Truyện Dịch: Reaper Of The Angel (Kinh Dị,18+)

Phần 1:
Chương 1
Chúa là một vị Chúa ma mãnh. Temple biết điều đó. Cô biết bởi vì tất cả những phép màu tuyệt diệu vẫn còn đó để chiêm ngưỡng trên quả địa cầu đổ nát này. Như lũ cá sáng lấp lánh như đèn vũ trường dưới vùng nước cạn kia. Đó là một điều gì đó, một kỳ quan vô song mà cô đã được chứng kiến. Lúc cô thấy cảnh đó trời đã tối mịt, nhưng trăng sáng đến nỗi đổ bóng rõ mồn một lên khắp hòn đảo. Sáng đến mức gần như còn sáng hơn ban ngày, bởi cô có thể thấy mọi vật rõ ràng hơn, như thể mặt trời là kẻ thù của sự thật, như thể đôi mắt cô là đôi mắt của màn đêm. Cô rời ngọn hải đăng và đi xuống bãi biển để ngắm vầng trăng thuần khiết và ngay chính diện, và cô đứng ở chỗ nước nông, để mặc cho đôi chân lún sâu vào cát khi những con sóng vỗ lăn tăn trêu ghẹo mắt cá. Và đó là khi cô thấy nó, một đàn cá bé tí, tất cả vụt đi như những viên bi trong vòng phấn, và chúng sáng rực như có điện, hầu hết là màu bạc nhưng cũng có vài con màu vàng và hồng. Chúng đến và nhảy múa quanh mắt cá chân cô, và cô có thể cảm nhận được thân mình điện giật nho nhỏ của chúng, và có cảm giác như cô đang đứng dưới trăng mà cũng như đang đứng trong trăng cùng một lúc. Và đó là điều cô chưa từng thấy bao giờ. Một thập kỷ rưỡi, khoảng đó, lang thang trên hành tinh Trái Đất, và cô chưa bao giờ thấy điều đó trước đây. Và bạn có thể nói rằng thế giới đã chìm vào chốn đọa đày tăm tối, và bạn có thể nói rằng lũ con cháu của Cain đang thống trị người tốt và kẻ công chính, nhưng đây là điều Temple biết. Cô biết rằng dù thế giới đã sa vào địa ngục nào, và dù chính cô đã gây ra tội ác gì, và dù chuỗi bất hạnh nghiệt ngã nào đã đưa cô xuống hòn đảo này để lánh xa trật tự của loài người, thì, tất cả những điều đó đã đặt cô đến đó vào đêm ấy để đứng giữa Vầng Trăng Ban Ngày và Phép Màu của Lũ Cá, những thứ mà nếu không thì cô đã chẳng được thấy. Thấy chưa, Chúa là một vị Chúa ma mãnh. Ngài làm thế để bạn không bỏ lỡ bất cứ điều gì bạn phải tận mắt chứng kiến.

CÔ NGỦ trong một ngọn hải đăng bỏ hoang trên đỉnh một vách đá. Dưới chân tháp là một căn phòng tròn với lò sưởi, nơi cô nấu cá trong một chiếc nồi sắt đen kịt. Ngay đêm đầu tiên, cô phát hiện ra cánh cửa sập trên sàn dẫn xuống một phòng kho ẩm thấp. Ở đó cô tìm thấy nến, lưỡi câu, một bộ sơ cứu, một khẩu súng bắn pháo sáng với một hộp đạn đã bị oxy hóa. Cô thử một viên, nhưng nó đã tịt. Vào buổi sáng, cô đào củ lạc trong bụi rậm và kiểm tra lưới cá. Cô để đôi giày thể thao trong ngọn hải đăng, cô thích cảm giác cát nóng trên lòng bàn chân. Cỏ biển Florida len lỏi giữa những ngón chân. Những cây cọ trông như những bụi cây lơ lửng trên không, những tàu lá khô giòn của chúng như một chiếc váy kết bằng xương quanh thân cây cao, kêu lạo xạo trong gió. Mỗi ngày vào giữa trưa, cô leo lên cầu thang xoắn ốc lên đỉnh tháp đèn hiệu, dừng lại ở chiếu nghỉ giữa chừng để thở và cảm nhận ánh nắng trên mặt qua ô cửa sổ cáu bẩn. Lên đến đỉnh, cô đi một vòng trên lối đi catwalk, phóng tầm mắt ra biển cả vô tận, và rồi, hướng về phía bờ biển đất liền, chóp đá của lục địa úa tàn. Đôi khi cô dừng lại để nhìn vào bán cầu ngược của chính ngọn đèn, khối thấu kính thủy tinh mù lòa ấy, như một cái vạc lật nghiêng và được bao phủ bởi hàng ngàn tấm gương vuông. Cô có thể thấy hình ảnh phản chiếu của mình ở đó, rõ ràng và muôn hình vạn trạng. Cả một đội quân Temple. Buổi chiều, cô lật xem những cuốn tạp chí chưa mục nát mà cô tìm thấy lót trong vài thùng dầu hỏa. Con chữ chẳng có ý nghĩa gì với cô, nhưng cô thích những bức ảnh. Chúng gợi lên những nơi cô chưa từng đến: những đám đông ăn mặc bảnh bao chào đón sự xuất hiện của ai đó trong một chiếc xe hơi đen dài, những người mặc đồ trắng ngả mình trên ghế sofa trong những ngôi nhà không có máu khô đóng vảy trên tường, những người phụ nữ mặc đồ lót trên nền trắng liền mạch. Cái màu trắng ấy, một thiên đường trừu tượng. một màu trắng như vậy có thể tồn tại ở đâu. Nếu cô có tất cả số sơn trắng còn lại trên thế giới, thứ gì sẽ không bị cây cọ của cô chạm đến. Cô nhắm mắt lại và nghĩ về điều đó.

Ban đêm có thể lạnh. Cô giữ cho ngọn lửa cháy và kéo chặt chiếc áo khoác quân đội quanh thân mình, lắng nghe tiếng gió biển rít lên dữ dội qua cây sáo rỗng trong ngôi nhà cao vút của mình.

PHÉP MÀU, hoặc có lẽ là điềm báo, bởi vì buổi sáng sau khi thấy lũ cá phát sáng, cô tìm thấy cái xác trên bãi biển. Cô nhìn thấy nó trong chuyến đi bộ buổi sáng quanh đảo để kiểm tra lưới, cô tìm thấy nó ở mũi phía bắc của dải đất hình giọt nước, gần bãi cạn. Ban đầu nó là một hình thù đen sì trên nền cát trắng, và cô quan sát nó từ xa, giơ ngón tay lên ngang tầm mắt để đo đạc. Quá nhỏ để là một người, trừ khi nó bị gập đôi hoặc bị vùi lấp một nửa. Điều đó có thể lắm.

Cô nhìn quanh. Gió thổi qua đám cỏ trên bờ tạo ra một âm thanh yên bình. Cô ngồi xuống, quan sát cái vật đó và chờ đợi chuyển động. Bãi cạn hôm nay lớn hơn. Nó cứ ngày một lớn hơn. Khi cô mới đến, hòn đảo có vẻ cách đất liền một quãng xa. Cô đã bơi đến đây, dùng một thùng giữ lạnh màu đỏ trắng rỗng để giúp mình nổi trong dòng nước. Đó là chuyện của mấy tháng trước. Kể từ đó, hòn đảo đã lớn hơn, mùa này kéo nước ra xa hơn, xa hơn mỗi đêm, kéo hòn đảo lại gần đất liền hơn. Có một dải đá ngầm nhô ra từ bờ biển đất liền và chỉ về phía hòn đảo, và có những mảng san hô lớn lởm chởm vươn ra theo hướng ngược lại từ hòn đảo. Giống như những ngón tay của Chúa và Adam, và mỗi ngày chúng lại gần nhau hơn khi nước rút đi và vùng nước dọc bãi cạn ngày càng nông hơn. Nhưng nó vẫn có vẻ an toàn. Sóng vỗ vào rạn san hô rất dữ dội và ầm ầm. Bạn sẽ không thể băng qua bãi cạn mà không bị tan xương nát thịt trên đá. Ít nhất là chưa.

Cái hình thù đó không động đậy, nên cô đứng dậy và cẩn thận tiến lại gần. Đó là một người đàn ông, bị chôn úp mặt xuống cát, vạt áo sơ mi flannel của gã quất qua lại trong gió. Có điều gì đó trong cách sắp xếp đôi chân của gã, một đầu gối co lên gần thắt lưng, cho cô biết rằng lưng gã đã gãy. Tóc gã dính đầy cát, móng tay rách nát và thâm tím. Cô lại nhìn quanh. Rồi cô nhấc chân lên và thúc mũi chân vào lưng gã đàn ông. Không có gì xảy ra nên cô lại thúc mạnh hơn. Đó là lúc gã bắt đầu ngọ nguậy. Có những âm thanh nghẹn ngào phát ra từ cổ họng gã, những tiếng gầm gừ và càu nhàu gắng gượng, biểu lộ sự bực dọc và thống khổ hơn là đau đớn hay chịu đựng. Hai cánh tay gã bắt đầu cào cát như thể đang vẽ một thiên thần. Và có một chuyển động quằn quại, gợn sóng chạy qua các cơ bắp trên cơ thể gã, như một món đồ chơi hỏng đang co giật một cách máy móc, lặp đi lặp lại, không thể tự lật lại được.

“Cái bị thịt,” cô nói thành tiếng. Một bàn tay chụp lấy mắt cá chân cô, nhưng cô đá nó ra. Cô ngồi xuống cạnh gã, chống tay ra sau, co chân đạp vào thân mình gã và đẩy cho cái xác lật ngửa lên, để lại một vết lõm méo mó, ướt át trên cát. Một cánh tay vẫn đang vung vẩy, nhưng cánh tay kia bị kẹt dưới lưng nên cô ở lại bên đó và quỳ xuống trên khuôn mặt lộ ra của gã.

Toàn bộ hàm dưới đã biến mất, cùng với một con mắt. Khuôn mặt phồng rộp, đen sì và rách nát. Một mảng da trên xương gò má bị kéo ngược lại và dính đầy cát ướt, để lộ phần xương và sụn trắng vàng bên dưới. Chỗ con mắt từng ở giờ là một đống súp sền sệt gồm chất lỏng trong đặc quánh lẫn với máu, giống như món trứng sốt cà chua. Có một sợi tảo bẹ thò ra từ lỗ mũi khiến gã trông gần như tức cười, như thể ai đó vừa chơi khăm gã. Nhưng sự cân đối trên khuôn mặt gã đã bị biến dạng bởi cái hàm dưới bị mất. Ngay cả những thứ ghê tởm cũng có thể trông toàn vẹn nếu chúng có sự đối xứng, nhưng khi không có hàm, khuôn mặt trông bè ra và cái cổ trông ngớ ngẩn như cổ ngựa. Cô di chuyển các ngón tay qua lại trước con mắt còn lành lặn của gã, và con mắt đảo quanh trong hốc mắt cố gắng theo dõi chuyển động nhưng tiêu điểm cứ giật giật. Sau đó, cô đặt các ngón tay của mình xuống nơi đáng lẽ là cái miệng. Gã có một hàm răng trên, nứt nẻ và giòn vụn, nhưng không có gì ở dưới để cắn vào. Khi cô đặt ngón tay vào đó, cô có thể thấy các gân cơ ẩn sau răng gã co giật theo hình nan quạt. Có những khúc xương trắng sữa nhô ra ở chỗ khớp nối hàm dưới và các dây chằng màu vàng giống như dây cao su căng ra và chùng lại, căng ra và chùng lại, với cử động nhai trong vô thức.

“Mày định làm gì đây,” cô nói. “Cắn tao à? Tao nghĩ là những ngày cắn xé của mày qua rồi, ông bạn.”

Cô rút tay khỏi mặt gã và ngồi lùi lại, nhìn gã. Gã xoay được đầu về phía cô và tiếp tục quằn quại.

“Đừng chống cự nữa,” cô nói. “Lưng mày gãy rồi. Mày chẳng đi đâu được đâu. Đây gần như là ngày tàn của mày rồi.” Cô thở dài và đưa mắt nhìn qua bãi đá ngầm ở phía xa, xa hơn là dải đất liền rộng lớn. “Mà mày đến đây làm gì, cái bị thịt,” cô nói. “Mày ngửi thấy mùi máu con gái trong gió à? Mày thèm lắm phải không? Tao biết mày không bơi đến đây. Quá chậm chạp và ngu ngốc để làm thế.”

Có tiếng ục ục trong cổ họng gã và một con cua xanh chui ra từ đầu khí quản lộ thiên đầy cát rồi bò đi mất.

“Mày biết tao nghĩ gì không,” cô nói. “Tao nghĩ mày đã cố trèo qua những tảng đá đó. Và tao nghĩ mày đã bị những con sóng đó cuốn đi và bị đập cho tan tành ra phết. Tao nghĩ thế đấy. Mày nói sao về chuyện đó?”

Gã đã rút được cánh tay ra khỏi người và vươn về phía cô. Nhưng các ngón tay chỉ cách cô vài phân và cào những luống cày trên cát.

“Chà,” cô nói, “đáng lẽ mày nên ở đây tối qua. Có một vầng trăng to đến mức mày gần như có thể đưa tay lên hái nó khỏi bầu trời. Và lũ cá này, tất cả đều như có điện, lượn vòng quanh mắt cá chân tao. Tuyệt vời lắm, ông bạn. Tao nói cho mày biết, đó là một phép màu nếu trên đời này có phép màu.” Cô nhìn vào con mắt đang đảo tròn và thân mình đang run rẩy. “Có lẽ mày không hứng thú với phép màu cho lắm. Nhưng dù sao đi nữa, mày có thể trân trọng một phép màu mà không cần phải xứng đáng với nó. Tất cả chúng ta đều chịu ơn vẻ đẹp của thế giới, ngay cả những kẻ xấu xa trong chúng ta. Có lẽ những kẻ xấu xa còn hơn thế nữa.” Cô thở dài, một hơi thật sâu. “Thôi,” cô nói, “chắc ông nghe tôi lải nhải đủ rồi. Nghe này, tôi đang nói đủ phần cho cả hai chúng ta đấy. Nói đủ phần cho cả hai. Hiểu không?”

Cô cười với câu đùa của mình, và tiếng cười của cô nhỏ dần khi cô đứng dậy, phủi cát khỏi lòng bàn tay và nhìn ra mặt nước về phía đất liền. Sau đó, cô đi lên một lùm cọ phía trên bãi biển và tìm kiếm trong đám cỏ rậm, dậm chân xung quanh cho đến khi tìm thấy thứ mình cần. Đó là một tảng đá lớn, to hơn một quả bóng bầu dục. Cô mất nửa giờ để dùng một cành cây đào xung quanh và bẩy nó lên khỏi mặt đất. Tự nhiên không thích bị đụng chạm. Rồi cô vác tảng đá xuống bãi biển, nơi gã đàn ông đang nằm gần như bất động. Khi thấy cô, gã lại sống dậy và bắt đầu quằn quại, rùng mình và phát ra những tiếng ục ục trong cổ họng.

“Dù sao thì,” cô nói với gã, “mày là đứa đầu tiên đến được đây. Chắc điều đó cũng đáng kể. Nó khiến mày giống như Christopher Columbus hay gì đó. Nhưng với thủy triều này và tất cả mọi thứ… mày có muốn cá là sẽ có thêm nhiều đứa như mày đến không? Mày có muốn cá là tất cả lũ bạn sên nhớt của mày đang trên đường đến không? Tao nói đó là một vụ cá cược khá chắc ăn đấy.”

Cô gật đầu và lại nhìn ra bãi cạn. “Được rồi,” cô nói, nâng tảng đá lên quá đầu và giáng nó xuống mặt gã với một tiếng vỡ nát ẩm ướt, đặc sệt. Đôi tay vẫn đang chuyển động, nhưng cô biết đôi khi chuyện đó vẫn xảy ra một lúc sau. Cô nhấc tảng đá lên lần nữa và giáng xuống thêm hai lần nữa cho chắc. Sau đó, cô để tảng đá lại đó, như một tấm bia mộ, rồi đi xuống lưới cá của mình và tìm thấy một con cá cỡ vừa trong đó, mang con cá trở lại ngọn hải đăng, nơi cô nướng nó trên lửa và ăn với muối và tiêu. Sau đó, cô leo lên các bậc thang lên đỉnh tháp, đi ra lối đi catwalk và nhìn xa xăm về phía đất liền. Cô quỳ xuống, tì cằm vào lan can kim loại lạnh lẽo và nói.

“Tôi cho là lại đến lúc phải đi tiếp rồi.”
Chương 2:
Đêm đó, dưới ánh lửa, cô lấy ra khỏi cửa hầm những thứ mình đã cất giấu khi mới đến. Thùng giữ lạnh, bi đông nước, khẩu súng lục còn lại hai viên đạn tốt. Lát sau, cô mang con dao găm Gurkha và viên đá mài xuống bãi biển, ngồi trên cát mài lưỡi dao bằng những đường miết dài, trơn tru. Cô dành thời gian cho việc này, ngồi đó dưới ánh trăng gần cả tiếng đồng hồ, cho đến khi có thể cảm nhận vị sắc lẻm của lưỡi dao trên đầu lưỡi. Đó là một lưỡi dao tốt, dài một foot và có độ cong vào trong. Nó rít lên khi cô vung trong không khí.
Đêm đó cô ngủ ngon giấc nhưng tự đánh thức mình dậy ngay trước bình minh và thu dọn đồ đạc. Cô cho dao, súng, bi đông nước và chiếc mũ panama của mình vào thùng giữ lạnh rồi kéo nó xuống bãi biển. Sau đó, cô quay trở lại ngọn hải đăng để nói lời tạm biệt. Thật buồn khi phải rời xa mái nhà của mình, và nơi này đã đối xử rất tốt với cô. Cô cảm thấy mình bé nhỏ như một hạt đậu dưới chân ngọn tháp cao lừng lững ấy. Cô leo lên các bậc thang lần cuối cùng để lên lối đi catwalk và nhìn mình trong hàng ngàn tấm gương nhỏ của ngọn đèn đã chết. Mái tóc cô dài và lơ thơ, cô lấy một sợi dây thun và buộc nó lại phía sau. Rồi cô thò tay vào, dùng ngón tay nạy lỏng một trong những tấm gương nhỏ và bỏ vào túi làm kỷ niệm cho thời gian ở đây. Sự thật mà nói, cô không khoái cái trò nhìn vào nội tâm cho lắm. Nhưng có những bí mật ẩn nấp trong tâm trí, và cô không muốn bất kỳ bí mật nào trong số chúng lén lút tấn công mình. Đôi khi, việc nhìn sâu vào bên trong cũng đáng giá, ngay cả khi bạn thấy buồn nôn khi nhìn vào những góc tối đó. Trở lại chân tháp, cô đi ra ngoài và đóng sầm cửa lại, kéo chặt sau lưng để gió không thổi tung nó ra và làm xáo trộn mọi thứ bên trong. Thật là một ý nghĩ ấm lòng khi hình dung nó vẫn y nguyên sau khi cô đã rời đi.

Cô đứng ở chân tháp và ngửa cổ nhìn lên. "Tạm biệt nhé, ngọn tháp già tốt bụng," cô nói. "Hãy cứ đứng vững nhé. Hãy chăm sóc cho bất cứ ai định cư trong mày tiếp theo, dù sống hay chết, dù là tội nhân hay thánh nhân." Cô gật đầu. Đó là một điều hay để nói, cô nghĩ, như một lời ban phước, một lời chúc rượu, một lời chúc sinh nhật hay một bài điếu văn, và cô biết rằng lời nói có sức mạnh biến mọi thứ thành sự thật nếu được nói ra đúng cách.

DƯỚI BÃI BIỂN, cô cởi trần truồng, cho tất cả quần áo và giày dép của mình vào thùng giữ lạnh cùng với mọi thứ khác và đóng nắp chặt nhất có thể, giậm chân lên xuống vài lần. Cô kéo nó ra sóng cho đến khi nó bắt đầu tự nổi lên trong dòng nước. rồi cô đẩy nó ra trước mặt mình và đưa nó qua những con sóng bạc đầu cho đến khi cô vượt qua chúng và cả những con sóng cồn. Cô bơi về phía đất liền, giữ khoảng cách xa bãi cạn để dòng nước không kéo cô vào đá. Cô vòng tay quanh thùng giữ lạnh và đập chân, và khi mệt, cô dừng lại, thả nổi và để mắt đến đất liền để xem dòng nước đang đưa mình đi về hướng nào. Có một làn gió lướt trên mặt nước, làm da ướt của cô nổi da gà, nhưng vẫn tốt hơn là cố bơi vào giữa trưa khi mặt trời ở ngay trên đỉnh đầu và làm bạn khô quắt lại như một con thằn lằn. Cô không có cách nào để biết thời gian, nhưng cô không phải là người bơi nhanh và có cảm giác như mất một giờ đồng hồ trước khi cô đến được đất liền, kéo thùng giữ lạnh lên bãi biển và ngồi trên một tảng đá vắt nước muối ra khỏi tóc và làm khô da trong làn gió buổi sáng.

Bãi biển hoang vắng, cô mở thùng giữ lạnh, lấy ra một chiếc ống nhòm đơn nhỏ và leo lên một dãy bậc thang bê tông vỡ dẫn đến một bãi đỗ xe rải sỏi nhìn ra bờ biển để nắm bắt địa hình. Có hai chiếc ô tô đậu dưới đường và vài túp lều lụp xụp ở phía xa. In trên đường chân trời, cô có thể thấy vài con sên. Chúng chưa đánh hơi thấy cô, và chúng đang đi khập khiễng theo cái kiểu giật cục ngẫu nhiên của chúng. Cô cúi thấp đầu và lại tập trung ống nhòm vào hai chiếc ô tô. Một trong số đó là một chiếc jeep, chiếc còn lại là một chiếc xe hơi màu đỏ lùn tịt có hai cửa. Tất cả các bánh xe có vẻ còn nguyên vẹn theo những gì cô có thể thấy.

Trở xuống bãi biển, cô dùng ngón tay chải tóc và qua màn tóc, cô có thể thấy một bóng người trên bờ ở phía xa. Cô không cần ống nhòm, cô có thể nhận ra qua cái cách nó di chuyển lù lù. Lũ sên. Cô gỡ xong những mớ tóc rối và buộc thành đuôi ngựa. Sau đó, cô lấy quần áo từ thùng giữ lạnh và mặc vào. Con sên đã phát hiện ra cô và đang hướng về phía cô, nhưng chân nó liên tục vấp phải cát. Cô rút ống nhòm ra và nhìn qua. Người phụ nữ đã chết mặc đồng phục y tá. Áo của bà ta màu xanh y tế, nhưng quần lại có màu sắc sặc sỡ, giống như quần ngủ. Temple không thể nhận ra hoa văn là gì, nhưng trông nó có thể là những cây kẹo mút. Cô đóng ống nhòm lại và cất vào túi. Sau đó, cô quay lại thùng giữ lạnh và lấy khẩu súng lục ra, kiểm tra các viên đạn để chắc chắn rằng chúng không bị ướt, rồi đeo con dao găm Gurkha đã tra vỏ, treo trên thắt lưng và buộc vào đùi bằng hai sợi dây da. Khi cô làm xong, người y tá đã cách đó hai mươi yard, hai tay vươn ra trước mặt. Bản năng ham muốn. Đói, khát, dục vọng, tất cả những thôi thúc còn sót lại quyện vào làm một trong cái dạ dày sôi sục, lảo đảo. Temple nhìn người y tá lần cuối, rồi quay người và leo lên những bậc thang bê tông hướng lên con đường. Những con sên khác vẫn còn ở xa, nhưng cô biết chúng sẽ sớm nhìn thấy cô, và rằng một vài con có xu hướng nhanh chóng biến thành một bầy rồi một đàn. vì vậy, cô đi thẳng đến chỗ những chiếc xe đang đậu và mở cửa chiếc xe nhỏ màu đỏ. Chìa khóa vẫn còn trong ổ, nhưng động cơ đã chết. Cô tìm chìa khóa trong chiếc jeep và không thấy, nhưng có một chiếc tuốc nơ vít dưới ghế trước, nên cô dùng nó để giật tung lớp vỏ bọc quanh ổ khóa và nạy cái nắp trên trụ đánh lửa. Sau đó, cô mò mẫm tìm cái rãnh ở cuối trụ, cắm đầu tuốc nơ vít vào đó và xoay. Động cơ ho vài tiếng rồi khởi động, các đồng hồ trên bảng điều khiển sống lại. "Được rồi," Temple nói. "Đúng là lộc cho con bé này. Nửa bình xăng nữa chứ. Coi chừng nhé, thế giới rộng lớn kia, chuẩn bị bị ta cày nát đây."

THẾ GIỚI khá giống với những gì cô nhớ, tất cả đều cháy rụi và nhợt nhạt, như thể ai đó đã cầm một miếng bọt biển đến và hút hết màu sắc lẫn hơi ẩm, để lại mọi thứ xám xịt và khô cong như xương. Nhưng cô cũng vui khi được trở lại. Cô đã nhớ các công trình của con người, những thứ khá kỳ diệu khi bạn suy ngẫm về chúng. Những tòa nhà gạch cao tầng với tất cả các phòng nhỏ, tủ quần áo và cửa ra vào, giống như những tổ kiến hoặc tổ ong bắp cày khi bạn phá vỡ lớp vỏ giấy của chúng. Có lần cô đã ở Orlando, khi còn bé, và cô nhớ đã đứng dưới chân một tòa nhà cao kinh khủng này và nghĩ rằng nền văn minh chắc hẳn có những con người cừ khôi đang làm việc để thúc đẩy nó, rồi cô đá vào chân tòa nhà để xem liệu cả công trình có đổ sụp không, và thấy rằng nó không đổ và sẽ không bao giờ đổ.

Ở thị trấn đầu tiên cô đến, cô phát hiện một cửa hàng tiện lợi ở góc đường và lái xe lên vỉa hè trước cửa hàng. Vùng sâu của lũ sên. Lũ bị thịt lảng vảng khắp nơi cô nhìn, nhưng chúng tản ra, vậy chắc hẳn không có gì để chúng săn lùng ở quanh đây. Và chúng chậm chạp, một số thậm chí còn đang bò. Đã lâu không có gì ăn, cô đoán vậy. Nơi này đã bị bỏ đi rồi. cô sẽ phải đi xa hơn về phía bắc.

Nhưng trước tiên, cô vào cửa hàng tiện lợi. Cô phát hiện ra cả một hộp bánh quy bơ đậu phộng mà cô thích, loại bánh kẹp với bánh quy phô mai màu cam sáng. Cô xé một gói và ăn ngay tại cửa hàng, đứng ở cửa sổ và nhìn lũ sên nhích từng chút về phía mình. Cô nghĩ về chế độ ăn uống của mình trên đảo. "Chẳng có con cá nào bơi dưới đại dương," cô nói, "có thể ngon bằng mấy cái bánh quy này." Cô lấy phần còn lại của hộp bánh và một lốc hai mươi tư lon Coke, vài chai nước, ba hộp khoai tây chiên Pringles, vài hộp ớt và súp, vài hộp mì ống và phô mai, và một vài thứ khác nữa: một chiếc đèn pin và pin, một bánh xà phòng phòng khi có cơ hội tắm rửa, một bàn chải và kem đánh răng, một cây lược, và cả một cuộn vé số cào vì cô thích xem mình đã có thể trở thành triệu phú đến mức nào trong thời xưa. Cô kiểm tra sau quầy hàng xem có súng hay đạn không, nhưng không có gì. Rồi cô nhận thấy lũ sên đang đến gần hơn, nên cô chất chiến lợi phẩm lên ghế hành khách của xe và lên đường trở lại. Khi ra khỏi thị trấn, trên một đoạn đường hai làn xe kéo dài, cô mở một lon Coke và một gói bánh quy bơ đậu phộng khác, có vị như một thiên đường màu cam mờ ảo. Trong khi ăn, cô nghĩ về việc Chúa đã thông minh thế nào khi khiến lũ bị thịt không quan tâm đến thức ăn thật để còn lại nhiều cho những người bình thường. Cô nhớ lại một câu chuyện cười cũ khiến cô mỉm cười: câu chuyện về gã bị thịt được mời đến một tiệc cưới. Cuối buổi tiệc, họ thừa ra gấp đôi thức ăn và mất đi một nửa số khách. Cô cười khúc khích, và con đường thì dài.

CÔ ĐI theo con đường ven biển một lúc, những cây cọ xù xì ở khắp mọi nơi và cỏ biển mọc um tùm len lỏi qua những vết nứt trên đường, rồi cô rẽ vào đất liền để thay đổi không khí. Cá sấu. Cô chưa bao giờ thấy nhiều cá sấu như vậy trước đây. Chúng đang phơi mình trên lớp nhựa đường đen của xa lộ, và khi cô đến gần, chúng lén lút tránh đường một cách chẳng vội vã gì. Có những thị trấn khác, nhưng vẫn không có dấu hiệu của sự sống bình thường. Cô bắt đầu tưởng tượng mình là người cuối cùng còn lại trên hành tinh này với tất cả lũ bị thịt. Điều đầu tiên cô sẽ làm là tìm một tấm bản đồ và lái xe khắp đất nước để ngắm cảnh. Cô sẽ bắt đầu ở New York và sau đó phiêu lưu một mạch đến San Francisco, nơi có những ngọn đồi dốc để lái xe. Cô có thể tìm một con chó hoang hoặc thuần hóa một con sói và cho nó ngồi cạnh mình, thò đầu ra ngoài cửa sổ, và họ có thể tìm một chiếc xe có ghế ngồi thoải mái và hát hò trong khi lái xe. Cô gật đầu. Đó sẽ là một điều đúng đắn.

Mặt trời lặn, và cô bật đèn pha, một trong số chúng vẫn còn hoạt động nên cô có thể nhìn thấy con đường phía trước nhưng theo một cách lệch lạc. Có một vài ánh đèn ở phía xa, một vầng sáng trên đường chân trời chắc hẳn là một thành phố, và cô lái xe theo hướng của vầng sáng đó. Nhưng trên đường vào ban đêm, bạn bắt đầu có những suy nghĩ đơn độc xấu xí. Cô nhớ, chắc phải năm năm trước, đang lái xe qua Alabama với Malcolm ngồi ở ghế bên cạnh. Cô lúc đó còn rất nhỏ, chắc chắn là vậy, vì cô nhớ mình đã phải đẩy ghế về phía trước hết cỡ, và ngay cả khi đó cô vẫn phải ngồi nhấp nhổm trên mép ghế để với tới bàn đạp. Và Malcolm thậm chí còn nhỏ hơn. Malcolm đã im lặng một lúc lâu. Cậu bé thích nhai loại kẹo cao su quá ngọt đối với cô, và cậu thích cho hai miếng vào miệng cùng một lúc. Một lúc, cô có thể nghe thấy tiếng cậu nhai bên cạnh mình, rồi im lặng, và cậu chỉ nhìn ra ngoài cửa sổ vào khoảng không đen kịt. "Chú Jackson sao rồi ạ?" Malcolm nói. "Chú đi rồi," cô nói. "Chúng ta sẽ không gặp lại chú nữa đâu." "Chú nói chú sẽ dạy con cách bắn súng." "Chị sẽ dạy em." "Dù sao thì chú cũng không phải là chú ruột của em." Để xua đi ký ức khỏi đầu, cô hạ cửa sổ xuống và để gió đùa trong tóc. Khi điều đó không hiệu quả, cô quyết định hát một bài hát ngắn mà cô từng thuộc lòng và phải mất một lúc để nhớ lại tất cả các phần của nó.

Oh, mairzy doats and dozy doats and liddle lamzy divey,
Yes, mairzy doats and dozy doats and liddle lamzy divey,
A kiddley divey doo, wouldn’t you.
A kiddley divey doo, wouldn’t you.

Chiếc xe chết máy trên một đoạn đường quê dài, và cô tấp vào lề và mở nắp capo để xem. Có lẽ là do bơm xăng, nhưng cô không thể chắc chắn nếu không chui xuống gầm xe và chọc ngoáy, và động cơ còn quá nóng để làm bất cứ điều gì trong một lúc. Và dù sao thì cô cũng không có dụng cụ nào để chọc ngoáy, nhưng cô có thể thấy một ngôi nhà lùi xa khỏi con đường, đi xuống một lối đi nhỏ bằng đất, và có thể có dụng cụ ở đó. Cô nhìn vào đường chân trời tối tăm về phía những ánh đèn thành phố. Khoảng cách rất khó xác định vào ban đêm, có thể cô sẽ đi bộ đến đó vào buổi sáng. Tuy nhiên, ngôi nhà đó. Nó có thể chứa thứ gì đó đáng giá. Cô đã rời xa cuộc chơi này một thời gian dài và cô đang cảm thấy táo bạo, và dù sao thì cô cũng muốn có thứ gì đó để xao lãng khỏi những ký ức ban đêm của mình. Vì vậy, cô buộc con dao găm Gurkha vào đùi và dắt khẩu súng lục vào cạp quần, hai viên đạn, chỉ sử dụng trong trường hợp khẩn cấp, rồi lấy đèn pin và đi bộ lên con đường đất nện dẫn đến ngôi nhà, nơi cô đã sẵn sàng để đá tung cửa vào ngoại trừ việc cô không cần phải làm thế vì nó đang mở toang.

Có một mùi hôi thối trong nhà, và cô nhận ra nó. Mốc thịt. Có thể là xác chết hoặc có thể là sên. Dù thế nào đi nữa, cô tự nhủ phải thở bằng miệng và làm cho nhanh. Cô tìm đường đến nhà bếp, nơi có một chiếc bàn formica bị lật và rỉ sét cùng giấy dán tường bong tróc với hoa văn dây dâu tây. Do độ ẩm, những mảng nấm mốc màu xám xanh có lông đang mọc ở khắp mọi nơi. Cô mở từng ngăn kéo một để tìm ngăn đựng dụng cụ nhưng không có gì. Cô nhìn ra cửa sổ sau. Không có nhà để xe. Có một cánh cửa trong nhà bếp, cô mở nó ra và tìm thấy những bậc thang gỗ dẫn xuống lòng đất. Cô đợi ở đầu cầu thang một lúc, lắng nghe bất kỳ âm thanh nào trong nhà, rồi từ từ đi xuống.

Dưới tầng hầm có một mùi khác, giống như amoniac, và cô lia đèn pin quanh một chiếc bàn ở giữa phòng bừa bộn chai lọ, bếp cồn, ống cao su và một trong những chiếc cân kiểu cũ có một tay đòn dài ở một bên. Một số chai chứa đầy một nửa chất lỏng màu vàng. Cô đã thấy kiểu sắp đặt này trước đây. Phòng lab ma túy đá. Chúng rất phổ biến vài năm trước khi một số người lợi dụng sự xao lãng do lũ sên gây ra. Cô tìm thấy một bàn làm việc dựa vào tường và lục lọi tìm một chiếc tuốc nơ vít đầu Phillips và một chiếc cờ lê, nhưng thứ cô thực sự tìm kiếm là một cây kìm. Cô đặt đèn pin xuống mặt bàn nhưng nó lăn đi và rơi xuống sàn, nơi nó nhấp nháy một lần nhưng vẫn sáng. May mắn thay, cô sẽ không muốn phải mò mẫm đường trở lại xe. Nhưng khi cô quay lại, cô thấy một thứ mình đã bỏ lỡ trước đó. Cạnh cầu thang, có một tủ dụng cụ, và trong khi cô quan sát, cánh cửa tủ, được chiếu sáng trong ánh sáng mờ của đèn pin, rung lên một lần rồi bật tung ra như thể có ai đó đã ngã vào nó.

Rồi cô có thể ngửi thấy nó, mùi thịt thối rữa, giờ đây nồng nặc hơn nhiều; trước đó nó đã bị che lấp bởi mùi amoniac của phòng thí nghiệm.

Chúng loạng choạng bước ra khỏi tủ dụng cụ, ba con, hai người đàn ông mặc yếm dài tóc và một người phụ nữ chỉ mặc một chiếc váy ngủ sa tanh, đã bị xé toạc để lộ một bên ngực khô quắt. Temple đã quên mất chúng hôi thối đến mức nào, cái hỗn hợp bùn lầy của mùi ẩm mốc và thối rữa, dầu mỡ và phân ôi thiu. Cô thấy một dòng phân lỏng chảy ướt át xuống phía sau chân người phụ nữ. Chúng hẳn đã ăn gần đây, nên chúng sẽ rất khỏe. Và chúng đang đứng giữa cô và cầu thang. Cô đặt tay lên khẩu súng lục và cân nhắc. Hai viên đạn cuối cùng của cô. Không đáng. Thay vào đó, cô rút phắt con dao găm Gurkha ra khỏi vỏ và đá vào gã đàn ông phía trước, khiến hắn ngã sầm xuống sàn xi măng. Cô vung dao và cắm ngập nó vào sọ của gã đàn ông thứ hai, đôi mắt hắn lác đi một cách ngớ ngẩn trước khi khuỵu xuống. Nhưng khi cô cố gắng rút lưỡi dao ra, nó đã bị kẹt, bị giữ chặt trong những đường khớp của xương ướt.

Rồi người phụ nữ đã tóm lấy cổ tay cô trong một cái nắm chặt đầy thịt. Cô có thể cảm thấy những móng tay giòn vụn cắm vào da mình. "Bỏ tay tao ra," Temple nói. Cô không thể rút con dao ra khỏi đầu gã đàn ông, vì vậy cô buông nó ra và nhìn cái xác ngã ngửa ra sau với lưỡi dao của cô vẫn còn cắm trong đó.

Người phụ nữ đang cúi xuống để cắn một miếng vào vai cô, nhưng Temple đấm mạnh vào đầu con sên, một lần, rồi hai lần, rồi lần thứ ba, cố gắng làm cho bộ não choáng váng thoát khỏi bản năng của nó. Nhưng bây giờ gã đàn ông kia đã đứng dậy và đang lao về phía cô, vì vậy cô xoay người phụ nữ lại để chặn giữa chúng và gã đàn ông lao vào cả hai với một cái ôm kiểu gấu khiến Temple ngã ngửa vào bàn làm việc. Mùi hôi, khi chúng đè lên cô, thật không thể chịu nổi, và mắt cô ngập trong nước làm mờ tầm nhìn. Cô với tay ra sau và mò mẫm tìm bất cứ thứ gì và vớ được một chiếc tuốc nơ vít, cô nắm chặt và đâm vào cổ gã đàn ông. Hắn buông ra và lảo đảo lùi lại, nhưng góc của chiếc tuốc nơ vít đã sai, nó đâm thẳng qua thay vì hướng lên não, vì vậy hắn bắt đầu đi vòng tròn, phát ra những tiếng ục ục ướt át và đóng mở hàm. Người phụ nữ đang giữ cổ tay Temple lại mở miệng như thể muốn cắn một miếng vào má cô, nhưng Temple lại xoay bà ta một vòng và đập cẳng tay của bà ta vào cạnh bàn làm việc khiến nó gãy răng rắc và cái nắm trên cổ tay cô lỏng ra. Sau đó, cô cúi xuống và di chuyển đến cái xác, đặt một chân lên mặt hắn để lấy đà, và dùng cả hai tay nạy con dao Gurkha của mình ra. Người phụ nữ đang ở ngay sau cô, nhưng điều đó không quan trọng. Temple vung mạnh và chuẩn xác, và lưỡi dao vút qua cổ một cách ngọt lịm và chém bay cái đầu. Gã đàn ông cuối cùng đang bị phân tâm, vụng về cào cấu chiếc tuốc nơ vít trong cổ họng. Temple di chuyển ra sau lưng hắn để lấy hơi. Tóc hắn dài và lơ thơ với những mảng sơn trong đó như thể ngôi nhà đã đổ nát lên đầu hắn. Cô nâng dao lên và giáng mạnh xuống, hai nhát chém nhanh gọn như cô đã học từ lâu: một để làm nứt sọ và nhát còn lại để bổ đôi bộ não.

Cô nhặt chiếc đèn pin từ dưới sàn nhà, giờ đã trơn trượt vì máu và phân. Sau đó, cô tìm một phần sạch sẽ trên chiếc váy ngủ của người phụ nữ, xé nó ra và dùng nó để lau sạch con dao Gurkha của mình. "Điệu tango của lũ bị thịt," cô nói. "Đúng là một mớ bầy hầy kinh tởm."

THẤY CHƯA, thế giới này có một thứ âm nhạc của riêng nó, và bạn phải lắng nghe nếu không chắc chắn sẽ bỏ lỡ. Giống như khi cô bước ra khỏi ngôi nhà và không khí ban đêm terasa mơ màng lạnh lẽo trên khuôn mặt cô, và nó có mùi tinh khiết của một vùng đất trong lành vừa mới bắt đầu. Giống như một thứ gì đó cũ kỹ, bụi bặm và tan vỡ đã được dọn khỏi kệ để nhường chỗ cho một thứ gì đó lấp lánh mới toanh. Và đó là tâm hồn bạn khao khát được di chuyển và trở thành một phần của nó, bất kể nó là gì, được ở ngoài kia trên những đồng bằng muội than, nơi kẻ sống ngã xuống và kẻ chết trỗi dậy, rồi kẻ chết lại ngã xuống và kẻ sống lại trỗi dậy như vòng tuần hoàn của sự sống mà cô đã từng cố gắng giải thích cho Malcolm. "Đó là một điều của tự nhiên," cô đã nói với cậu bé trong khi cậu nhai viên kẹo cứng mà cậu đã giấu trong má. "Đó là một điều của tự nhiên và tự nhiên không bao giờ chết. Chị và em, chúng ta cũng là tự nhiên, ngay cả khi chúng ta chết." Nó là về những linh hồn và bầu trời rộng mở và những vì sao sáng rực một cách điên cuồng ở khắp mọi nơi bạn nhìn, và vì vậy cô quyết định lấy một vài thứ từ chiếc xe và cuốc bộ quãng đường còn lại về phía những ánh đèn trên đường chân trời.

Và chẳng bao lâu sau cô nhìn thấy một biển báo đường và chiếu đèn pin vào nó, những con chữ cô không thể giải mã được và chúng không giống tên của bất kỳ thành phố nào cô đã từng đến mà cô có thể nhớ lại, nhưng con số là 15. Và nếu nó có một dấu vân tay ánh sáng trên bầu trời có thể nhìn thấy từ khoảng cách mười lăm dặm thì nó hẳn không phải là một thị trấn nhỏ, và đó là nơi dành cho cô, một nơi mà cô có thể làm quen với một vài người và cập nhật tình hình trên trái đất xanh tươi của Chúa và có lẽ được uống một lon soda lạnh có đá. Và mười lăm dặm, chẳng là gì cả. Đó là ba, bốn giờ đồng hồ của cảnh đêm và những suy tư sâu lắng, mát lành, trừ đi những ý nghĩ buồn bã. Cô sẽ đến đó kịp giờ ăn sáng.
 
Sửa lần cuối:
Chương 3.1
Những con phố vắng tanh, chỉ còn vài con sên và chó hoang. Thành phố quá rộng để rào chắn, những đại lộ của nó ngoằn ngoèo quá khó để tuần tra, nhưng Temple nghĩ rằng, điện vẫn được duy trì cho ai đó chứ không phải chỉ để chiếu sáng cho lũ sên. Những cư dân hẳn đang ẩn náu đâu đó. Cô trèo lên một tấm biển quảng cáo bên lối vào đường cao tốc và nhấm nháp một gói bánh quy bơ đậu phộng trong lúc quét mắt qua đường chân trời. Trên đường đi về phía bắc, cô đã đi qua một khu cộng đồng ven biển nơi mọi tòa nhà đều bóng loáng và sơn màu pastel dịu dàng. Con phố chính lộn xộn với những nhà hàng từng có chỗ ngồi ngoài trời trên vỉa hè rộng thênh thang. Những nơi mà giới nhà giàu trong áo sơ mi màu kem hẳn từng nhấm nháp cocktail. Giờ thì hầu hết cửa kính lớn đã vỡ tan, phản chiếu trắng xóa của mặt trời chiếu sáng những mảnh thủy tinh lởm chởm như nanh vuốt quanh khoảng tối đen ngòm của nội thất. Sơn màu pastel bong tróc từng mảng, để lộ bê tông mục nát bên dưới. Và trước một số nhà hàng, những bộ bàn ghế sắt rèn từng được chất đống thành rào chắn phòng thủ, nhưng giờ đã bị phá vỡ từ lâu. Đó từng là một thị trấn xinh đẹp, cô nghĩ, dù trống rỗng đến thế. Có lẽ một ngày nào đó cô sẽ quay lại. Nhưng đó là một thị trấn thấp, không tòa nhà nào cao quá sáu tầng. Không giống như thành phố mà giờ cô đang nhìn ngắm, khu trung tâm của nó, từ chỗ cô ngồi, trông như một lâu đài trên đồi, với những ngọn tháp bạc lấp lánh và vẻ uy nghi kim loại. Cô trèo xuống khỏi tấm biển và đi bộ thêm mười lăm phút về phía những tòa nhà cao tầng của trung tâm, nơi những bóng dài trải rộng từ vỉa hè này sang vỉa hè kia, và cảm giác dễ chịu trên làn da nóng bỏng của cô. Cô tìm thấy một cửa hàng trang sức và đứng rất lâu, nhìn chăm chú qua cửa kính. Có những món đồ trang sức phủ bụi treo quanh những chiếc cổ nhung giả, và những chiếc nhẫn nằm sâu trong những hộp nhỏ xinh xắn. Vô nghĩa. Những vật thể này từng đo lường giá trị trong một kỷ nguyên đã mất. Cô từng biết những người trong quá khứ sưu tầm chúng, tích trữ chúng để chống chọi với một tương lai được khôi phục về vinh quang của nền kinh tế đồ chơi. Họ cất chúng trong những hộp nhỏ đựng trong hộp lớn hơn, rồi hộp lớn hơn nữa, và họ ngồi trầm ngâm trên chúng như những vị vua ghen tị. Nhưng có một thứ mà Temple không ngại giữ trong túi để thỉnh thoảng sờ vào và cảm nhận. Một mặt dây chuyền hồng ngọc hình giọt nước mắt, giống như hòn đảo của cô. Nó có khung vàng gắn với dây chuyền, nhưng nếu là của cô, cô sẽ xé toạc những phần kim loại và chỉ giữ lại viên đá, lăn qua lăn lại giữa các ngón tay. Nhìn ngắm nó, cô thấy một chuyển động phản chiếu trong kính cửa hàng, một hình dáng đang tiếp cận cô từ phía sau. Không suy nghĩ, cô rút dao gurkha ra khỏi bao và xoay người, giơ cao nó qua đầu, sẵn sàng bổ xuống. Và đó là lúc cô thấy nòng súng trường chĩa thẳng vào mặt mình.

"Ối, bình tĩnh nào, ông bạn," cô nói và hạ lưỡi dao xuống. "Tôi đang chuẩn bị chặt ông vì tưởng ông là lũ sên. Ý ông là sao mà lén lút tiếp cận người ta thế."

Ngay khi nghe cô nói, người đàn ông hạ súng xuống. "Tôi tưởng cô là một trong số chúng," anh ta nói. "Cô đứng đó lâu thế mà chẳng làm gì cả."

"Xin lỗi vì đã ngắm nghía một chút."

Anh ta nhìn quanh, một người đàn ông điển trai, khoảng ba mươi tuổi, cô đoán vậy, với mái tóc vàng thẳng mượt rơi vào mắt. Anh ta mới cạo râu sạch sẽ và có vẻ tỉnh táo khiến cô nghĩ đến một con mèo hay một con gặm nhấm, một loài động vật luôn co rúm sẵn sàng chạy trốn. "Ở đây không an toàn," anh ta nói với Temple. "Đi với chúng tôi đi."

"Chúng tôi là ai, chàng trai vàng?"

Ngay lập tức, anh ta thổi hai ngón tay vào miệng và huýt sáo, và từ quanh các góc tòa nhà và từ các con hẻm lao ra một đội quân nhỏ của đàn ông. Có lẽ khoảng mười hai người cả thảy. Và họ vây quanh cô.

Một người đàn ông đeo kính tiếp cận cô và bắt đầu kiểm tra cánh tay và da cổ cô. "Cô có bị thương không?" anh ta hỏi. "Có bị cắn ở đâu không?"

"Tôi khỏe re. Bỏ tôi ra."

Anh ta đặt cả hai tay lên hai bên đầu cô và nhìn vào đồng tử mắt cô. Rồi anh ta quay sang người đàn ông tóc vàng. "Cô ấy trông ổn. Chúng ta có thể kiểm tra đầy đủ khi về đến nơi."

"Không đâu nếu anh thích thở," cô nói.

"Đi với chúng tôi," người đàn ông tóc vàng nói. "Chúng tôi sẽ chăm sóc cô. Cô sẽ ổn thôi. Cô có đá lạnh không?"

"Gì cơ?"

"Cô có đá lạnh để bỏ vào đồ uống không?"

"Chúng tôi có tủ đông, vâng."

"Ừ, vậy thì. Dẫn đường đi, ông bạn."

Họ dẫn cô qua những tòa tháp cao vút của trung tâm, bắn chết vài con sên vào đầu trên đường đi. "Để kiểm soát dân số," người đàn ông tóc vàng giải thích, tên anh ta là Louis. Louis dẫn đầu nhóm, và những người khác theo sau, quét mắt khắp hướng. Temple đi theo, nhưng lệch sang một bên, giữ khoảng cách cố định giữa mình và những người khác. Có một người đàn ông mà cô không thích vẻ ngoài của hắn. Hắn gầy guộc và có mái tóc dầu nhờn được giữ bằng mũ bóng chày. Và hắn dường như bị cô phân tâm. Cô có thể thấy ánh mắt hắn trên mình, nặng nề, phản chiếu trong những cửa sổ cửa hàng tối tăm. Cô chậm bước và tụt về cuối nhóm để cố tránh hắn, nhưng hắn cũng làm y vậy cho đến khi họ cùng ở đuôi đoàn. "Tên tôi là Abraham," hắn nói với cô. "Tên cô là gì?"

"Sarah Mary."

"Sarah Mary gì?"

"Sarah Mary Williams. Cô bao nhiêu tuổi, Sarah Mary?"

"Hai mươi bảy."

Hắn nhìn cô từ trên xuống dưới, ánh mắt nấn ná với một nụ cười nhếch mép trên từng phần cơ thể cô. "Cô không phải hai mươi bảy," hắn nói. "Chứng minh đi."

"Anh trai tôi Moses bảo tôi có trực giác về sự thật và dối trá. Hắn bảo tôi có thể ngửi thấy kẻ dối trá ở khoảng cách trăm thước. Đó là tài năng bí mật của tôi. Tôi có thể ngửi thấy cô, Sarah Mary."

Cô nhìn thẳng phía trước, nghiến răng và nghĩ về một ly Coke cao đầy đá từ trên xuống dưới với ống hút uốn cong. "Để xem," hắn tiếp tục. "Tôi đoán cô mười sáu, mười bảy là cùng. Tôi đã sống được vài năm. Không đoán được bao nhiêu. Cô từ đâu đến, Sarah Mary?"

"Phía nam đây."

"Thấy chưa, đó là cách tôi biết cô không thành thật với tôi. Không có gì ở phía nam đây cả. Đó là lãnh thổ lũ bò sát suốt xuống tận Keys."

Cô có thể cảm nhận ánh mắt hắn trên mình, cố len lỏi dưới lớp quần áo và ép sát vào da cô. "Vậy chuyện của cô là gì, Sarah Mary? Cô chạy trốn khỏi bạn trai à? Tìm ai đó chăm sóc cô? Cô có thể kể thật với tôi. Tôi sẽ đảm bảo cô ổn."

Cô cắn môi trong để giữ im lặng và chạy bộ lên phía người dường như là thủ lĩnh, Louis. "Dù sao chúng ta đang đi đâu vậy?" cô hỏi.

"Nhìn lên đi," anh ta nói.

Phía trên cô là bốn tòa tháp giống hệt nhau, mỗi tòa chiếm trọn một khối phố. Có các cửa hàng bán lẻ ở tầng trệt và có lẽ là văn phòng kinh doanh ở các tầng còn lại. Bốn tòa nhà được nối liền, khoảng tầng sáu, bằng những cây cầu đi bộ kín đáo để tạo thành một khu phức hợp khép kín khổng lồ. Có thể an toàn chứa một nghìn người trong một cấu trúc như vậy. Louis dẫn nhóm vòng quanh một tòa nhà đến con hẻm phía sau nơi bê tông lún xuống một bến xếp hàng. Họ tiếp cận một cánh cửa nhỏ bên cổng thép và nhìn quanh một lần để chắc chắn không có lũ sên theo sau. Rồi Louis nhanh chóng mở khóa cửa và thúc những người khác vào trong.

"Đây là pháo đài của các anh à?" Temple hỏi.

Khi mọi người đã vào, anh ta đóng cửa, khóa và chốt lại. "Đây là pháo đài của chúng tôi," anh ta nói.

HỌ GIAO cô cho một người phụ nữ tên Ruby, người cho cô ăn và đưa quần áo mới từ cửa hàng bách hóa bị rào chắn ở tầng trệt của một trong những tòa nhà, và chỉ cho cô một chỗ ngủ ở tầng mười sáu nơi các văn phòng đã được cải tạo thành nhà ở. Ruby cố mặc cho cô một chiếc váy gingham màu xanh da trời, nhưng Temple khăng khăng đòi quần cargo giống như cái cô đang mặc trừ việc không rách và không dính đầy máu khô nâu. Ruby kiểm tra chúng khi Temple đưa ra từ phòng thay đồ, và người phụ nữ lắc đầu và tặc lưỡi như một loài chim sa mạc nào đó. "Cô bé tội nghiệp," Ruby nói. "Chắc hẳn con đường đến đây khó khăn lắm với cô."

"Con đường thì ổn," Temple đáp. "Vấn đề là lũ da thịt."

"Ôi thế giới này..." Có vẻ như Ruby muốn nói thêm về chủ đề đó, nhưng cô ta ngắt lời như thể nỗi tuyệt vọng đã lấn át.

"Này," Temple nói. "Các chị có đá lạnh ở đây, phải không? Tôi đang nghĩ một ly Coke đá cao ngất sẽ tuyệt vời ngay lúc này."

Vậy nên Ruby mang cho cô một ly Coke với đá và hai người đi xuống xem bọn trẻ chơi ở một trong những sảnh. Một bộ xích đu và cầu trượt nhựa đã được kéo từ một cửa hàng bách hóa, và những ô nhảy lò cò được vẽ trên sàn bằng phấn. "Chúng tôi còn có trường học nữa," Ruby giải thích. "Chị tôi Elaine điều hành. Sáu ngày một tuần vào buổi sáng. Giáo dục là điều quan trọng nhất, tất nhiên rồi. Để chúng tôi có thể tái xây dựng khi tất cả chuyện này kết thúc. Cô có đi học không?"

"Tôi học được vài thứ. Tôi chỉ là một cô gái trẻ khi mọi thứ bắt đầu. Tôi đoán cô thậm chí chưa sinh ra."

"Không, thưa bà. Thế giới này hẳn trông lạ lùng với cô."

"Không, thưa bà. Không."

"Thế giới, nó đối xử tử tế với cô chừng nào cô không chống lại nó."

Ruby nhìn Temple và lắc đầu, thở dài. Bà là một người phụ nữ mũm mĩm, với khuôn mặt tròn và đôi mắt nhăn nheo hai bên khi cười. Tóc bà được búi kiểu mà Temple chưa từng thấy. Chủ yếu là búi trên đỉnh, nhưng một phần buông xõa xuống. Bà mặc một chiếc váy dài vô hình dạng và dép lê, và móng tay chân được sơn một màu đỏ rượu vang xinh đẹp. Chính xác màu của máu đổ ra khi nó khoảng hai mươi phút tuổi, Temple nghĩ. Tiếng chơi đùa của bọn trẻ vang vọng trên những bức tường cẩm thạch của sảnh. Có hai mươi đứa, đủ mọi lứa tuổi. Các cửa sổ được sơn kín để, Temple đoán, lũ sên không nhìn thấy chúng ở đây và bắt đầu tụ tập bên ngoài. Những đèn pha vàng lớn được lắp quanh chu vi sảnh để hỗ trợ ánh nắng khuếch tán qua lớp sơn nâu loang lổ mỏng. Cô nghĩ về Malcolm, hình dung cậu bé ở đây giữa những đứa trẻ khác. Chắc chắn cậu sẽ muốn ra ngoài. Cậu sẽ cạo sơn khỏi cửa sổ để nhìn. Nhưng đó là hai năm trước. Giờ cậu sẽ lớn hơn nhiều đứa ở đây. "Bao nhiêu người ở đây vậy?" Temple hỏi.

"Chúng tôi có bảy trăm mười ba người phân bố giữa bốn khu phố. Cô làm bảy trăm mười bốn."

"Khu phố. Bốn tòa nhà. Chúng tôi thích gọi chúng là khu phố. Đây là tất cả bọn trẻ à?"

"Hầu hết. Khó có con cái ở đây. Chúng tôi có bác sĩ, nhưng cơ sở y tế hạn chế. Nhưng cũng vậy, chỉ là khó để mọi người lạc quan."

"Ồ."

Ruby mỉm cười rạng rỡ với cô, như thể chính bà là sứ giả tối thượng của sự lạc quan. "Tôi thích cái mũ của cô," bà nói, gật đầu về chiếc panama của Temple. "Chúng tôi không có mũ kiểu đó ở đây."

"Cảm ơn. Tôi thích sơn móng tay của bà."

"Thật à? Cô muốn thử không? Hầu hết phụ nữ ở đây không bận sơn móng, nên chúng tôi còn nhiều lắm."

Ruby dẫn cô về cửa hàng bách hóa, đến khu mỹ phẩm, và chỉ cho cô một giá chai thủy tinh phủ bụi với hàng trăm màu sắc và tên gọi ở đáy mô tả màu. Temple chọn một loại hồng mà Ruby bảo là gọi là Cotton Candy, dù cô chẳng biết kẹo bông là gì. Nhưng nó gợi cô nhớ đến kẹo mút làm từ áo phông. Rồi Ruby đi thang máy với Temple lên tầng mười sáu, nơi phòng của Temple, một văn phòng nhỏ với nệm trên sàn và bàn với đèn và cây giả. "Phòng tắm ở cuối hành lang bên thang máy," Ruby nói xin lỗi. "Chúng tôi phải dùng chung."

"Cảm ơn," Temple nói. "Vì nước ngọt và sơn móng và thức ăn và mọi thứ."

"Rất vui. Tôi mừng vì cô ở đây với chúng tôi. Chúng tôi sẽ chăm sóc cô, Sarah Mary."

Temple không nói gì. Cô cố hình dung việc ở lại đây, ở nơi này, với những người này, và cô ngạc nhiên khi thấy ý tưởng đó không hoàn toàn khó chịu với cô. Cô tự hỏi liệu điều này có nghĩa là cô đang lớn lên không.

"Ồ và một chuyện nữa," Ruby nói. "Cô có thể đi hầu như bất cứ đâu ở đây, nhưng có lẽ tốt hơn nên tránh khu phố bốn. Đó là nơi hầu hết đàn ông của chúng tôi ở, những người độc thân. Những người đi tuần tra. Những người đưa cô vào hôm nay. Họ là những người đàn ông rất tốt, hầu hết, rất chu đáo và lịch sự. Nhưng đôi khi khi để họ ở cùng nhau, họ có thể hơi thô lỗ. Tôi không muốn cô hiểu lầm về chúng tôi, chỉ vậy thôi. Chúng tôi là một cộng đồng tốt đẹp."

Rồi Ruby rời đi, và Temple thấy mình một mình. Cô tìm thấy phòng tắm. Có một cái chung, nhưng cô vào cái đơn bên cạnh, cái dành cho xe lăn. Cô đặt dao gurkha lên mép bồn rửa và cởi hết ra và tắm rửa kỹ lưỡng bằng khăn và xà phòng Ruby đưa. Rồi cô nhét đầu vào bồn, để tóc ngấm nước xà phòng nóng lâu thật lâu. Sau đó, cô chải nó ra và nhìn mình kỹ lưỡng trong gương. Tóc vàng, khuôn mặt thon gọn với hàng mi dài khung hai đôi mắt xanh sáng. Cô có thể xinh đẹp. Cô cố trông giống một cô gái hơn, giữ tư thế như cô đã thấy các cô gái làm, chu ra môi và hạ cằm và nhướn mày. Ngực nhỏ của cô chẳng là gì cả, và mông cô phẳng lì. Nhưng cô đã thấy những phụ nữ quyến rũ trong tạp chí với thân hình như cô, nên cô đoán là ổn. Cô mặc lại với quần lót mới Ruby lấy cho. Chúng bằng cotton với hoa hồng khắp nơi. Ruby cũng lấy cho cô một chiếc áo ngực, nhưng cô không mặc.

Về phòng, cô sơn móng tay và chân màu hồng kẹo bông. Nhưng cô vụng về và thiếu kiên nhẫn nên nó lem hết da. Rồi cô duỗi ra để móng khô và nhìn qua cửa sổ bầu trời đang tối sầm. Ánh sáng thành phố bật lên khi cô nhìn. Một số trên bộ đếm giờ tự động, cô đoán vậy. Nhưng vài cái là người thật như cô.

Cô tiến sát cửa sổ và thấy hơi thở làm mờ kính, và cô chào tạm biệt thế giới nắng gió và cảm nhận sức nặng dữ dội của giấc ngủ đè xuống, nên cô nằm xuống nệm và chụm hai lòng bàn tay và thì thầm một lời cầu nguyện và lắng nghe tiếng ù ù thấp của tòa nhà cho đến khi tâm trí cô lan rộng và giấc mơ cuốn cô vào khoảng không mênh mông ngoằn ngoèo.NGÀY HÔM SAU cô đi dạo các tòa nhà, mỉm cười lịch sự với những lời chào từ cư dân. Họ vui khi thấy khuôn mặt mới, vui khi hàng ngũ họ được bổ sung thêm một người. Một viên gạch nữa trong bức tường chắn chống lại cơn sóng từ bên ngoài. Một số kể cô nghe chuyện họ từ đâu đến, những người lớn tuổi dệt nên những câu chuyện về thế giới trước kia. Cô đã nghe nhiều phiên bản của câu chuyện này, nhưng hầu hết liên quan đến trẻ con đạp xe đạp trên phố rợp bóng cây vào buổi chiều. Dã ngoại ở công viên. Đi siêu thị và gặp những người thân thiện. Hay chuyến cắm trại không lo lắng gì ngoài vết muỗi đốt. Những câu chuyện này luôn nghe đáng ngờ với Temple. Phủ vàng trong hoài niệm.
 
Chương 3.2:
Trong trải nghiệm của chính cô, cô học được rằng hạnh phúc và buồn bã tìm thấy mức độ của riêng chúng bất kể cái gì cắn bạn, muỗi hay da thịt. Cô đề nghị giúp ở nhà bếp, nơi một nhóm phụ nữ đang làm một bữa ăn có vẻ cầu kỳ với cô. Họ bảo cô có thể đập một tô trứng. Họ có chuồng gà và vườn trên mái. Nhưng khi thấy mất bao lâu để cô nhặt hết vỏ khỏi tô, họ xua cô đi, bảo cô cứ thư giãn và làm quen. Cô có thể giúp nhà bếp lần sau. Tối đó cô đi đến phòng họp họ biến thành rạp chiếu phim, và cô ngồi trong bóng tối với mọi người và xem một bộ phim cũ họ chiếu trên màn hình lớn. Đó là phim về tàu vũ trụ và hành tinh trông như sa mạc, và cô xem, và một cô gái bên cạnh đưa cô tô bắp rang và cô lấy một ít và truyền tiếp. Ngày hôm sau, tuy nhiên, cô chán và bồn chồn. Cô nhìn ra cửa sổ tầng ba và xem đội tuần tra rời tòa nhà và uốn lượn xuống phố như một con rắn chiến thuật. Cô thích cách họ di chuyển, những người đàn ông đó, như một cơ thể với nhiều phần. Cô không ngủ được tối đó và dạo hành lang im lìm của các tòa nhà, cảm nhận chứng mất ngủ như một căn bệnh. Khi sự im lặng trở nên quá mức, cô đi qua cầu đi bộ đến tòa nhà bốn, nơi cô tìm thấy đàn ông chơi bài bằng thuốc viên. Họ ở tầng sáu, tụ tập ở một không gian lớn chiếm hai tầng và khuếch đại tiếng cười sắc nhọn và giọng khàn của họ thành tiếng vọng. Sảnh của trụ sở một công ty nào đó, cô đoán, một công ty khổng lồ từng chiếm nhiều tầng trong tòa nhà. Ban đầu đàn ông nhìn cô miễn cưỡng, như thể cô là điềm báo cho sự xấu hổ của chính họ. Tiếng cười ồn ào tắt ngấm nhanh chóng khi họ, từng người một, nhận ra cô. Rồi cô nói. "Tiếp tục đi. Tôi không ngủ được thôi. Tôi không ở đây để làm hỏng mọi thứ."

Vậy nên trò chơi tiếp tục, ban đầu ngập ngừng, rồi tăng dần âm lượng và thô tục khi họ mất đi sự nghi ngờ và quên mất sự hiện diện của cô. Cô thích mùi thuốc lá của họ và tiếng leng keng của chai rượu và ngôn từ thô kệch tuôn ra như đá vụn từ môi họ đầy lông. Đàn ông mới đến, từ ca tuần tra đêm, và cô xem họ đi qua một cánh cửa gia cố kim loại bên hông mang súng ngắn và súng AR-15 và súng săn 20 gauge và ra lại với tay không. Rồi họ đến bàn được bày như quầy bar nơi một người đàn ông mặc tạp dề rót đồ uống cho họ. Louis, thủ lĩnh tuần tra, tìm thấy cô. "Cô thích trò chơi chứ?" anh ta hỏi.

"Tôi đang nghiên cứu nó," cô nói. "Giống như poker pha chút pooch."

"Pooch."

"Đó là trò tôi từng chơi lúc nhỏ. Cô theo kịp không?"

"Như tôi nói, tôi đang nghiên cứu. Cái gì trong nồi?"

"Thuốc xốc. Thuốc ngủ. Vài thuốc giảm đau. Chủ yếu là speed."

"Ừ-hừ. Một cô gái lấy đâu ra tiền tệ kiểu đó."

"Cô muốn chơi không?"

"Tôi có thể chơi một hai ván."

Louis cười, một tiếng cười lớn thân thiện. Rồi anh ta móc túi và cầm tay cô và tát ba viên thuốc xanh vào lòng bàn tay. "Này, Walter," anh ta nói với một người đàn ông ở bàn. "Sao không nghỉ một chút. Cô bé đây muốn chen vào."

Đàn ông cười và cô ngồi vào chỗ, nói, "Tôi không biết có gì buồn cười thế. Bất kỳ thằng ngốc nào cũng lật được lá bài."

"Oooh," họ nói.

Cô mất một viên thuốc xanh trong ván đầu tệ hại, nhưng mười ván sau họ đưa cô một túi Ziploc để mang chiến lợi phẩm. Ba Nembutal, năm Vicodin, mười hai OxyContin, bảy Dexedrine. Và bốn Viagra cô dùng để trả Louis vì đã cho vay.

"Tên cô là gì nhỉ?" Louis hỏi.

"Sarah Mary."

"Ừ, Sarah Mary, tôi ấn tượng. Ấn tượng vl. Ừ, vậy thì sao không để tôi tuần tra với các anh ngày mai."

Anh ta lại cười, vui vẻ và ấm áp. "Cô là thứ gì đó khác, anh ta nói. Nhưng sao không để chúng tôi lo việc bẩn thỉu. Từ những gì tôi thấy, cô giữ khá sạch sẽ. Sarah Mary, để tôi mua cô một ly."

Anh ta ngồi cô ở quầy bar và lấy cho cô một ly Coke đá, và cô ở đó một lúc xem trò chơi cho đến khi con chuột gầy guộc đó, Abraham, bước vào và ngồi bên kia cô và bắt đầu để mắt hắn lén lút dưới quần áo cô lần nữa. Và hắn với một gã to con mà hắn giới thiệu là anh trai Moses, và Moses bắt tay cô và suýt bẻ gãy khớp ngón tay trong nắm đấm lớn của hắn. Và hai anh em chúng trông như trước và sau của một loại huyết thanh tăng trưởng nào đó. Moses không hứng thú nói chuyện. Hắn ngồi ở quầy và uống và nhìn thẳng phía trước như thể hắn có thể nhìn thấu đến mặt xấu xí của mọi thứ. Hắn không phải loại đàn ông để đùa giỡn, cô biết. Cô đã thấy đàn ông như hắn trước đây, nguy hiểm vì họ đã trở về từ những nơi mà những gã đàn ông thân thiện khác chưa từng đến, và những món kỷ niệm họ mang về từ những nơi đó tồn tại khắp nơi trong họ, trong đôi mắt ướt đỏ hoe và dưới móng tay và trong lớp da tối sẫm trên chính da thịt họ. Moses chỉ ngồi và nhìn chằm chằm, nhưng em trai Abraham muốn nói, bắt đầu kể cô nghe về một cô gái mà một trong những gã đàn ông khác suýt siết chết vì cô ta trêu hắn và dẫn hắn vào một phòng lưu trữ và không cho hắn gì. Và khi hắn nói, lưỡi hắn liếm qua môi, và cô có thể thấy nước bọt khô trắng ở khóe miệng hắn. Vậy nên cô đứng dậy và đi sang bên kia phòng và ngồi mép một chậu cây cẩm thạch và xem trò chơi và cố bỏ qua ánh mắt Abraham, mà cô vẫn cảm nhận muốn cắn xé cô.

Mười lăm phút sau, một gã ở bàn chơi cáo buộc gã khác nhét thuốc vào ante, và một cuộc ẩu đả nổ ra, hai gã cào cấu nhau qua mặt bàn và những gã khác cố giữ lại, cho đến khi bàn lật úp và một cơn mưa màu sắc của thuốc viên vương vãi trên sàn cẩm thạch và một cuộc tranh giành điên cuồng diễn ra cho bất cứ thứ gì ai đó có thể lấy. Temple đã thấy đủ, và cô rời sảnh và trèo nhiều tầng thang. Cho đến khi cô thở hổn hển. Đến một tầng tối yên tĩnh nơi cô cảm nhận một cơn gió lạ mà cô nhận ra là không khí đêm thật sự chứ không phải không khí tuần hoàn từ hệ thống thông gió. Cô theo gió cho đến khi tìm ra nguồn. Một lỗ hổng trên chính tòa nhà. Ở cuối một không gian văn phòng rộng mở có một bộ cửa sổ từ sàn đến trần, khoảng tám feet rộng, đã bị vỡ hoàn toàn. Có vài cái ghế đặt trước lỗ. Một đài quan sát. Không có ai quanh đó, nên cô đến lỗ và, chống cả hai tay, nhìn ra qua mái nhà thành phố. Cô hẳn ở độ cao hai mươi lăm tầng, và nó làm cô chóng mặt, nhưng cô ép mình nhìn. Dưới kia, trong những vũng vàng của đèn đường chưa vỡ hay cháy, cô có thể thấy chúng di chuyển ì ạch, lũ chết, không hướng đi hay mục đích. Chúng di chuyển, hầu hết, ngay cả khi không có gì để săn. Chân chúng, như bụng và hàm chúng, tất cả bản năng. Cô ngẩng nhìn và mắt cô mờ lệ trong gió mát và tất cả ánh sáng thành phố trở nên hoang dã và nhân đôi, và cô lau mắt và ngồi vào một cái ghế và nhìn ra ngoài rìa lưới điện nơi bóng đen cuồn cuộn như đại dương. Đó là nơi cô biết. Biết vượt ngoài lời kể.

Cô hẳn đã chìm sâu vào giếng não bộ, vì cô thậm chí không nhận ra người đàn ông cho đến khi hắn ngồi bên cô. Một hình dáng râu rậm khổng lồ khiến cái ghế kêu kim loại khi hắn ngả lưng. Moses, anh trai Abraham. "Tôi chỉ đang nhìn thôi," cô nói, liếc quanh và thấy hai người họ đang một mình. "Tôi không làm gì cả."

Gã khổng lồ nhún vai. Hắn lấy một điếu xì gà từ túi áo khoác và cắn đầu và nhổ ra qua lỗ và quẹt diêm bằng móng cái và châm xì gà. Khi xong với que diêm hắn hất nó qua cửa sổ, và cô nhìn đốm than hồng đỏ nhạt biến mất xuống bóng tối. Cô nhìn hắn, không biết có nên chạy không. Nhưng hắn chẳng để ý đến cô, chỉ phì phèo xì gà và nhìn ra đêm. Cuối cùng cô nói, "Rốt cuộc anh muốn gì?"

Đây là lần đầu hắn quay sang nhìn cô, như thể cô là một con bọ cánh cứng đậu trên đốt ngón tay hắn hay gì đó. "Tôi muốn nhiều thứ," hắn nói. "Nhưng chẳng gì cô có quyền trao."

Cô nheo mắt nhìn hắn lâu hơn một chút nhưng xác định mối đe dọa không phải ngay lập tức, nên cô ngồi lại. "Ổn thôi," cô nói. Và một lúc, ánh nhìn của họ qua thành phố là song song hoàn hảo. Hắn phì phèo xì gà rồi hỏi cô một câu. "Cô từng thấy con sên không chân chưa?"

Cô không hiểu hướng của câu hỏi, nhưng nó có vẻ an toàn để trả lời. "Tôi thấy vài lần," cô nói. "Đi bằng tay và khuỷu như một con cào cào."

"Ừ-hừ." Hắn phì phèo xì gà lần nữa và tiếp tục. "Cô biết không, tôi nghe về một cộng đồng ở Jacksonville quyết định làm rào lửa ống gas để giữ lũ sên sợ hãi. Cô nghĩ sao về cái đó."

"Tôi nghĩ cộng đồng đó giờ đã chết queo."

"Tại sao?"

"Vì da thịt không sợ lửa. Quá ngu ngốc. Chúng sẽ bước thẳng qua. Rồi tất cả những gì cô có là một lũ đuốc biết đi cố ăn ruột cô."

Hắn gật đầu chậm rãi, và cô thấy hắn đã biết về lửa và da thịt. Hắn chỉ đang thử cô.

"Sarah Mary Williams," hắn nói, phát âm từng tên như đọc trên biển quảng cáo xa xa. "Em trai tôi Abraham không tin cô từ phía nam lên. Nó hay nghi ngờ kiểu đó. Còn tôi, tôi tin cô."

"Cứ việc, cả hai anh em tin gì thì tin. Đây là đất nước tự do."

Họ im lặng một lúc. Cô hít khói từ xì gà của Moses, và nó ngọt ngào trong phổi. Khi có vẻ hắn chẳng còn gì để nói, cô đứng dậy khỏi ghế và quay đi. Đó là lúc hắn nói lại, không nhìn cô, không nhận ra cô đi hay đến. "Cái lỗ này," hắn nói, ra hiệu về khoảng tối của bầu trời đêm trong miệng kính vỡ. "Nó ở đây khi họ đến đầu tiên. Ai đó hẳn đã nhảy. Khi họ định cư, họ chỉ mở rộng nó và biến thành điểm ngắm cảnh."

"Họ là ai?"

"Chẳng phải cô là một trong số họ à?"

"Tôi là kẻ lang thang bẩm sinh. Tôi đã đến nhiều nơi. Thực phẩm của trái đất đủ tốt cho loại như tôi."

"Abraham, nó thích nơi này. Tôi thì không chắc lắm."

"Tại sao?"

"Ngay lúc này, nơi này là pháo đài. Nhưng nếu một gã muốn, hắn có thể mở một trong những cửa bến xếp hàng vào giữa đêm, và đột nhiên chúng ta ở trong nhà chết."

Đó là lúc hắn ngẩng lên nhìn cô, mắt hắn ngang tầm mắt cô dù hắn ngồi và cô đứng, nheo mắt qua khói xì gà, ngón tay hắn nhặt vụn thuốc lá rơi khỏi râu. "Cô biết tôi nghĩ gì không?" cô nói.

"Cô nghĩ gì?"

Cô chỉ qua lỗ vào cổ họng tối tăm của cảnh quan bệnh hoạn. "Tôi nghĩ anh nguy hiểm hơn những gì ngoài kia."

"Ừ, cô bé, đó là điều buồn cười cô vừa thốt ra. Vì tôi vừa nghĩ y vậy về cô."

Cô để hắn ngồi đó, liếc lại chỉ một lần trước khi đi qua cửa cầu thang và quan sát cách đám khói từ xì gà của hắn bị kéo ra từng sợi qua lỗ tối ngáp trong tường kính. Như thể đó là linh hồn hắn, quá lớn cho thân hình khổng lồ và rỉ ra qua lỗ chân lông da thịt và lang thang ngoằn ngoèo trở lại hoang dã nơi nó biết mình thật sự giữa bạo lực và cái chết.

VỀ PHÒNG NHỎ cô lấy một viên Nembutal và ngủ ngay lập tức. Có lẽ là viên thuốc làm cô chậm hiểu chuyện gì đang xảy ra một giờ sau khi chìa khóa được tra vào ổ. Cô chìm sâu trong chính mình đến mức khó trèo thang lên đỉnh nơi mọi thứ thực sự xảy ra. Chìa khóa trong cửa, tiếng lạch cạch, tiếng vặn núm, và tiếng kêu the thé khi cửa mở vào rồi đóng sập lại. Cô vùng vẫy lên bề mặt ý thức, đến đó và lay mình tỉnh giấc ngay khi đèn phòng bật sáng.

"Abraham," cô nói.

"Tôi đến hôn cô chúc ngủ ngon."

Cô nheo mắt và dụi mắt chống lại ánh sáng đột ngột. Hắn đứng đó, cúi lom khom và lảo đảo một chút, say. Nụ cười nhếch của hắn khiến cô kiểm tra xem mình mặc gì. Chỉ áo phông và quần lót. "Cút khỏi đây, Abraham."

"Này," hắn nói, nhìn quanh, "đây là lưỡi dao của cô à? Khá hay ho." Hắn nhấc dao gurkha từ bàn và rút ra. Rồi hắn vung nó qua không khí vài lần, phát ra tiếng vút vút bằng miệng như cậu bé chơi kiếm. "Bỏ xuống."

Hắn đặt nó lại bàn, nhưng không phải vì cô yêu cầu. "Cô chơi bài khá tối nay. Cô là một trong những cô gái cứng rắn, phải không? Một trong những cô gái thô ráp. Cô thích chơi với đám con trai."

Cô kéo mình lên nệm, lưng tựa tường, đầu vẫn mù mịt. "Anh nên đi đi," cô nói.

"Nhưng cô vẫn là con gái ở chỗ quan trọng." Hắn vòng quanh bàn và bước lên đầu nệm và đứng trên cô. Cô co gối dưới nhưng không thể cuộn tròn hoàn toàn. Rồi hắn kéo khóa quần và lôi bộ phận sinh dục mềm oặt ra. Trông như bó bóng bay sinh nhật xì hơi. "Cho nó vào miệng đi," hắn nói. "Làm nó to lên."

"Anh nên cất đi. Tôi không đùa đâu, Abraham. Cất ngay."

"Thôi nào, Sarah Mary. Mọi người quanh đây kiểu gia đình hết. Tất cả các cô gái muốn làm tổ. Đôi khi một gã chỉ cần xả và quay lại giết lũ bò sát. Cô muốn gì và tôi sẽ cho. Thuốc. Rượu. Chỉ làm ơn việc này một lần. Chỉ cho vào miệng một lúc thôi."

"Tôi bảo cất cái đó đi. Tôi không chơi trò ngốc nghếch với loại như anh."

"Tôi không đùa nữa." Sương mù quanh đầu cô bắt đầu tan, và cô có thể thấy hắn bước hai bước về phía cô, háng hắn gần đến mức cô ngửi thấy mùi mốc meo dày đặc của nó.

"Nhưng cô xinh quá," hắn nói. "Tôi chỉ muốn xuất lên cô một chút thôi."

"Đó rồi," cô nói. Cô nắm tay thành nắm đấm và đấm mạnh về trước vào háng hắn. Cảm giác như đấm vào túi lòng gà ấm. Nó phát ra tiếng bẹp và khiến hắn ngã ngửa, quần tụt xuống quanh đầu gối trong lúc hắn quằn quại trên sàn đầu nệm. Nhưng tiếng rên của hắn biến thành gầm gừ, và hắn tự nhấc lên, mặt đỏ như cà chua, mắt ướt, và răng nghiến chặt. "Tôi không muốn phải làm thế," cô nói. "Thôi nào, Abraham, tôi chỉ cố hòa nhập quanh đây. Đừng làm hỏng cho tôi."

Hắn không nghe. Một tay hắn ôm bộ phận sinh dục và tay kia với lấy và nắm dao gurkha của cô. "Con đĩ nhỏ. Tao sẽ xẻ đôi mày." Hắn lao tới và cô né và đưa tay ra để đánh lạc hướng nhát chém và lưỡi dao đi qua đầu cô, nhưng cô cảm thấy một cơn lạnh buốt nhanh trên tay trái và khi nhìn xuống cô thấy dao đã cắt mất nửa ngón út tay trái. Máu trào xuống cổ tay và làm tay cô trơn tuột. Chưa đau, chỉ lạnh. Nhưng cô biết nó sẽ đến sau, nên bất cứ gì cô định làm, tốt hơn làm ngay bây giờ. Cô quay lưng vào cửa sổ và hắn lại lao tới, nhưng khi hắn giơ dao qua đầu để bổ, tay cô vọt lên nắm cổ tay và vặn ngược khiến toàn thân hắn ngã sấp mặt xuống và rồi, vẫn giữ cánh tay ở góc, cô giẫm chân xuống khuỷu tay và nghe nó gãy răng rắc như cành cây ướt. Trừ việc giờ hắn gào thét to và khàn khàn, tất cả máu dồn lên mặt và gân cổ căng cứng dài. "Suỵt đi," cô nói, cố làm hắn im. "Suỵt đi, mọi người sẽ nghe thấy."

Nhưng hắn cứ gào, và cô lật hắn lại và tát mặt như với kẻ cuồng loạn, nhưng cô đoán không phải cuồng loạn mà là cơn đau khủng khiếp đang là vấn đề hiện tại của hắn. Vậy nên cô tìm thứ gì để nhét vào miệng và thấy chiếc áo ngực Ruby lấy cho, cái có lót và có độ dày, và cô nhét nó giữa răng hắn bằng ngón tay. "Im tiếng ồn đi," cô nói. "Thôi nào, im đi." Cô đặt tay trái lên miệng hắn để giữ áo ngực, và máu từ ngón tay cô chảy qua má hắn vào mắt và xuống tai. Cô quỳ lên ngực hắn để giữ im và ấn xuống miệng cố để mũi hắn tự do. Nhưng có gì đó sai vì trong phút chốc hắn bắt đầu tím tái và co giật rồi ngừng di chuyển hẳn. Cô rút tay khỏi miệng hắn và nhìn vào đôi mắt nặng nề của hắn, đã bắt đầu đục ngầu. "Chết tiệt," cô nói. "Sao sống và chết luôn phải chỉ cách nhau nửa inch thế này."

Cô đi đến bàn và lấy một cây bút bi từ ngăn kéo và đặt đầu vào lỗ mũi hắn và đâm lên sắc và mạnh bằng gót tay để ngăn hắn trở lại. Rồi cô lấy dây chun từ tóc và quấn chặt quanh ngón út để giữ máu và ngồi tựa vào cửa sổ để thở. Cô lắc đầu. "Tôi cũng thích nơi này mà."
 
Chương 4.1:

Gần bốn giờ sáng, cô gõ cửa phòng Ruby. "Có chuyện gì vậy," Ruby nói với bản năng của một người mẹ và sự tỉnh táo tức thì.

"Bà sẽ phải khâu cho cháu." Temple bước vào phòng, mang theo một chiếc túi vải thô màu xanh lá cây nặng trịch, kêu lảng xoảng ầm ĩ khi cô đặt nó xuống. Rồi cô đóng cửa lại sau lưng và giơ tay lên cho Ruby xem.

"Ôi Chúa ơi, con bị sao thế này?"

"Cháu bị thương."

"Chúng ta phải gọi bác sĩ Marcus."

"Chúng ta không gọi bác sĩ nào hết. Cháu đã đến phòng khám và tự kiếm cho mình một ít lidocaine. Cháu đoán bà có bộ kim chỉ, và cháu chỉ cần bà giúp một tay thôi, chỉ một hai mũi khâu, rồi cháu sẽ đi."

"Con kể cho ta nghe chuyện gì đã xảy ra đi."

"Cháu hứa sẽ kể cho bà toàn bộ câu chuyện khi cháu không còn chảy máu đầy ra tấm thảm này của bà nữa."

Ruby lại nhìn vào tay cô. "Lại đây ra chỗ sáng," bà nói rồi đưa Temple lại ngồi bên mép giường và đặt tay cô lên mặt bàn dưới ánh đèn. "Đây," Temple nói, đưa cho Ruby ống lidocaine và ống tiêm.

"Bao nhiêu?" Ruby hỏi.

"Cháu không biết. Một chút thôi, cháu sẽ cần đến bàn tay này." Ruby tiêm nó vào phần thịt ở lòng bàn tay cô, ngay dưới ngón tay. "Cháu không biết tại sao bác sĩ Marcus không thể làm việc này."

"Đến sáng mai, đám đàn ông ở đây sẽ không ưa cháu lắm đâu. Đôi khi họ có những ý niệm kỳ lạ về tình huynh đệ, đám đàn ông ấy mà. Bà có kim chỉ không?"

Ruby đi đến một ngăn kéo và lục lọi trong đó. "Màu gì?" bà hỏi, bối rối.

"Cháu đoán là không quan trọng, một phút nữa nó cũng sẽ đen kịt màu máu thôi."

"Ồ, dĩ nhiên rồi. Thật ngớ ngẩn. Ta không thể suy nghĩ thông suốt được."

"Thôi nào, nó cũng giống như vá một chiếc tất thôi."

Ruby lấy kim và chỉ, và Temple có thể cảm thấy bàn tay mình đang tê đi. Cô với tay xuống dưới tủ đầu giường lấy một trong những cuốn tạp chí chất đống ở đó và đặt nó xuống để hứng máu. Sau đó, cô nhìn kỹ ngón tay út của mình. Nó đã đứt ngay trên đốt đầu tiên, một vết cắt gọn gàng qua xương, để lộ ra một mẩu xương vàng như cành cây nhỏ thò ra ở đầu. Cô dùng tay kia kéo da lên che đầu xương và chụm nó lại như bao quy đầu. "Đó," cô nói với Ruby. "Bây giờ bà chỉ cần luồn sợi chỉ qua đó vài lần rồi buộc lại. Sẽ ổn thôi."

Ruby làm theo và Temple nhìn đi chỗ khác, nhìn chằm chằm vào bức tranh một vườn rau mà Ruby treo trên đầu giường. Giữa vườn rau là ba chú thỏ con và một cô bé đội mũ bonnet. Cơn đau nhói lên xuyên qua sự tê dại của lidocaine. Cô cảm thấy chóng mặt nhưng nghiến chặt răng để không bị ngất đi. Cô rút một viên Vicodin từ trong túi và bỏ vào miệng.

Khi đã xong, Temple tháo sợi dây chun buộc tóc khỏi ngón tay và quan sát xem điều gì sẽ xảy ra. Một ít máu rỉ ra từ đường khâu ở đầu ngón tay, nhưng không nhiều. Cô quấn ngón tay trong gạc và dán băng keo lại.

"Bà làm tốt lắm, cảm ơn ạ."

"Ta chưa bao giờ làm việc này trước đây."

"Chà, cháu cho là mình nên đi..." Nhưng khi cô cố gắng đứng dậy, căn phòng quay cuồng quanh cô, cô khó nhìn thẳng về phía trước và cổ cô cảm thấy lỏng lẻo, ngọ nguậy, không thể giữ cho đầu mình đứng thẳng.

"Con có ổn không?" Ruby nói, nhưng giọng bà nghe như vọng qua lớp bông gòn. Như thể vọng qua những cây kẹo mút làm từ áo phông. Như thể vọng qua những chiếc đuôi bông của tất cả thỏ con trong tất cả những vườn rau trên thế giới.

Temple nói, "Cháu chỉ ngồi một lát thôi." Và đó là khi bóng tối ập đến và nuốt chửng cô hoàn toàn.

ĐIỀU TIẾP THEO cô biết là mình đang nằm dưới chăn trong giường của Ruby và có ánh nắng chiếu rực rỡ qua cửa sổ. Không có ai khác trong phòng. "Chết tiệt," cô nói và vung chân xuống đất. Đầu cô vẫn cảm thấy lềnh bềnh trên một thứ ete màu tím, và mắt cô dường như chậm một nhịp so với nơi cô đang cố nhìn. Cô sẽ phải di chuyển chậm rãi. Cô đứng dậy, vịn vào tường, đi đến cửa sổ rồi quay lại giường, và trong vài phút cô chỉ đi đi lại lại giữa cửa sổ và giường cho đến khi mắt cô bắt đầu nhìn thẳng và đầu cô gắn chặt lại với cơ thể.

Ruby bước vào. "Cháu đúng là đã khuấy tung mọi chuyện lên rồi, Sarah Mary Williams. Họ đang ra ngoài tìm cháu đấy. Nói là chỉ muốn hỏi cháu vài câu để làm rõ mọi chuyện, nhưng ta không thích ánh mắt của một số người trong số họ. Ta đã thấy nó trước đây rồi." Bà mở cửa tủ quần áo và bắt đầu lục lọi trong đống quần áo treo ở đó. "Họ nói cháu đã xử đẹp gã Abraham Todd đó."

"Cháu sẽ không làm thế nếu..."

"Con không cần phải nói với ta. Mấy anh em nhà Todd đó có những trái tim đen tối nhất mà ta từng thấy. Chúa phù hộ cho con, ta chắc chắn hắn đáng bị bất cứ điều gì con đã làm với hắn. Nhưng bây giờ anh trai hắn là Moses đã đưa con vào danh sách của hắn, và đó là một người đàn ông không có một chút ngu ngốc nào để khiến hắn xao lãng khỏi con đường đã định. Và điều đó có nghĩa là chúng ta phải đưa con ra khỏi đây. Mặc cái này vào."

Tay của Temple lúc này đang nhức buốt, vì vậy Ruby giúp cô cởi quần áo và nhét chúng vào túi vải. "Cái áo ngực chúng ta lấy cho con đâu rồi?" Temple không nói gì và giơ tay lên để Ruby khoác cho cô chiếc váy hai dây bằng cotton màu vàng mà bà đã lấy từ tủ quần áo của mình. Nó có viền ren, và nó làm ngứa da cô.

"Cái này để làm gì ạ?" Temple hỏi.

"Nó sẽ ít gây chú ý hơn. Mọi người ở đây không đi săn cháu thì đều đang mặc đẹp để đi lễ."

"Đi lễ ạ?"

"Hôm nay là Chủ nhật, cưng à. Đó là việc chúng ta làm vào Chủ nhật." Đã lâu lắm rồi Temple không còn phân biệt các ngày trong tuần. Sau đó, Ruby dùng khăn mặt lau mặt cho Temple, lấy một chiếc kẹp tóc, ngậm nó giữa môi và làm gì đó với tóc của Temple rồi kẹp chiếc kẹp vào và khóa nó lại. "Xong rồi," Ruby nói. "Trông con xinh chưa kìa."

Temple nhìn vào gương. Có một cô gái mềm mại như gối đang nhìn lại cô. "Trông cháu như cái bánh muffin."

"Mấy người đó nghĩ cháu đi đâu rồi ạ?"

"Họ nghĩ con đã đi rồi. Họ đang tìm con ngoài đường. Hình như tối qua cũng có người đột nhập vào kho vũ khí." Ánh mắt của Ruby dừng lại trên chiếc túi vải nặng trịch của Temple đang đặt cạnh cửa.

"Cháu chỉ lấy một hai thứ thôi."

"Không sao đâu, Sarah Mary. Con sẽ cần một chút giúp đỡ. Ta không thích nghĩ đến cảnh... con ở ngoài đó với tất cả những thứ đó. Ta ước gì con có thể ở lại với chúng ta, nhưng gã Moses Todd đó sẽ không để chuyện đó xảy ra. Thôi nào. Chúng ta chỉ cần đưa con đến thang máy thôi."

Temple dùng tay lành lặn của mình để quàng chiếc túi lên vai trong khi Ruby mở cửa và liếc nhìn dọc hành lang. "Đi nào." Trên đường đến thang máy, họ đi ngang qua một gia đình, một người đàn ông, một người phụ nữ và một cậu bé, họ đang nói về máy bay và làm thế nào chúng có thể bay trên trời và liệu cậu bé có bao giờ được nhìn thấy một chiếc ngoài đời thực không. Ruby và Temple mỉm cười và chào buổi sáng khi họ đi qua.

Họ ở một mình trong thang máy và Ruby nhấn một nút có ghi P2, và khi cửa mở, họ đang ở trong một gara đỗ xe vắng vẻ đầy ô tô. Temple đi theo Ruby đến cuối một trong các hàng xe, nơi bà dừng lại sau một chiếc Toyota cỡ trung bị vỡ đèn hậu. "Ta không thể cho con một trong những chiếc đẹp được," Ruby nói. "Nhưng phải mất vài tuần họ mới nhận ra chiếc này đã biến mất. Nó chạy được, và đã đầy bình xăng, ta đã kiểm tra rồi. Đây, đưa ta cái đó." Bà lấy chiếc túi từ Temple và đặt nó lên ghế hành khách của xe. "Bây giờ nghe ta nói đây," Ruby nói, nắm lấy vai Temple và nhìn thẳng vào mắt cô. "Ta biết một số người tốt ở phía bắc đây khoảng một giờ đi xe. Họ sẽ chăm sóc cho con, cứ nói là con biết ta. Chỉ cần đi theo biển chỉ dẫn đến Williston và tìm một khu nhà có cổng ngoài đường cao tốc. Con hiểu chưa?"

"Cháu hiểu rồi."

"Cẩn thận nhé."

Temple không biết phải nói gì, nhưng khoảnh khắc này đòi hỏi một điều gì đó. "Bà đã làm một điều tốt ở đây," cô nói. "Đây là một hành động hào phóng vượt xa lẽ thường. Bà là một người tử tế, giống như một nữ hoàng hay gì đó."

"Đi đi," Ruby nói, vẻ mặt lo lắng và rưng rưng. "Ta nghi ngờ rằng con còn nhiều rắc rối ở phía trước hơn là phía sau."
 
Top