jakebob25
Mai là mùng một

Những từ mà chúng ta ngày nay cho là “thô tục”, đối với tổ tiên ta chúng mang đầy ý nghĩa về triết lý, vũ trụ quan và nhân sinh quan, nói một cách khác những từ này mang ý nghĩa của Dịch lý.
Vì đây là một bài khảo cứu về ngôn ngữ và Dịch học, nên tác giả xin phép viết các từ thô tục này “nguyên con” (nguyên chữ). Xin các nhà đạo đức tạm gác cái bầu đạo đức qua một bên khi đọc loạt bài này kẻo không sẽ nguy hại tới sức khỏe (đây là lời khuyên của một thầy thuốc).
NƯỜNG
Nường là tiếng cổ Việt chỉ bộ phận sinh dục nữ thấy rõ qua từ kép “nõ nường”. Nõ là nọc là cọc là cặc (xem dưới). Nường là nương, là nang có nghĩa là cái bao, cái túi, cái bọc. Nường là nòng, nõ là nọc. Nõ nường là nọc nòng dương âm là càn khôn. Ta cũng có từ nõn nường hàm nghĩa chỉ bộ phận sinh dục:
Ba mươi sáu cái nõn nường,
Cái để đầu giường, cái gối đầu tay.
(ca dao).
Thật ra nõn nường chỉ bộ phận sinh dục gái tơ với nõn là non, trẻ, mượt mà như vải phin nõn, trắng nõn trắng nà. Từ nõn nà với nà là ná, nạ (mẹ) nàng, nường. Nõn nà là nường non, gái tơ, cái nường trắng nõn, trắng nà. Nõn nà là nàng đẹp tương đương với mị nương chính là Mã Lai-Java ngữ nona, nàng.
LỒN
Lồn là lồng, lòng, nòng, nàng, nường, nang có nghĩa là cái bao cái túi, cái bọc.
Lồn, lồng là dạng nam hóa, hiện kim của nòng, nường (l là dạng nam hóa, hiện kim của n). Lồn liên hệ với lồng thấy rõ trong Anh Pháp ngữ: vagina, vagin (âm đạo) liên hệ với invagination (lồng vào nhau) như intestinal invagination (chứng ruột lồng) còn có tên là intestinal intussusception. Lồng còn có nghĩa là vật đựng, dùng để “nhốt” chim hay gà. Ở một diện, chim biểu tượng cho bộ phận sinh dục nam (xem dưới) và gà trống cũng vậy. Anh ngữ cock là gà trống và cũng là từ chỉ bộ phận sinh dục nam. Anh ngữ “cock” có gốc coc-, chính là Việt ngữ cọc, cặc. Rõ ràng cái lồn, cái lồng dùng để “nhốt” chim và gà của phái nam. Với nghĩa là túi, bao, bọc, lồn tương ứng với Pháp ngữ vagin, Anh ngữ vagina (âm đạo). Theo v=b như víu = bíu, vagin, vagina có gốc vag- = bag (túi, bao). Anh ngữ vaginate có nghĩa là có bao, có túi. Với nghĩa là lồng, lòng, dạ, lồn liên hệ với Ba Lan ngữ lono (‘bosom’, ngực, lòng; lap, đùi, chỗ trũng, chỗ lõm, với Phạn ngữ yoni (vulva, âm hộ) (theo qui luật l=d=y). Phạn ngữ yoni liên hệ với yauna (dạ con), yauna chính là yoni + a. Ta thấy rõ trong tiếng Việt, phái nữ nàng, nương, nường gọi theo bộ phận sinh dục nữ nường, lồn giống hệt như các tộc khác của Ấn Âu ngữ như Phạn ngữ yoshana, yosha, yoshit (đàn bà) là gọi theo yoni. Ý ngữ donna, Tây Ban Nha dona (n có dấu ngã), Bồ Đào Nha dona, v. v… có nghĩa là lady (bà, đàn bà, phái nữ) tất cả có gốc don-, theo d=l như dần dần = lần lần, don- = lồn. Ở Thái Bình có loài sò hến gọi là con don. Món canh don ở Thái Bình rất nổi tiếng. Sò hến có một nghĩa dùng chỉ bộ phận sinh dục phái nữ. Con don là con yoni con lồn.
Cũng xin nói thêm ở đây là vì có biến âm d=l nên ta có từ nói lái đôn lò.
KE
Trong Từ Điển Việt-Bồ-La của Alexandre de Rhodes có từ ke chỉ “chỉ bộ phận sinh dục đàn ông hay đàn bà”. Về phía phái nữ ke chính là kẽ như kẽ nứt, kẽ hở, kẽ tay, đọc thêm hơi vào ke thành khe. Ke, kẽ, khe là những từ tượng hình chỉ bộ phận sinh dục nữ, Anh ngữ bình dân gọi là slit. Cũng trong Từ Điển Việt Bồ La có tứ dánh, dắnh chỉ Lồn. Đây chính là từ dãnh, rãnh chỉ cái khe, cái mương, cái máng.
GHE
Ghe chỉ bộ phận sinh dục nữ như thấy qua câu ca dao:
Khôn thì ăn cháo, ăn chè,
Dại thì ăn đếch, ăn đác, ăn ghe, ăn đồ.
(ca dao).
Ghe chỉ bộ phận sinh dục nữ như thấy qua cách biếu xén quà cáp. Muốn chửi rủa ai, vào dịp giỗ tết đem biếu hai quả cau và ba chén chè. Hai quả cau “nang” chỉ hai cái “trứng” của phái nam và ba (chén) chè nói lái lại là ghe bà. Theo chuyển hóa k= gh như ké = ghé, kê = ghế (cái đòn kê để ngồi là dạng nguyên thủy của cái ghế ngày nay), ta có ke = ghe. Ghe là ke là kẽ, là khe. Ghe chỉ bộ phận sinh dục nữ nên ta có từ “ghế” tiếng nói trại đi của từ “gái”. Con ghế có ghe. Nguyên thủy cái ghe làm từ một thân cây khoét rỗng (dug-out) có hình cái khe. Vì thế mà thuyền độc mộc gọi là cái ghe. Phi Luật Tân Tagalog ngữ gay”là ghe biến âm với gái, theo g = c, gay = cây. Rõ ràng ghe, gay là thuyền độc mộc khoét từ một khúc cây và liên hệ đến gái, bộ phận sinh dục nữ. Ở đây ta có thể dùng tiếng Việt để giải thích nguyên ngữ của từ Anh ngữ she (nàng, nường, phái nữ, đại danh từ ngôi thứ ba số ít, giống cái). She liên hệ với Việt ngữ chị, với Quảng Đông ngữ chế (nên nhớ là Quảng Đông là phần đất cũ của Bách Việt). Áp dụng qui luật c = k = s như cắt = sắt, khe = she. She liên hệ với khe, ghe. She có khe, có ghe ! Một điểm cũng cần nói tới là Việt ngữ ghe cũng có nghĩa là thuyền tàu (ship). Như đã nói, ghe biểu tượng cho bộ phận sinh dục nữ mang tính thuần âm nên chỉ nói là “cái ghe” chứ không bao giờ nói “con ghe”. She gần âm với ship và ship cũng có giống cái phải dùng she thay cho ship.
Xin bước ra ngoài lề bài viết để kể một câu chuyện lúc tôi đi tuần du hải dương (sea cruise). Trong một buổi gặp mặt thuyền trưởng, một du khách hỏi vị thuyền trưởng là tại sao ship có giống cái và nói là she. Vị thuyền trưởng trả lời là các người đi biển coi con tầu, chiếc thuyền như một mỹ nhân, một người yêu, họ sống chết theo con tầu, chiếc thuyền. Tôi có nói nhỏ với vị thuyền trưởng là trong Việt ngữ ghe ship có nghĩa là bộ phận sinh dục nữ. Ông ta há hốc miệng. Bằng chứng là Ainu ngữ của thổ dân ở Nhật có từ chip là ghe thuyền cũng có nghĩa lóng là bộ phận sinh dục nữ (xem dưới).
NỐC, DỐC, ĐỐC
Nốc là cổ ngữ Việt chỉ thuyền, ghe. Ngày nay chỉ thuyền nhỏ, còn dùng ở miền bắc Trung Việt:
Ăn thì cúi chốc, kéo nốc thì than.
(Tục ngữ).
Ăn thì cắm đầu xuống ăn, còn kéo thuyền thì than.
Hay
Một trăm chiếc nốc chèo xuôi,
Không có chiếc mô chèo ngược, để tôi gởi lời viếng thăm.
(Hát đò đưa Nghệ Tĩnh).
Hay
Đêm khuya thắp ngọn đèn chai,
Quen o nốc đáy, ăn hoài cá tươi.
(ca dao).
Cũng nên biết nốc ở dưới nước nên liên hệ tới nước. Nốc còn có nghĩa là uống như nốc nước, nốc rượu. Nốc biến âm với nác, nước, núc. Nguyên thủy nốc cũng làm từ một thân cây khoét rỗng. Nốc liên hệ với Anh ngữ nog (cái chốt bằng khúc cây) log (thân cây). Nốc là ghe cũng có nghĩa là bộ phận sinh dục nữ. Nốc liên hệ với An ngữ nook (chỗ lõm, “xó” nhà, chỗ lõm dùng làm chỗ ngồi ăn gần bếp). Theo n=l, nốc = lốc, lốc cũng chỉ bộ phận sinh dục như thấy qua câu ca dao:
Cô lô cô lốc,
Một nghìn ghính ốc đổ vào Lồn cô.
Thật ra phải viết là “cô lô cô nốc” mới đúng. Từ hiện kim lốc là dạng nam hóa của nốc (giống như lõ của nõ) vô nghĩa. Như thế nguyên thủy nốc là thuyền độc mộc. Cổ ngữ Việt cũng có từ dốc, đốc chỉ thuyền. Trong Từ Điển Việt Bồ La có từ dốc chỉ cơ quan sinh dục đàn bà. Theo n = d như này = đây, ta có nốc = dốc, đốc. Đốc cũng chỉ cơ quan sinh dục đàn bà như thấy qua từ mồng đốc chỉ hạt tình (clitoris) (1). Mồng đốc là cái mồng thịt ở cái đốc, cái nốc phái nữ.
Như thế ta thấy một nhóm chỉ bộ phận sinh dục nữ qua các từ có nghĩa là ghe, nốc liên lạc với nước mang tính thái âm, thuần âm. Ngay cả từ đò đôi khi cũng được dùng để chỉ bộ phận sinh dục nữ như thấy qua câu ca dao:
Khi xưa anh ở cùng đò,
Bây giờ đò rách anh mò thuyền nguyên.
Từ đò gần âm với đồ. Từ đồ có nghĩa là ông đồ nho và cũng có nghĩa là bộ phận sinh dục như thấy qua câu thơ của một nhà thơ cổ chế riễu hai ông nhà nho:
Hai đứa tranh nhau một cái đồ!
Đò biến âm với đỏ. Đỏ cũng có một nghĩa là con gái, bộ phận sinh dục nữ như thấy trong câu hát:
Thằng cu vỗ chài,
Bắt trai bỏ giỏ.
Cái đỏ ẵm em,
Đi xem đánh cá…
Cái đỏ đối với thằng cu, “đỏ” đối với “cu”.
Đò cũng biến âm với đó, dụng cụ bắt cá có hình túi cũng chỉ bộ phận sinh dục nữ như thấy qua câu tục ngữ:
Đó rách ngáng chỗ.
Ý nói các bà vợ có “đó đã rách” nên nằm ngáng chỗ khiến các ông chồng không thể mò được “thuyền nguyên”. Cái hay nữa là “đó” cũng có nghĩa là “ấy”. Cái đó là cái ấy.
Điều rất thú vị là không những các từ cổ Việt chỉ bộ phận sinh dục nữ còn có nghĩa là ghe, nốc mà trong ngôn ngữ của người Ainu (Hà Di), thổ dân sống ở Nhật Bản có từ chỉ bộ phận sinh dục nữ cũng có nghĩa là ghe, nốc. Ainu ngữ chip chỉ ghe thuyền. Ta thấy rất rõ chip liên hệ với Anh ngữ ship (ghe thuyền, theo c=s). Ngoài ra Ainu ngữ chip cũng dùng như một tiếng lóng chỉ âm đạo: “chip, a slang word for the vagina” (Rev. John Batchelor, Aini-English-Japanese Dictionary, Tokyo, 1905). Người cổ Việt đã gặp người Ainu “trong phòng the” cách đây hàng mấy ngàn năm. Nên biết là cái nốc, cái độc mộc có thể đi khắp bốn biển sang tới tận Madagascar (ngày nay thuyền độc mộc còn dùng nhiều ở đảo này, ngôn ngữ Magdagascar liên hệ với tiếng Mã-Nam Dương và Nam Á) thì thuyền độc mộc hay cái “nốc” của phái nữ cổ Việt sang tới đất Nhật Bản cũng là chuyện không có gì đáng ngạc nhiên cả.
Dĩ nhiên, ngoài ra còn có những tiếng lóng chỉ bộ phận sinh dục nữ. Chỉ xin nói tới một từ phổ thông nhất là từ lá đa.
LÁ ĐA
Lá đa chỉ bộ phận sinh dục nữ thấy qua câu ca dao:
Sự đời như cái lá đa,
Đen như mõm chó, chém cha sự đời.
Như đã giải thích ở chương Giống Đực Giống Cái trong Tiếng Việt Huyền Diệu, miền Bắc gọi là cây đa trong khi Trung Nam gọi là cây da. Từ da của Trung Nam theo duy âm, nòng có một nghĩa là cái túi cái bao, cái bọc thân người như da người, da trời. Thái ngữ nang là da. Với nghĩa là túi, bọc, nang nên lá đa là lá nường, là lá nàng, lá nòng, là lồng, Lồn.
Về ngôn ngữ học, lá đa theo duy dương, nọc có nghĩa là lửa, mặt trời, đỏ.
Như thế lá đa theo duy dương là lá trời, lá đỏ (Nguyễn Xuân Quang, Ca Dao Tục Ngữ Tinh Hoa Dân Việt, 2002). Như trên ta đã thấy đỏ cũng chỉ bộ phận sinh dục nữ, phái nữ như “con đỏ ẵm em”. Lá đỏ chỉ bộ phận sinh dục nữ vì thế lá vông cũng dùng chỉ bộ phận sinh dục nữ vì vông biến âm với vang có nghĩa là đỏ. Đỏ biến âm với đẻ, Phạn ngữ ja là đẻ cùng âm với Việt ngữ da, đa. Lá đa, lá vông có thể hiểu là “lá đỏ”, “lá đẻ”. Lá vông chỉ bộ phận sinh dục nữ, phái nữ thấy rõ qua tục mai táng của Việt Nam:
Cha gậy tre, mẹ gây vông.
Khi cha chết con trai chống gậy tre. Như đẵ biết tre là cây “que”, loài thảo mộc thẳng như cái que không có cành nhánh lớn. Que biểu tượng cho bộ phận sinh dục nam, phái nam vì thế mà khi cha chết con trai phải chống gậy tre là vậy. Trong khi đó lá vông là lá đỏ chỉ bộ phận sinh dục nữ, phái nữ nên khi mẹ chết con trai phải chống gậy vông.
Ngoài ra về hình dạng lỗ sinh dục phái nữ cũng giống lá đa. Hình lá đa chỉ lỗ sinh dục phái nữ còn thấy rất rõ trong gốm cổ Moche của Peru (Gốm Tình Dục Peru Cổ).
Gốm diễn tả bộ giống phái nữ làm theo cơ thể học, người nữ hình Mẹ Đời ngồi ở tư thế sinh con, hai tay giơ lên phía đầu, ở trong Trứng Vũ Trụ (ở giữa), hình nòng O (bên trái) và hình lá đa (bên phải), Bảo Tàng Viện Larco (ảnh của tác giả).
Lá đa, lá vông, lá mơ đều có hình dạng giống nhau vì thế “hiện thực” hơn nữa, lá mơ lông cũng dùng chỉ bộ phận sinh dục nữ.
Hơn nữa tổ tiên ta chọn lá đa, lá da và từ lá đa, lá da được dùng phổ thông hơn các thứ lá khác vì cây đa, cây da là cây thờ, cây linh thiêng, Cây Đời (Tree of Life), Cây Vũ Trụ (Cosmic Tree) sinh ra vũ trụ muôn loài. Người đàn bà đầu tiên của loài người hay Mẹ Đời của truyền thuyết Mường Việt cổ là Dạ Dần sinh ra từ một cây si, cùng họ với cây đa (Nguyễn Xuân Quang, Ca Dao Tục Ngữ Tinh Hoa Dân Việt, 2002). Cái lá đa của phụ nữ Việt là một thứ lá “thiêng liêng” vì thế tục thờ “lá đa” nói riêng và thờ nõ nường, thờ dâm thần của người cổ Việt theo mẫu hệ là chuyện dĩ nhiên.
THÌ LA, THÌ LẨY, THÈ LE, TÈ LE
Xin nói tới một từ chỉ bộ phận sinh dục nữ rất bí hiểm không một ai biết nghĩa. Ta có bài đồng dao nói về con gái:
Thì la thì lẩy,
Con gái bẩy nghề,
Ngồi lê là một,
Dựa cột là hai,
Ăn quà là ba,
Kêu ca là bốn,
Trốn việc là năm,
Hay nằm là sáu,
Láu táu là bẩy.
Thì la thì lẩy là gì? Xin thưa bài hát này nói về “con gái” nên thì la, thì lẩy có nghĩa là bộ phận sinh dục nữ. Tiếng dân dã bộ phận sinh dục gọi là cái “thè le” , “tè le” như thấy qua câu nói “dập cái thè le”, “cái tè le”. Mường ngữ có hai từ thim lớ (hay “xiêm rỡ”) chỉ tình nhân cùng âm với thì la. Thì la, thì lẩy, thè le ruột thịt với Mã Lai ngữ *tila, tilay, female genital, tộc Kelantan Borneo teli, vagina, Balinese teli, vulva và Phi Luật Tân Tagalog ngữ tilin, vagina. Tộc Gorontalo (WMP; Pateda 1977) tele, ‘vagina’ = tè le. Trong khi đó gốc til có nghĩa là hạt tình, mồng đốc, hột le, cái thè le (clitoris): tộc Bare’e (WMP; Adriani 1828) tile, ‘clitoris’ = (hột) le’, thè le, thè lè; tộc Samoan (OC; Milner 1966) tela (not in decent use), ‘clitoris’ = thè le. Tôi gọi là ‘hạt tình’ vì gốc til cùng âm với ‘tình’ và “hạt’ tương ứng ‘với “hạt” dẻ rừng (glans) tức qui đầu của phái nam. Về phương diện cơ thể học hạt tình, hạt til clitoris = hạt dẻ glans.
Ông đồ nào là tác giả làm bài đồng dao này cho con nít hát quả thật là một ông “đồ thâm” nho, một ông đồ “nho nặng” (nhọ), đồ này rất “đen” và rất “nhọ”. Cũng nên biết là bài đồng dao này rất phổ biến ở miền Bắc vì thế không phải chỉ có Trung Nam có liên hệ với Nam Đảo như Mã- Phi Luật Tân mà miền Bắc cũng có liên hệ.
NU NA NU NỐNG
Ta cũng thường nghe trẻ em hát bài đồng dao:
Nu na nu nống,
Cái bống nằm trong,
Con ong nằm ngoài. . .
Như đã giải nghĩa ở chương Dịch Học trong Tiếng Việt Huyền Diệu, na là một tiếng cổ Việt có nghĩa là nà (ná, nạ là mẹ), nàng, nang, nường như nõn nà = nõn nường (cái nà, cái nường trắng nõn). Cổ Việt nống là cái nọc để chống, để nâng vật gì lên. Na và nống là nường nõ, nòng nọc. Na là nà, là nàng, là nường là nòng là dòng là nước nên đi với câu hát thứ nhì có con cá bống, còn nống là cọc là nọc nên đi với câu thứ ba có con ong là loài có nọc (“ong non ngứa nọc”). Hai câu sau giải thích nghĩa của hai từ cổ ‘na” và nống”. Còn từ “nu” nghĩa là gì? Nu biến âm với neo, néo, đeo, đéo với đu, đụ. Nu na nu nống hiển nhiên là “đu na đu nống” là làm tình. Ông đồ nào làm ra bài đồng dao này cũng là loại đồ thâm.
Vì đây là một bài khảo cứu về ngôn ngữ và Dịch học, nên tác giả xin phép viết các từ thô tục này “nguyên con” (nguyên chữ). Xin các nhà đạo đức tạm gác cái bầu đạo đức qua một bên khi đọc loạt bài này kẻo không sẽ nguy hại tới sức khỏe (đây là lời khuyên của một thầy thuốc).

NHỮNG TỪ CHỈ BỘ PHẬN SINH DỤC NỮ
Trước hết xin nói về những từ chỉ bộ phận sinh dục phái nữ vì xã hội loài người bắt đầu từ mẫu hệ và hư vô trung tính chuyển qua vũ trụ âm trước. Việt ngữ có những từ chỉ bộ phận sinh dục nữ như nường, Lồn, dánh, ke, ghe, nốc, dốc, đốc v. v…NƯỜNG
Nường là tiếng cổ Việt chỉ bộ phận sinh dục nữ thấy rõ qua từ kép “nõ nường”. Nõ là nọc là cọc là cặc (xem dưới). Nường là nương, là nang có nghĩa là cái bao, cái túi, cái bọc. Nường là nòng, nõ là nọc. Nõ nường là nọc nòng dương âm là càn khôn. Ta cũng có từ nõn nường hàm nghĩa chỉ bộ phận sinh dục:
Ba mươi sáu cái nõn nường,
Cái để đầu giường, cái gối đầu tay.
(ca dao).
Thật ra nõn nường chỉ bộ phận sinh dục gái tơ với nõn là non, trẻ, mượt mà như vải phin nõn, trắng nõn trắng nà. Từ nõn nà với nà là ná, nạ (mẹ) nàng, nường. Nõn nà là nường non, gái tơ, cái nường trắng nõn, trắng nà. Nõn nà là nàng đẹp tương đương với mị nương chính là Mã Lai-Java ngữ nona, nàng.
LỒN
Lồn là lồng, lòng, nòng, nàng, nường, nang có nghĩa là cái bao cái túi, cái bọc.
Lồn, lồng là dạng nam hóa, hiện kim của nòng, nường (l là dạng nam hóa, hiện kim của n). Lồn liên hệ với lồng thấy rõ trong Anh Pháp ngữ: vagina, vagin (âm đạo) liên hệ với invagination (lồng vào nhau) như intestinal invagination (chứng ruột lồng) còn có tên là intestinal intussusception. Lồng còn có nghĩa là vật đựng, dùng để “nhốt” chim hay gà. Ở một diện, chim biểu tượng cho bộ phận sinh dục nam (xem dưới) và gà trống cũng vậy. Anh ngữ cock là gà trống và cũng là từ chỉ bộ phận sinh dục nam. Anh ngữ “cock” có gốc coc-, chính là Việt ngữ cọc, cặc. Rõ ràng cái lồn, cái lồng dùng để “nhốt” chim và gà của phái nam. Với nghĩa là túi, bao, bọc, lồn tương ứng với Pháp ngữ vagin, Anh ngữ vagina (âm đạo). Theo v=b như víu = bíu, vagin, vagina có gốc vag- = bag (túi, bao). Anh ngữ vaginate có nghĩa là có bao, có túi. Với nghĩa là lồng, lòng, dạ, lồn liên hệ với Ba Lan ngữ lono (‘bosom’, ngực, lòng; lap, đùi, chỗ trũng, chỗ lõm, với Phạn ngữ yoni (vulva, âm hộ) (theo qui luật l=d=y). Phạn ngữ yoni liên hệ với yauna (dạ con), yauna chính là yoni + a. Ta thấy rõ trong tiếng Việt, phái nữ nàng, nương, nường gọi theo bộ phận sinh dục nữ nường, lồn giống hệt như các tộc khác của Ấn Âu ngữ như Phạn ngữ yoshana, yosha, yoshit (đàn bà) là gọi theo yoni. Ý ngữ donna, Tây Ban Nha dona (n có dấu ngã), Bồ Đào Nha dona, v. v… có nghĩa là lady (bà, đàn bà, phái nữ) tất cả có gốc don-, theo d=l như dần dần = lần lần, don- = lồn. Ở Thái Bình có loài sò hến gọi là con don. Món canh don ở Thái Bình rất nổi tiếng. Sò hến có một nghĩa dùng chỉ bộ phận sinh dục phái nữ. Con don là con yoni con lồn.
Cũng xin nói thêm ở đây là vì có biến âm d=l nên ta có từ nói lái đôn lò.
KE
Trong Từ Điển Việt-Bồ-La của Alexandre de Rhodes có từ ke chỉ “chỉ bộ phận sinh dục đàn ông hay đàn bà”. Về phía phái nữ ke chính là kẽ như kẽ nứt, kẽ hở, kẽ tay, đọc thêm hơi vào ke thành khe. Ke, kẽ, khe là những từ tượng hình chỉ bộ phận sinh dục nữ, Anh ngữ bình dân gọi là slit. Cũng trong Từ Điển Việt Bồ La có tứ dánh, dắnh chỉ Lồn. Đây chính là từ dãnh, rãnh chỉ cái khe, cái mương, cái máng.
GHE
Ghe chỉ bộ phận sinh dục nữ như thấy qua câu ca dao:
Khôn thì ăn cháo, ăn chè,
Dại thì ăn đếch, ăn đác, ăn ghe, ăn đồ.
(ca dao).
Ghe chỉ bộ phận sinh dục nữ như thấy qua cách biếu xén quà cáp. Muốn chửi rủa ai, vào dịp giỗ tết đem biếu hai quả cau và ba chén chè. Hai quả cau “nang” chỉ hai cái “trứng” của phái nam và ba (chén) chè nói lái lại là ghe bà. Theo chuyển hóa k= gh như ké = ghé, kê = ghế (cái đòn kê để ngồi là dạng nguyên thủy của cái ghế ngày nay), ta có ke = ghe. Ghe là ke là kẽ, là khe. Ghe chỉ bộ phận sinh dục nữ nên ta có từ “ghế” tiếng nói trại đi của từ “gái”. Con ghế có ghe. Nguyên thủy cái ghe làm từ một thân cây khoét rỗng (dug-out) có hình cái khe. Vì thế mà thuyền độc mộc gọi là cái ghe. Phi Luật Tân Tagalog ngữ gay”là ghe biến âm với gái, theo g = c, gay = cây. Rõ ràng ghe, gay là thuyền độc mộc khoét từ một khúc cây và liên hệ đến gái, bộ phận sinh dục nữ. Ở đây ta có thể dùng tiếng Việt để giải thích nguyên ngữ của từ Anh ngữ she (nàng, nường, phái nữ, đại danh từ ngôi thứ ba số ít, giống cái). She liên hệ với Việt ngữ chị, với Quảng Đông ngữ chế (nên nhớ là Quảng Đông là phần đất cũ của Bách Việt). Áp dụng qui luật c = k = s như cắt = sắt, khe = she. She liên hệ với khe, ghe. She có khe, có ghe ! Một điểm cũng cần nói tới là Việt ngữ ghe cũng có nghĩa là thuyền tàu (ship). Như đã nói, ghe biểu tượng cho bộ phận sinh dục nữ mang tính thuần âm nên chỉ nói là “cái ghe” chứ không bao giờ nói “con ghe”. She gần âm với ship và ship cũng có giống cái phải dùng she thay cho ship.

Xin bước ra ngoài lề bài viết để kể một câu chuyện lúc tôi đi tuần du hải dương (sea cruise). Trong một buổi gặp mặt thuyền trưởng, một du khách hỏi vị thuyền trưởng là tại sao ship có giống cái và nói là she. Vị thuyền trưởng trả lời là các người đi biển coi con tầu, chiếc thuyền như một mỹ nhân, một người yêu, họ sống chết theo con tầu, chiếc thuyền. Tôi có nói nhỏ với vị thuyền trưởng là trong Việt ngữ ghe ship có nghĩa là bộ phận sinh dục nữ. Ông ta há hốc miệng. Bằng chứng là Ainu ngữ của thổ dân ở Nhật có từ chip là ghe thuyền cũng có nghĩa lóng là bộ phận sinh dục nữ (xem dưới).
NỐC, DỐC, ĐỐC
Nốc là cổ ngữ Việt chỉ thuyền, ghe. Ngày nay chỉ thuyền nhỏ, còn dùng ở miền bắc Trung Việt:
Ăn thì cúi chốc, kéo nốc thì than.
(Tục ngữ).
Ăn thì cắm đầu xuống ăn, còn kéo thuyền thì than.
Hay
Một trăm chiếc nốc chèo xuôi,
Không có chiếc mô chèo ngược, để tôi gởi lời viếng thăm.
(Hát đò đưa Nghệ Tĩnh).
Hay
Đêm khuya thắp ngọn đèn chai,
Quen o nốc đáy, ăn hoài cá tươi.
(ca dao).
Cũng nên biết nốc ở dưới nước nên liên hệ tới nước. Nốc còn có nghĩa là uống như nốc nước, nốc rượu. Nốc biến âm với nác, nước, núc. Nguyên thủy nốc cũng làm từ một thân cây khoét rỗng. Nốc liên hệ với Anh ngữ nog (cái chốt bằng khúc cây) log (thân cây). Nốc là ghe cũng có nghĩa là bộ phận sinh dục nữ. Nốc liên hệ với An ngữ nook (chỗ lõm, “xó” nhà, chỗ lõm dùng làm chỗ ngồi ăn gần bếp). Theo n=l, nốc = lốc, lốc cũng chỉ bộ phận sinh dục như thấy qua câu ca dao:
Cô lô cô lốc,
Một nghìn ghính ốc đổ vào Lồn cô.
Thật ra phải viết là “cô lô cô nốc” mới đúng. Từ hiện kim lốc là dạng nam hóa của nốc (giống như lõ của nõ) vô nghĩa. Như thế nguyên thủy nốc là thuyền độc mộc. Cổ ngữ Việt cũng có từ dốc, đốc chỉ thuyền. Trong Từ Điển Việt Bồ La có từ dốc chỉ cơ quan sinh dục đàn bà. Theo n = d như này = đây, ta có nốc = dốc, đốc. Đốc cũng chỉ cơ quan sinh dục đàn bà như thấy qua từ mồng đốc chỉ hạt tình (clitoris) (1). Mồng đốc là cái mồng thịt ở cái đốc, cái nốc phái nữ.
Như thế ta thấy một nhóm chỉ bộ phận sinh dục nữ qua các từ có nghĩa là ghe, nốc liên lạc với nước mang tính thái âm, thuần âm. Ngay cả từ đò đôi khi cũng được dùng để chỉ bộ phận sinh dục nữ như thấy qua câu ca dao:
Khi xưa anh ở cùng đò,
Bây giờ đò rách anh mò thuyền nguyên.
Từ đò gần âm với đồ. Từ đồ có nghĩa là ông đồ nho và cũng có nghĩa là bộ phận sinh dục như thấy qua câu thơ của một nhà thơ cổ chế riễu hai ông nhà nho:
Hai đứa tranh nhau một cái đồ!
Đò biến âm với đỏ. Đỏ cũng có một nghĩa là con gái, bộ phận sinh dục nữ như thấy trong câu hát:
Thằng cu vỗ chài,
Bắt trai bỏ giỏ.
Cái đỏ ẵm em,
Đi xem đánh cá…
Cái đỏ đối với thằng cu, “đỏ” đối với “cu”.
Đò cũng biến âm với đó, dụng cụ bắt cá có hình túi cũng chỉ bộ phận sinh dục nữ như thấy qua câu tục ngữ:
Đó rách ngáng chỗ.
Ý nói các bà vợ có “đó đã rách” nên nằm ngáng chỗ khiến các ông chồng không thể mò được “thuyền nguyên”. Cái hay nữa là “đó” cũng có nghĩa là “ấy”. Cái đó là cái ấy.
Điều rất thú vị là không những các từ cổ Việt chỉ bộ phận sinh dục nữ còn có nghĩa là ghe, nốc mà trong ngôn ngữ của người Ainu (Hà Di), thổ dân sống ở Nhật Bản có từ chỉ bộ phận sinh dục nữ cũng có nghĩa là ghe, nốc. Ainu ngữ chip chỉ ghe thuyền. Ta thấy rất rõ chip liên hệ với Anh ngữ ship (ghe thuyền, theo c=s). Ngoài ra Ainu ngữ chip cũng dùng như một tiếng lóng chỉ âm đạo: “chip, a slang word for the vagina” (Rev. John Batchelor, Aini-English-Japanese Dictionary, Tokyo, 1905). Người cổ Việt đã gặp người Ainu “trong phòng the” cách đây hàng mấy ngàn năm. Nên biết là cái nốc, cái độc mộc có thể đi khắp bốn biển sang tới tận Madagascar (ngày nay thuyền độc mộc còn dùng nhiều ở đảo này, ngôn ngữ Magdagascar liên hệ với tiếng Mã-Nam Dương và Nam Á) thì thuyền độc mộc hay cái “nốc” của phái nữ cổ Việt sang tới đất Nhật Bản cũng là chuyện không có gì đáng ngạc nhiên cả.
Dĩ nhiên, ngoài ra còn có những tiếng lóng chỉ bộ phận sinh dục nữ. Chỉ xin nói tới một từ phổ thông nhất là từ lá đa.
LÁ ĐA
Lá đa chỉ bộ phận sinh dục nữ thấy qua câu ca dao:
Sự đời như cái lá đa,
Đen như mõm chó, chém cha sự đời.
Như đã giải thích ở chương Giống Đực Giống Cái trong Tiếng Việt Huyền Diệu, miền Bắc gọi là cây đa trong khi Trung Nam gọi là cây da. Từ da của Trung Nam theo duy âm, nòng có một nghĩa là cái túi cái bao, cái bọc thân người như da người, da trời. Thái ngữ nang là da. Với nghĩa là túi, bọc, nang nên lá đa là lá nường, là lá nàng, lá nòng, là lồng, Lồn.
Về ngôn ngữ học, lá đa theo duy dương, nọc có nghĩa là lửa, mặt trời, đỏ.
Như thế lá đa theo duy dương là lá trời, lá đỏ (Nguyễn Xuân Quang, Ca Dao Tục Ngữ Tinh Hoa Dân Việt, 2002). Như trên ta đã thấy đỏ cũng chỉ bộ phận sinh dục nữ, phái nữ như “con đỏ ẵm em”. Lá đỏ chỉ bộ phận sinh dục nữ vì thế lá vông cũng dùng chỉ bộ phận sinh dục nữ vì vông biến âm với vang có nghĩa là đỏ. Đỏ biến âm với đẻ, Phạn ngữ ja là đẻ cùng âm với Việt ngữ da, đa. Lá đa, lá vông có thể hiểu là “lá đỏ”, “lá đẻ”. Lá vông chỉ bộ phận sinh dục nữ, phái nữ thấy rõ qua tục mai táng của Việt Nam:
Cha gậy tre, mẹ gây vông.
Khi cha chết con trai chống gậy tre. Như đẵ biết tre là cây “que”, loài thảo mộc thẳng như cái que không có cành nhánh lớn. Que biểu tượng cho bộ phận sinh dục nam, phái nam vì thế mà khi cha chết con trai phải chống gậy tre là vậy. Trong khi đó lá vông là lá đỏ chỉ bộ phận sinh dục nữ, phái nữ nên khi mẹ chết con trai phải chống gậy vông.
Ngoài ra về hình dạng lỗ sinh dục phái nữ cũng giống lá đa. Hình lá đa chỉ lỗ sinh dục phái nữ còn thấy rất rõ trong gốm cổ Moche của Peru (Gốm Tình Dục Peru Cổ).
Gốm diễn tả bộ giống phái nữ làm theo cơ thể học, người nữ hình Mẹ Đời ngồi ở tư thế sinh con, hai tay giơ lên phía đầu, ở trong Trứng Vũ Trụ (ở giữa), hình nòng O (bên trái) và hình lá đa (bên phải), Bảo Tàng Viện Larco (ảnh của tác giả).
Lá đa, lá vông, lá mơ đều có hình dạng giống nhau vì thế “hiện thực” hơn nữa, lá mơ lông cũng dùng chỉ bộ phận sinh dục nữ.
Hơn nữa tổ tiên ta chọn lá đa, lá da và từ lá đa, lá da được dùng phổ thông hơn các thứ lá khác vì cây đa, cây da là cây thờ, cây linh thiêng, Cây Đời (Tree of Life), Cây Vũ Trụ (Cosmic Tree) sinh ra vũ trụ muôn loài. Người đàn bà đầu tiên của loài người hay Mẹ Đời của truyền thuyết Mường Việt cổ là Dạ Dần sinh ra từ một cây si, cùng họ với cây đa (Nguyễn Xuân Quang, Ca Dao Tục Ngữ Tinh Hoa Dân Việt, 2002). Cái lá đa của phụ nữ Việt là một thứ lá “thiêng liêng” vì thế tục thờ “lá đa” nói riêng và thờ nõ nường, thờ dâm thần của người cổ Việt theo mẫu hệ là chuyện dĩ nhiên.
THÌ LA, THÌ LẨY, THÈ LE, TÈ LE
Xin nói tới một từ chỉ bộ phận sinh dục nữ rất bí hiểm không một ai biết nghĩa. Ta có bài đồng dao nói về con gái:
Thì la thì lẩy,
Con gái bẩy nghề,
Ngồi lê là một,
Dựa cột là hai,
Ăn quà là ba,
Kêu ca là bốn,
Trốn việc là năm,
Hay nằm là sáu,
Láu táu là bẩy.
Thì la thì lẩy là gì? Xin thưa bài hát này nói về “con gái” nên thì la, thì lẩy có nghĩa là bộ phận sinh dục nữ. Tiếng dân dã bộ phận sinh dục gọi là cái “thè le” , “tè le” như thấy qua câu nói “dập cái thè le”, “cái tè le”. Mường ngữ có hai từ thim lớ (hay “xiêm rỡ”) chỉ tình nhân cùng âm với thì la. Thì la, thì lẩy, thè le ruột thịt với Mã Lai ngữ *tila, tilay, female genital, tộc Kelantan Borneo teli, vagina, Balinese teli, vulva và Phi Luật Tân Tagalog ngữ tilin, vagina. Tộc Gorontalo (WMP; Pateda 1977) tele, ‘vagina’ = tè le. Trong khi đó gốc til có nghĩa là hạt tình, mồng đốc, hột le, cái thè le (clitoris): tộc Bare’e (WMP; Adriani 1828) tile, ‘clitoris’ = (hột) le’, thè le, thè lè; tộc Samoan (OC; Milner 1966) tela (not in decent use), ‘clitoris’ = thè le. Tôi gọi là ‘hạt tình’ vì gốc til cùng âm với ‘tình’ và “hạt’ tương ứng ‘với “hạt” dẻ rừng (glans) tức qui đầu của phái nam. Về phương diện cơ thể học hạt tình, hạt til clitoris = hạt dẻ glans.
Ông đồ nào là tác giả làm bài đồng dao này cho con nít hát quả thật là một ông “đồ thâm” nho, một ông đồ “nho nặng” (nhọ), đồ này rất “đen” và rất “nhọ”. Cũng nên biết là bài đồng dao này rất phổ biến ở miền Bắc vì thế không phải chỉ có Trung Nam có liên hệ với Nam Đảo như Mã- Phi Luật Tân mà miền Bắc cũng có liên hệ.
NU NA NU NỐNG
Ta cũng thường nghe trẻ em hát bài đồng dao:
Nu na nu nống,
Cái bống nằm trong,
Con ong nằm ngoài. . .
Như đã giải nghĩa ở chương Dịch Học trong Tiếng Việt Huyền Diệu, na là một tiếng cổ Việt có nghĩa là nà (ná, nạ là mẹ), nàng, nang, nường như nõn nà = nõn nường (cái nà, cái nường trắng nõn). Cổ Việt nống là cái nọc để chống, để nâng vật gì lên. Na và nống là nường nõ, nòng nọc. Na là nà, là nàng, là nường là nòng là dòng là nước nên đi với câu hát thứ nhì có con cá bống, còn nống là cọc là nọc nên đi với câu thứ ba có con ong là loài có nọc (“ong non ngứa nọc”). Hai câu sau giải thích nghĩa của hai từ cổ ‘na” và nống”. Còn từ “nu” nghĩa là gì? Nu biến âm với neo, néo, đeo, đéo với đu, đụ. Nu na nu nống hiển nhiên là “đu na đu nống” là làm tình. Ông đồ nào làm ra bài đồng dao này cũng là loại đồ thâm.