xa trật tự của loài người, thì, tất cả những điều đó đã đặt cô đến đó vào đêm ấy để đứng giữa Vầng Trăng Ban Ngày và Phép Màu của Lũ Cá, những thứ mà nếu không thì cô đã chẳng được thấy. Thấy chưa, Chúa là một vị Chúa ma mãnh. Ngài làm thế để bạn không bỏ lỡ bất cứ điều gì bạn phải tận mắt chứng kiến.
CÔ NGỦ trong một ngọn hải đăng bỏ hoang trên đỉnh một vách đá. Dưới chân tháp là một căn phòng tròn với lò sưởi, nơi cô nấu cá trong một chiếc nồi sắt đen kịt. Ngay đêm đầu tiên, cô phát hiện ra cánh cửa sập trên sàn dẫn xuống một phòng kho ẩm thấp. Ở đó cô tìm thấy nến, lưỡi câu, một bộ sơ cứu, một khẩu súng bắn pháo sáng với một hộp đạn đã bị oxy hóa. Cô thử một viên, nhưng nó đã tịt. Vào buổi sáng, cô đào củ lạc trong bụi rậm và kiểm tra lưới cá. Cô để đôi giày thể thao trong ngọn hải đăng, cô thích cảm giác cát nóng trên lòng bàn chân. Cỏ biển Florida len lỏi giữa những ngón chân. Những cây cọ trông như những bụi cây lơ lửng trên không, những tàu lá khô giòn của chúng như một chiếc váy kết bằng xương quanh thân cây cao, kêu lạo xạo trong gió. Mỗi ngày vào giữa trưa, cô leo lên cầu thang xoắn ốc lên đỉnh tháp đèn hiệu, dừng lại ở chiếu nghỉ giữa chừng để thở và cảm nhận ánh nắng trên mặt qua ô cửa sổ cáu bẩn. Lên đến đỉnh, cô đi một vòng trên lối đi catwalk, phóng tầm mắt ra biển cả vô tận, và rồi, hướng về phía bờ biển đất liền, chóp đá của lục địa úa tàn. Đôi khi cô dừng lại để nhìn vào bán cầu ngược của chính ngọn đèn, khối thấu kính thủy tinh mù lòa ấy, như một cái vạc lật nghiêng và được bao phủ bởi hàng ngàn tấm gương vuông. Cô có thể thấy hình ảnh phản chiếu của mình ở đó, rõ ràng và muôn hình vạn trạng. Cả một đội quân Temple. Buổi chiều, cô lật xem những cuốn tạp chí chưa mục nát mà cô tìm thấy lót trong vài thùng dầu hỏa. Con chữ chẳng có ý nghĩa gì với cô, nhưng cô thích những bức ảnh. Chúng gợi lên những nơi cô chưa từng đến: những đám đông ăn mặc bảnh bao chào đón sự xuất hiện của ai đó trong một chiếc xe hơi đen dài, những người mặc đồ trắng ngả mình trên ghế sofa trong những ngôi nhà không có máu khô đóng vảy trên tường, những người phụ nữ mặc đồ lót trên nền trắng liền mạch. Cái màu trắng ấy, một thiên đường trừu tượng. một màu trắng như vậy có thể tồn tại ở đâu. Nếu cô có tất cả số sơn trắng còn lại trên thế giới, thứ gì sẽ không bị cây cọ của cô chạm đến. Cô nhắm mắt lại và nghĩ về điều đó.
Ban đêm có thể lạnh. Cô giữ cho ngọn lửa cháy và kéo chặt chiếc áo khoác quân đội quanh thân mình, lắng nghe tiếng gió biển rít lên dữ dội qua cây sáo rỗng trong ngôi nhà cao vút của mình.
PHÉP MÀU, hoặc có lẽ là điềm báo, bởi vì buổi sáng sau khi thấy lũ cá phát sáng, cô tìm thấy cái xác trên bãi biển. Cô nhìn thấy nó trong chuyến đi bộ buổi sáng quanh đảo để kiểm tra lưới, cô tìm thấy nó ở mũi phía bắc của dải đất hình giọt nước, gần bãi cạn. Ban đầu nó là một hình thù đen sì trên nền cát trắng, và cô quan sát nó từ xa, giơ ngón tay lên ngang tầm mắt để đo đạc. Quá nhỏ để là một người, trừ khi nó bị gập đôi hoặc bị vùi lấp một nửa. Điều đó có thể lắm.
Cô nhìn quanh. Gió thổi qua đám cỏ trên bờ tạo ra một âm thanh yên bình. Cô ngồi xuống, quan sát cái vật đó và chờ đợi chuyển động. Bãi cạn hôm nay lớn hơn. Nó cứ ngày một lớn hơn. Khi cô mới đến, hòn đảo có vẻ cách đất liền một quãng xa. Cô đã bơi đến đây, dùng một thùng giữ lạnh màu đỏ trắng rỗng để giúp mình nổi trong dòng nước. Đó là chuyện của mấy tháng trước. Kể từ đó, hòn đảo đã lớn hơn, mùa này kéo nước ra xa hơn, xa hơn mỗi đêm, kéo hòn đảo lại gần đất liền hơn. Có một dải đá ngầm nhô ra từ bờ biển đất liền và chỉ về phía hòn đảo, và có những mảng san hô lớn lởm chởm vươn ra theo hướng ngược lại từ hòn đảo. Giống như những ngón tay của Chúa và Adam, và mỗi ngày chúng lại gần nhau hơn khi nước rút đi và vùng nước dọc bãi cạn ngày càng nông hơn. Nhưng nó vẫn có vẻ an toàn. Sóng vỗ vào rạn san hô rất dữ dội và ầm ầm. Bạn sẽ không thể băng qua bãi cạn mà không bị tan xương nát thịt trên đá. Ít nhất là chưa.
Cái hình thù đó không động đậy, nên cô đứng dậy và cẩn thận tiến lại gần. Đó là một người đàn ông, bị chôn úp mặt xuống cát, vạt áo sơ mi flannel của gã quất qua lại trong gió. Có điều gì đó trong cách sắp xếp đôi chân của gã, một đầu gối co lên gần thắt lưng, cho cô biết rằng lưng gã đã gãy. Tóc gã dính đầy cát, móng tay rách nát và thâm tím. Cô lại nhìn quanh. Rồi cô nhấc chân lên và thúc mũi chân vào lưng gã đàn ông. Không có gì xảy ra nên cô lại thúc mạnh hơn. Đó là lúc gã bắt đầu ngọ nguậy. Có những âm thanh nghẹn ngào phát ra từ cổ họng gã, những tiếng gầm gừ và càu nhàu gắng gượng, biểu lộ sự bực dọc và thống khổ hơn là đau đớn hay chịu đựng. Hai cánh tay gã bắt đầu cào cát như thể đang vẽ một thiên thần. Và có một chuyển động quằn quại, gợn sóng chạy qua các cơ bắp trên cơ thể gã, như một món đồ chơi hỏng đang co giật một cách máy móc, lặp đi lặp lại, không thể tự lật lại được.
“Cái bị thịt,” cô nói thành tiếng. Một bàn tay chụp lấy mắt cá chân cô, nhưng cô đá nó ra. Cô ngồi xuống cạnh gã, chống tay ra sau, co chân đạp vào thân mình gã và đẩy cho cái xác lật ngửa lên, để lại một vết lõm méo mó, ướt át trên cát. Một cánh tay vẫn đang vung vẩy, nhưng cánh tay kia bị kẹt dưới lưng nên cô ở lại bên đó và quỳ xuống trên khuôn mặt lộ ra của gã.
Toàn bộ hàm dưới đã biến mất, cùng với một con mắt. Khuôn mặt phồng rộp, đen sì và rách nát. Một mảng da trên xương gò má bị kéo ngược lại và dính đầy cát ướt, để lộ phần xương và sụn trắng vàng bên dưới. Chỗ con mắt từng ở giờ là một đống súp sền sệt gồm chất lỏng trong đặc quánh lẫn với máu, giống như món trứng sốt cà chua. Có một sợi tảo bẹ thò ra từ lỗ mũi khiến gã trông gần như tức cười, như thể ai đó vừa chơi khăm gã. Nhưng sự cân đối trên khuôn mặt gã đã bị biến dạng bởi cái hàm dưới bị mất. Ngay cả những thứ ghê tởm cũng có thể trông toàn vẹn nếu chúng có sự đối xứng, nhưng khi không có hàm, khuôn mặt trông bè ra và cái cổ trông ngớ ngẩn như cổ ngựa. Cô di chuyển các ngón tay qua lại trước con mắt còn lành lặn của gã, và con mắt đảo quanh trong hốc mắt cố gắng theo dõi chuyển động nhưng tiêu điểm cứ giật giật. Sau đó, cô đặt các ngón tay của mình xuống nơi đáng lẽ là cái miệng. Gã có một hàm răng trên, nứt nẻ và giòn vụn, nhưng không có gì ở dưới để cắn vào. Khi cô đặt ngón tay vào đó, cô có thể thấy các gân cơ ẩn sau răng gã co giật theo hình nan quạt. Có những khúc xương trắng sữa nhô ra ở chỗ khớp nối hàm dưới và các dây chằng màu vàng giống như dây cao su căng ra và chùng lại, căng ra và chùng lại, với cử động nhai trong vô thức.
“Mày định làm gì đây,” cô nói. “Cắn tao à? Tao nghĩ là những ngày cắn xé của mày qua rồi, ông bạn.”
Cô rút tay khỏi mặt gã và ngồi lùi lại, nhìn gã. Gã xoay được đầu về phía cô và tiếp tục quằn quại.
“Đừng chống cự nữa,” cô nói. “Lưng mày gãy rồi. Mày chẳng đi đâu được đâu. Đây gần như là ngày tàn của mày rồi.” Cô thở dài và đưa mắt nhìn qua bãi đá ngầm ở phía xa, xa hơn là dải đất liền rộng lớn. “Mà mày đến đây làm gì, cái bị thịt,” cô nói. “Mày ngửi thấy mùi máu con gái trong gió à? Mày thèm lắm phải không? Tao biết mày không bơi đến đây. Quá chậm chạp và ngu ngốc để làm thế.”
Có tiếng ục ục trong cổ họng gã và một con cua xanh chui ra từ đầu khí quản lộ thiên đầy cát rồi bò đi mất.
“Mày biết tao nghĩ gì không,” cô nói. “Tao nghĩ mày đã cố trèo qua những tảng đá đó. Và tao nghĩ mày đã bị những con sóng đó cuốn đi và bị đập cho tan tành ra phết. Tao nghĩ thế đấy. Mày nói sao về chuyện đó?”
Gã đã rút được cánh tay ra khỏi người và vươn về phía cô. Nhưng các ngón tay chỉ cách cô vài phân và cào những luống cày trên cát.
“Chà,” cô nói, “đáng lẽ mày nên ở đây tối qua. Có một vầng trăng to đến mức mày gần như có thể đưa tay lên hái nó khỏi bầu trời. Và lũ cá này, tất cả đều như có điện, lượn vòng quanh mắt cá chân tao. Tuyệt vời lắm, ông bạn. Tao nói cho mày biết, đó là một phép màu nếu trên đời này có phép màu.” Cô nhìn vào con mắt đang đảo tròn và thân mình đang run rẩy. “Có lẽ mày không hứng thú với phép màu cho lắm. Nhưng dù sao đi nữa, mày có thể trân trọng một phép màu mà không cần phải xứng đáng với nó. Tất cả chúng ta đều chịu ơn vẻ đẹp của thế giới, ngay cả những kẻ xấu xa trong chúng ta. Có lẽ những kẻ xấu xa còn hơn thế nữa.” Cô thở dài, một hơi thật sâu. “Thôi,” cô nói, “chắc ông nghe tôi lải nhải đủ rồi. Nghe này, tôi đang nói đủ phần cho cả hai chúng ta đấy. Nói đủ phần cho cả hai. Hiểu không?”
Cô cười với câu đùa của mình, và tiếng cười của cô nhỏ dần khi cô đứng dậy, phủi cát khỏi lòng bàn tay và nhìn ra mặt nước về phía đất liền. Sau đó, cô đi lên một lùm cọ phía trên bãi biển và tìm kiếm trong đám cỏ rậm, dậm chân xung quanh cho đến khi tìm thấy thứ mình cần. Đó là một tảng đá lớn, to hơn một quả bóng bầu dục. Cô mất nửa giờ để dùng một cành cây đào xung quanh và bẩy nó lên khỏi mặt đất. Tự nhiên không thích bị đụng chạm. Rồi cô vác tảng đá xuống bãi biển, nơi gã đàn ông đang nằm gần như bất động. Khi thấy cô, gã lại sống dậy và bắt đầu quằn quại, rùng mình và phát ra những tiếng ục ục trong cổ họng.
“Dù sao thì,” cô nói với gã, “mày là đứa đầu tiên đến được đây. Chắc điều đó cũng đáng kể. Nó khiến mày giống như Christopher Columbus hay gì đó. Nhưng với thủy triều này và tất cả mọi thứ… mày có muốn cá là sẽ có thêm nhiều đứa như mày đến không? Mày có muốn cá là tất cả lũ bạn sên nhớt của mày đang trên đường đến không? Tao nói đó là một vụ cá cược khá chắc ăn đấy.”
Cô gật đầu và lại nhìn ra bãi cạn. “Được rồi,” cô nói, nâng tảng đá lên quá đầu và giáng nó xuống mặt gã với một tiếng vỡ nát ẩm ướt, đặc sệt. Đôi tay vẫn đang chuyển động, nhưng cô biết đôi khi chuyện đó vẫn xảy ra một lúc sau. Cô nhấc tảng đá lên lần nữa và giáng xuống thêm hai lần nữa cho chắc. Sau đó, cô để tảng đá lại đó, như một tấm bia mộ, rồi đi xuống lưới cá của mình và tìm thấy một con cá cỡ vừa trong đó, mang con cá trở lại ngọn hải đăng, nơi cô nướng nó trên lửa và ăn với muối và tiêu. Sau đó, cô leo lên các bậc thang lên đỉnh tháp, đi ra lối đi catwalk và nhìn xa xăm về phía đất liền. Cô quỳ xuống, tì cằm vào lan can kim loại lạnh lẽo và nói.
“Tôi cho là lại đến lúc phải đi tiếp rồi.”
Đêm đó, dưới ánh lửa, cô lấy ra khỏi cửa hầm những thứ mình đã cất giấu khi mới đến. Thùng giữ lạnh, bi đông nước, khẩu súng lục còn lại hai viên đạn tốt. Lát sau, cô mang con dao găm Gurkha và viên đá mài xuống bãi biển, ngồi trên cát mài lưỡi dao bằng những đường miết dài, trơn tru. Cô dành thời gian cho việc này, ngồi đó dưới ánh trăng gần cả tiếng đồng hồ, cho đến khi có thể cảm nhận vị sắc lẻm của lưỡi dao trên đầu lưỡi. Đó là một lưỡi dao tốt, dài một foot và có độ cong vào trong. Nó rít lên khi cô vung trong không khí.
Đêm đó cô ngủ ngon giấc nhưng tự đánh thức mình dậy ngay trước bình minh và thu dọn đồ đạc. Cô cho dao, súng, bi đông nước và chiếc mũ panama của mình vào thùng giữ lạnh rồi kéo nó xuống bãi biển. Sau đó, cô quay trở lại ngọn hải đăng để nói lời tạm biệt. Thật buồn khi phải rời xa mái nhà của mình, và nơi này đã đối xử rất tốt với cô. Cô cảm thấy mình bé nhỏ như một hạt đậu dưới chân ngọn tháp cao lừng lững ấy. Cô leo lên các bậc thang lần cuối cùng để lên lối đi catwalk và nhìn mình trong hàng ngàn tấm gương nhỏ của ngọn đèn đã chết. Mái tóc cô dài và lơ thơ, cô lấy một sợi dây thun và buộc nó lại phía sau. Rồi cô thò tay vào, dùng ngón tay nạy lỏng một trong những tấm gương nhỏ và bỏ vào túi làm kỷ niệm cho thời gian ở đây. Sự thật mà nói, cô không khoái cái trò nhìn vào nội tâm cho lắm. Nhưng có những bí mật ẩn nấp trong tâm trí, và cô không muốn bất kỳ bí mật nào trong số chúng lén lút tấn công mình. Đôi khi, việc nhìn sâu vào bên trong cũng đáng giá, ngay cả khi bạn thấy buồn nôn khi nhìn vào những góc tối đó. Trở lại chân tháp, cô đi ra ngoài và đóng sầm cửa lại, kéo chặt sau lưng để gió không thổi tung nó ra và làm xáo trộn mọi thứ bên trong. Thật là một ý nghĩ ấm lòng khi hình dung nó vẫn y nguyên sau khi cô đã rời đi.
Cô đứng ở chân tháp và ngửa cổ nhìn lên. "Tạm biệt nhé, ngọn tháp già tốt bụng," cô nói. "Hãy cứ đứng vững nhé. Hãy chăm sóc cho bất cứ ai định cư trong mày tiếp theo, dù sống hay chết, dù là tội nhân hay thánh nhân." Cô gật đầu. Đó là một điều hay để nói, cô nghĩ, như một lời ban phước, một lời chúc rượu, một lời chúc sinh nhật hay một bài điếu văn, và cô biết rằng lời nói có sức mạnh biến mọi thứ thành sự thật nếu được nói ra đúng cách.
DƯỚI BÃI BIỂN, cô cởi trần truồng, cho tất cả quần áo và giày dép của mình vào thùng giữ lạnh cùng với mọi thứ khác và đóng nắp chặt nhất có thể, giậm chân lên xuống vài lần. Cô kéo nó ra sóng cho đến khi nó bắt đầu tự nổi lên trong dòng nước. rồi cô đẩy nó ra trước mặt mình và đưa nó qua những con sóng bạc đầu cho đến khi cô vượt qua chúng và cả những con sóng cồn. Cô bơi về phía đất liền, giữ khoảng cách xa bãi cạn để dòng nước không kéo cô vào đá. Cô vòng tay quanh thùng giữ lạnh và đập chân, và khi mệt, cô dừng lại, thả nổi và để mắt đến đất liền để xem dòng nước đang đưa mình đi về hướng nào. Có một làn gió lướt trên mặt nước, làm da ướt của cô nổi da gà, nhưng vẫn tốt hơn là cố bơi vào giữa trưa khi mặt trời ở ngay trên đỉnh đầu và làm bạn khô quắt lại như một con thằn lằn. Cô không có cách nào để biết thời gian, nhưng cô không phải là người bơi nhanh và có cảm giác như mất một giờ đồng hồ trước khi cô đến được đất liền, kéo thùng giữ lạnh lên bãi biển và ngồi trên một tảng đá vắt nước muối ra khỏi tóc và làm khô da trong làn gió buổi sáng.
Bãi biển hoang vắng, cô mở thùng giữ lạnh, lấy ra một chiếc ống nhòm đơn nhỏ và leo lên một dãy bậc thang bê tông vỡ dẫn đến một bãi đỗ xe rải sỏi nhìn ra bờ biển để nắm bắt địa hình. Có hai chiếc ô tô đậu dưới đường và vài túp lều lụp xụp ở phía xa. In trên đường chân trời, cô có thể thấy vài con sên. Chúng chưa đánh hơi thấy cô, và chúng đang đi khập khiễng theo cái kiểu giật cục ngẫu nhiên của chúng. Cô cúi thấp đầu và lại tập trung ống nhòm vào hai chiếc ô tô. Một trong số đó là một chiếc jeep, chiếc còn lại là một chiếc xe hơi màu đỏ lùn tịt có hai cửa. Tất cả các bánh xe có vẻ còn nguyên vẹn theo những gì cô có thể thấy.
Trở xuống bãi biển, cô dùng ngón tay chải tóc và qua màn tóc, cô có thể thấy một bóng người trên bờ ở phía xa. Cô không cần ống nhòm, cô có thể nhận ra qua cái cách nó di chuyển lù lù. Lũ sên. Cô gỡ xong những mớ tóc rối và buộc thành đuôi ngựa. Sau đó, cô lấy quần áo từ thùng giữ lạnh và mặc vào. Con sên đã phát hiện ra cô và đang hướng về phía cô, nhưng chân nó liên tục vấp phải cát. Cô rút ống nhòm ra và nhìn qua. Người phụ nữ đã chết mặc đồng phục y tá. Áo của bà ta màu xanh y tế, nhưng quần lại có màu sắc sặc sỡ, giống như quần ngủ. Temple không thể nhận ra hoa văn là gì, nhưng trông nó có thể là những cây kẹo mút. Cô đóng ống nhòm lại và cất vào túi. Sau đó, cô quay lại thùng giữ lạnh và lấy khẩu súng lục ra, kiểm tra các viên đạn để chắc chắn rằng chúng không bị ướt, rồi đeo con dao găm Gurkha đã tra vỏ, treo trên thắt lưng và buộc vào đùi bằng hai sợi dây da. Khi cô làm xong, người y tá đã cách đó hai mươi yard, hai tay vươn ra trước mặt. Bản năng ham muốn. Đói, khát, dục vọng, tất cả những thôi thúc còn sót lại quyện vào làm một trong cái dạ dày sôi sục, lảo đảo. Temple nhìn người y tá lần cuối, rồi quay người và leo lên những bậc thang bê tông hướng lên con đường. Những con sên khác vẫn còn ở xa, nhưng cô biết chúng sẽ sớm nhìn thấy cô, và rằng một vài con có xu hướng nhanh chóng biến thành một bầy rồi một đàn. vì vậy, cô đi thẳng đến chỗ những chiếc xe đang đậu và mở cửa chiếc xe nhỏ màu đỏ. Chìa khóa vẫn còn trong ổ, nhưng động cơ đã chết. Cô tìm chìa khóa trong chiếc jeep và không thấy, nhưng có một chiếc tuốc nơ vít dưới ghế trước, nên cô dùng nó để giật tung lớp vỏ bọc quanh ổ khóa và nạy cái nắp trên trụ đánh lửa. Sau đó, cô mò mẫm tìm cái rãnh ở cuối trụ, cắm đầu tuốc nơ vít vào đó và xoay. Động cơ ho vài tiếng rồi khởi động, các đồng hồ trên bảng điều khiển sống lại. "Được rồi," Temple nói. "Đúng là lộc cho con bé này. Nửa bình xăng nữa chứ. Coi chừng nhé, thế giới rộng lớn kia, chuẩn bị bị ta cày nát đây."
THẾ GIỚI khá giống với những gì cô nhớ, tất cả đều cháy rụi và nhợt nhạt, như thể ai đó đã cầm một miếng bọt biển đến và hút hết màu sắc lẫn hơi ẩm, để lại mọi thứ xám xịt và khô cong như xương. Nhưng cô cũng vui khi được trở lại. Cô đã nhớ các công trình của con người, những thứ khá kỳ diệu khi bạn suy ngẫm về chúng. Những tòa nhà gạch cao tầng với tất cả các phòng nhỏ, tủ quần áo và cửa ra vào, giống như những tổ kiến hoặc tổ ong bắp cày khi bạn phá vỡ lớp vỏ giấy của chúng. Có lần cô đã ở Orlando, khi còn bé, và cô nhớ đã đứng dưới chân một tòa nhà cao kinh khủng này và nghĩ rằng nền văn minh chắc hẳn có những con người cừ khôi đang làm việc để thúc đẩy nó, rồi cô đá vào chân tòa nhà để xem liệu cả công trình có đổ sụp không, và thấy rằng nó không đổ và sẽ không bao giờ đổ.
Ở thị trấn đầu tiên cô đến, cô phát hiện một cửa hàng tiện lợi ở góc đường và lái xe lên vỉa hè trước cửa hàng. Vùng sâu của lũ sên. Lũ bị thịt lảng vảng khắp nơi cô nhìn, nhưng chúng tản ra, vậy chắc hẳn không có gì để chúng săn lùng ở quanh đây. Và chúng chậm chạp, một số thậm chí còn đang bò. Đã lâu không có gì ăn, cô đoán vậy. Nơi này đã bị bỏ đi rồi. cô sẽ phải đi xa hơn về phía bắc.
Nhưng trước tiên, cô vào cửa hàng tiện lợi. Cô phát hiện ra cả một hộp bánh quy bơ đậu phộng mà cô thích, loại bánh kẹp với bánh quy phô mai màu cam sáng. Cô xé một gói và ăn ngay tại cửa hàng, đứng ở cửa sổ và nhìn lũ sên nhích từng chút về phía mình. Cô nghĩ về chế độ ăn uống của mình trên đảo. "Chẳng có con cá nào bơi dưới đại dương," cô nói, "có thể ngon bằng mấy cái bánh quy này." Cô lấy phần còn lại của hộp bánh và một lốc hai mươi tư lon Coke, vài chai nước, ba hộp khoai tây chiên Pringles, vài hộp ớt và súp, vài hộp mì ống và phô mai, và một vài thứ khác nữa: một chiếc đèn pin và pin, một bánh xà phòng phòng khi có cơ hội tắm rửa, một bàn chải và kem đánh răng, một cây lược, và cả một cuộn vé số cào vì cô thích xem mình đã có thể trở thành triệu phú đến mức nào trong thời xưa. Cô kiểm tra sau quầy hàng xem có súng hay đạn không, nhưng không có gì. Rồi cô nhận thấy lũ sên đang đến gần hơn, nên cô chất chiến lợi phẩm lên ghế hành khách của xe và lên đường trở lại. Khi ra khỏi thị trấn, trên một đoạn đường hai làn xe kéo dài, cô mở một lon Coke và một gói bánh quy bơ đậu phộng khác, có vị như một thiên đường màu cam mờ ảo. Trong khi ăn, cô nghĩ về việc Chúa đã thông minh thế nào khi khiến lũ bị thịt không quan tâm đến thức ăn thật để còn lại nhiều cho những người bình thường. Cô nhớ lại một câu chuyện cười cũ khiến cô mỉm cười: câu chuyện về gã bị thịt được mời đến một tiệc cưới. Cuối buổi tiệc, họ thừa ra gấp đôi thức ăn và mất đi một nửa số khách. Cô cười khúc khích, và con đường thì dài.
CÔ ĐI theo con đường ven biển một lúc, những cây cọ xù xì ở khắp mọi nơi và cỏ biển mọc um tùm len lỏi qua những vết nứt trên đường, rồi cô rẽ vào đất liền để thay đổi không khí. Cá sấu. Cô chưa bao giờ thấy nhiều cá sấu như vậy trước đây. Chúng đang phơi mình trên lớp nhựa đường đen của xa lộ, và khi cô đến gần, chúng lén lút tránh đường một cách chẳng vội vã gì. Có những thị trấn khác, nhưng vẫn không có dấu hiệu của sự sống bình thường. Cô bắt đầu tưởng tượng mình là người cuối cùng còn lại trên hành tinh này với tất cả lũ bị thịt. Điều đầu tiên cô sẽ làm là tìm một tấm bản đồ và lái xe khắp đất nước để ngắm cảnh. Cô sẽ bắt đầu ở New York và sau đó phiêu lưu một mạch đến San Francisco, nơi có những ngọn đồi dốc để lái xe. Cô có thể tìm một con chó hoang hoặc thuần hóa một con sói và cho nó ngồi cạnh mình, thò đầu ra ngoài cửa sổ, và họ có thể tìm một chiếc xe có ghế ngồi thoải mái và hát hò trong khi lái xe. Cô gật đầu. Đó sẽ là một điều đúng đắn.
Mặt trời lặn, và cô bật đèn pha, một trong số chúng vẫn còn hoạt động nên cô có thể nhìn thấy con đường phía trước nhưng theo một cách lệch lạc. Có một vài ánh đèn ở phía xa, một vầng sáng trên đường chân trời chắc hẳn là một thành phố, và cô lái xe theo hướng của vầng sáng đó. Nhưng trên đường vào ban đêm, bạn bắt đầu có những suy nghĩ đơn độc xấu xí. Cô nhớ, chắc phải năm năm trước, đang lái xe qua Alabama với Malcolm ngồi ở ghế bên cạnh. Cô lúc đó còn rất nhỏ, chắc chắn là vậy, vì cô nhớ mình đã phải đẩy ghế về phía trước hết cỡ, và ngay cả khi đó cô vẫn phải ngồi nhấp nhổm trên mép ghế để với tới bàn đạp. Và Malcolm thậm chí còn nhỏ hơn. Malcolm đã im lặng một lúc lâu. Cậu bé thích nhai loại kẹo cao su quá ngọt đối với cô, và cậu thích cho hai miếng vào miệng cùng một lúc. Một lúc, cô có thể nghe thấy tiếng cậu nhai bên cạnh mình, rồi im lặng, và cậu chỉ nhìn ra ngoài cửa sổ vào khoảng không đen kịt. "Chú Jackson sao rồi ạ?" Malcolm nói. "Chú đi rồi," cô nói. "Chúng ta sẽ không gặp lại chú nữa đâu." "Chú nói chú sẽ dạy con cách bắn súng." "Chị sẽ dạy em." "Dù sao thì chú cũng không phải là chú ruột của em." Để xua đi ký ức khỏi đầu, cô hạ cửa sổ xuống và để gió đùa trong tóc. Khi điều đó không hiệu quả, cô quyết định hát một bài hát ngắn mà cô từng thuộc lòng và phải mất một lúc để nhớ lại tất cả các phần của nó.
Oh, mairzy doats and dozy doats and liddle lamzy divey,
Yes, mairzy doats and dozy doats and liddle lamzy divey,
A kiddley divey doo, wouldn’t you.
A kiddley divey doo, wouldn’t you.
Chiếc xe chết máy trên một đoạn đường quê dài, và cô tấp vào lề và mở nắp capo để xem. Có lẽ là do bơm xăng, nhưng cô không thể chắc chắn nếu không chui xuống gầm xe và chọc ngoáy, và động cơ còn quá nóng để làm bất cứ điều gì trong một lúc. Và dù sao thì cô cũng không có dụng cụ nào để chọc ngoáy, nhưng cô có thể thấy một ngôi nhà lùi xa khỏi con đường, đi xuống một lối đi nhỏ bằng đất, và có thể có dụng cụ ở đó. Cô nhìn vào đường chân trời tối tăm về phía những ánh đèn thành phố. Khoảng cách rất khó xác định vào ban đêm, có thể cô sẽ đi bộ đến đó vào buổi sáng. Tuy nhiên, ngôi nhà đó. Nó có thể chứa thứ gì đó đáng giá. Cô đã rời xa cuộc chơi này một thời gian dài và cô đang cảm thấy táo bạo, và dù sao thì cô cũng muốn có thứ gì đó để xao lãng khỏi những ký ức ban đêm của mình. Vì vậy, cô buộc con dao găm Gurkha vào đùi và dắt khẩu súng lục vào cạp quần, hai viên đạn, chỉ sử dụng trong trường hợp khẩn cấp, rồi lấy đèn pin và đi bộ lên con đường đất nện dẫn đến ngôi nhà, nơi cô đã sẵn sàng để đá tung cửa vào ngoại trừ việc cô không cần phải làm thế vì nó đang mở toang.
Có một mùi hôi thối trong nhà, và cô nhận ra nó. Mốc thịt. Có thể là xác chết hoặc có thể là sên. Dù thế nào đi nữa, cô tự nhủ phải thở bằng miệng và làm cho nhanh. Cô tìm đường đến nhà bếp, nơi có một chiếc bàn formica bị lật và rỉ sét cùng giấy dán tường bong tróc với hoa văn dây dâu tây. Do độ ẩm, những mảng nấm mốc màu xám xanh có lông đang mọc ở khắp mọi nơi. Cô mở từng ngăn kéo một để tìm ngăn đựng dụng cụ nhưng không có gì. Cô nhìn ra cửa sổ sau. Không có nhà để xe. Có một cánh cửa trong nhà bếp, cô mở nó ra và tìm thấy những bậc thang gỗ dẫn xuống lòng đất. Cô đợi ở đầu cầu thang một lúc, lắng nghe bất kỳ âm thanh nào trong nhà, rồi từ từ đi xuống.
Dưới tầng hầm có một mùi khác, giống như amoniac, và cô lia đèn pin quanh một chiếc bàn ở giữa phòng bừa bộn chai lọ, bếp cồn, ống cao su và một trong những chiếc cân kiểu cũ có một tay đòn dài ở một bên. Một số chai chứa đầy một nửa chất lỏng màu vàng. Cô đã thấy kiểu sắp đặt này trước đây. Phòng lab ma túy đá. Chúng rất phổ biến vài năm trước khi một số người lợi dụng sự xao lãng do lũ sên gây ra. Cô tìm thấy một bàn làm việc dựa vào tường và lục lọi tìm một chiếc tuốc nơ vít đầu Phillips và một chiếc cờ lê, nhưng thứ cô thực sự tìm kiếm là một cây kìm. Cô đặt đèn pin xuống mặt bàn nhưng nó lăn đi và rơi xuống sàn, nơi nó nhấp nháy một lần nhưng vẫn sáng. May mắn thay, cô sẽ không muốn phải mò mẫm đường trở lại xe. Nhưng khi cô quay lại, cô thấy một thứ mình đã bỏ lỡ trước đó. Cạnh cầu thang, có một tủ dụng cụ, và trong khi cô quan sát, cánh cửa tủ, được chiếu sáng trong ánh sáng mờ của đèn pin, rung lên một lần rồi bật tung ra như thể có ai đó đã ngã vào nó.
Rồi cô có thể ngửi thấy nó, mùi thịt thối rữa, giờ đây nồng nặc hơn nhiều; trước đó nó đã bị che lấp bởi mùi amoniac của phòng thí nghiệm.
Chúng loạng choạng bước ra khỏi tủ dụng cụ, ba con, hai người đàn ông mặc yếm dài tóc và một người phụ nữ chỉ mặc một chiếc váy ngủ sa tanh, đã bị xé toạc để lộ một bên ngực khô quắt. Temple đã quên mất chúng hôi thối đến mức nào, cái hỗn hợp bùn lầy của mùi ẩm mốc và thối rữa, dầu mỡ và phân ôi thiu. Cô thấy một dòng phân lỏng chảy ướt át xuống phía sau chân người phụ nữ. Chúng hẳn đã ăn gần đây, nên chúng sẽ rất khỏe. Và chúng đang đứng giữa cô và cầu thang. Cô đặt tay lên khẩu súng lục và cân nhắc. Hai viên đạn cuối cùng của cô. Không đáng. Thay vào đó, cô rút phắt con dao găm Gurkha ra khỏi vỏ và đá vào gã đàn ông phía trước, khiến hắn ngã sầm xuống sàn xi măng. Cô vung dao và cắm ngập nó vào sọ của gã đàn ông thứ hai, đôi mắt hắn lác đi một cách ngớ ngẩn trước khi khuỵu xuống. Nhưng khi cô cố gắng rút lưỡi dao ra, nó đã bị kẹt, bị giữ chặt trong những đường khớp của xương ướt.
Rồi người phụ nữ đã tóm lấy cổ tay cô trong một cái nắm chặt đầy thịt. Cô có thể cảm thấy những móng tay giòn vụn cắm vào da mình. "Bỏ tay tao ra," Temple nói. Cô không thể rút con dao ra khỏi đầu gã đàn ông, vì vậy cô buông nó ra và nhìn cái xác ngã ngửa ra sau với lưỡi dao của cô vẫn còn cắm trong đó.
Người phụ nữ đang cúi xuống để cắn một miếng vào vai cô, nhưng Temple đấm mạnh vào đầu con sên, một lần, rồi hai lần, rồi lần thứ ba, cố gắng làm cho bộ não choáng váng thoát khỏi bản năng của nó. Nhưng bây giờ gã đàn ông kia đã đứng dậy và đang lao về phía cô, vì vậy cô xoay người phụ nữ lại để chặn giữa chúng và gã đàn ông lao vào cả hai với một cái ôm kiểu gấu khiến Temple ngã ngửa vào bàn làm việc. Mùi hôi, khi chúng đè lên cô, thật không thể chịu nổi, và mắt cô ngập trong nước làm mờ tầm nhìn. Cô với tay ra sau và mò mẫm tìm bất cứ thứ gì và vớ được một chiếc tuốc nơ vít, cô nắm chặt và đâm vào cổ gã đàn ông. Hắn buông ra và lảo đảo lùi lại, nhưng góc của chiếc tuốc nơ vít đã sai, nó đâm thẳng qua thay vì hướng lên não, vì vậy hắn bắt đầu đi vòng tròn, phát ra những tiếng ục ục ướt át và đóng mở hàm. Người phụ nữ đang giữ cổ tay Temple lại mở miệng như thể muốn cắn một miếng vào má cô, nhưng Temple lại xoay bà ta một vòng và đập cẳng tay của bà ta vào cạnh bàn làm việc khiến nó gãy răng rắc và cái nắm trên cổ tay cô lỏng ra. Sau đó, cô cúi xuống và di chuyển đến cái xác, đặt một chân lên mặt hắn để lấy đà, và dùng cả hai tay nạy con dao Gurkha của mình ra. Người phụ nữ đang ở ngay sau cô, nhưng điều đó không quan trọng. Temple vung mạnh và chuẩn xác, và lưỡi dao vút qua cổ một cách ngọt lịm và chém bay cái đầu. Gã đàn ông cuối cùng đang bị phân tâm, vụng về cào cấu chiếc tuốc nơ vít trong cổ họng. Temple di chuyển ra sau lưng hắn để lấy hơi. Tóc hắn dài và lơ thơ với những mảng sơn trong đó như thể ngôi nhà đã đổ nát lên đầu hắn. Cô nâng dao lên và giáng mạnh xuống, hai nhát chém nhanh gọn như cô đã học từ lâu: một để làm nứt sọ và nhát còn lại để bổ đôi bộ não.
Cô nhặt chiếc đèn pin từ dưới sàn nhà, giờ đã trơn trượt vì máu và phân. Sau đó, cô tìm một phần sạch sẽ trên chiếc váy ngủ của người phụ nữ, xé nó ra và dùng nó để lau sạch con dao Gurkha của mình. "Điệu tango của lũ bị thịt," cô nói. "Đúng là một mớ bầy hầy kinh tởm."
THẤY CHƯA, thế giới này có một thứ âm nhạc của riêng nó, và bạn phải lắng nghe nếu không chắc chắn sẽ bỏ lỡ. Giống như khi cô bước ra khỏi ngôi nhà và không khí ban đêm terasa mơ màng lạnh lẽo trên khuôn mặt cô, và nó có mùi tinh khiết của một vùng đất trong lành vừa mới bắt đầu. Giống như một thứ gì đó cũ kỹ, bụi bặm và tan vỡ đã được dọn khỏi kệ để nhường chỗ cho một thứ gì đó lấp lánh mới toanh. Và đó là tâm hồn bạn khao khát được di chuyển và trở thành một phần của nó, bất kể nó là gì, được ở ngoài kia trên những đồng bằng muội than, nơi kẻ sống ngã xuống và kẻ chết trỗi dậy, rồi kẻ chết lại ngã xuống và kẻ sống lại trỗi dậy như vòng tuần hoàn của sự sống mà cô đã từng cố gắng giải thích cho Malcolm. "Đó là một điều của tự nhiên," cô đã nói với cậu bé trong khi cậu nhai viên kẹo cứng mà cậu đã giấu trong má. "Đó là một điều của tự nhiên và tự nhiên không bao giờ chết. Chị và em, chúng ta cũng là tự nhiên, ngay cả khi chúng ta chết." Nó là về những linh hồn và bầu trời rộng mở và những vì sao sáng rực một cách điên cuồng ở khắp mọi nơi bạn nhìn, và vì vậy cô quyết định lấy một vài thứ từ chiếc xe và cuốc bộ quãng đường còn lại về phía những ánh đèn trên đường chân trời.
Và chẳng bao lâu sau cô nhìn thấy một biển báo đường và chiếu đèn pin vào nó, những con chữ cô không thể giải mã được và chúng không giống tên của bất kỳ thành phố nào cô đã từng đến mà cô có thể nhớ lại, nhưng con số là 15. Và nếu nó có một dấu vân tay ánh sáng trên bầu trời có thể nhìn thấy từ khoảng cách mười lăm dặm thì nó hẳn không phải là một thị trấn nhỏ, và đó là nơi dành cho cô, một nơi mà cô có thể làm quen với một vài người và cập nhật tình hình trên trái đất xanh tươi của Chúa và có lẽ được uống một lon soda lạnh có đá. Và mười lăm dặm, chẳng là gì cả. Đó là ba, bốn giờ đồng hồ của cảnh đêm và những suy tư sâu lắng, mát lành, trừ đi những ý nghĩ buồn bã. Cô sẽ đến đó kịp giờ ăn sáng.
Sửa lần cuối: