Với người trái ngược quan điểm thì phải lập luận chứ không nên khẳng định là có kiếp trước, kiếp sau ngay từ đầu.
Trước hết nên bỏ qua vụ kiếp trước, kiếp sau. Hãy nói về vũ trụ đi.
Trên thế giới chủ yếu có 2 quan điểm :
+ Vũ trụ hay trái đất
có do ai đó tạo ra.
+ Vũ trụ hay trái đất
không do ai đó tạo ra.
Tiếp theo là vũ trụ này
có trường tồn hay
không trường tồn ?
Vũ trụ
có giới hạn, biên giới hay
không có giới hạn, không biên giới
Vũ trụ này
vào thời quá khứ đã xuất hiện hay chưa,
vào thời tương lai vũ trụ này có tiếp tục tồn tại ?
Khoa học xác định này so với những gì khám phá được thì trái đất so với độ bao la của vũ trụ thì chỉ như 1 hạt bụi thôi.
Vậy còn có
những hành tinh có sự sống như trái đất hay không ? Hay
có hệ vũ trụ khác hay không.
Tiếp theo là tới con người.
Đối với mỗi cá nhân thì mọi thứ ở đời chỉ có khi người đó nhận thức được.
Ví dụ :
Trái đất bản chất là luôn luôn hình cầu, luôn luôn xoay quanh mặt trời. Nhưng thực tế thì đến mãi về sau mới có học thuyết.
Sơ lược :
Các nhà khoa học đóng góp vào việc khám phá hình cầu của Trái Đất :
- Pythagoras (khoảng 500 TCN): Đầu tiên giả thuyết rằng Trái Đất có hình dạng tròn dựa trên quan điểm thẩm mỹ.
- Aristotle (384–322 TCN): Đưa ra bằng chứng quan sát từ nhật thực và các hiện tượng tự nhiên khác.
- Eratosthenes (276–194 TCN): Tính toán chu vi của Trái Đất một cách khá chính xác bằng phép đo góc mặt trời tại hai địa điểm khác nhau.
Tuy nhiên, dù những suy luận này từng bị lãng quên hoặc không được chấp nhận rộng rãi,
chính Galileo Galilei trong thế kỷ 17 đã làm sống lại và củng cố lý thuyết này bằng cách sử dụng kính thiên văn để quan sát các vì sao và các hành tinh.
Cuộc đấu tranh của ông với Giáo hội đã giúp khẳng định và lan tỏa lý thuyết nhật tâm mà trong đó Trái Đất không phải là trung tâm của vũ trụ.
Bằng chứng từ thời hiện đại:
Với sự phát triển của công nghệ, những hình ảnh Trái Đất chụp từ không gian đã cung cấp bằng chứng không thể chối cãi về hình dạng cầu của nó. Các tấm ảnh từ vệ tinh và các chuyến bay vũ trụ đã cho thấy rõ ràng Trái Đất là hình cầu, dẫn đến sự chấp nhận rộng rãi của lý thuyết này trong cộng đồng khoa học hiện đại.
Cũng như vậy,
việc phát minh là việc tìm thấy
sự kết hợp giữa các điều kiện tự nhiên 1 cách hợp lí.
Cái A+ với cái B một cách hợp lí thì sẽ tạo ra cái C. Trên đời này không có gì là 1, tồn tại và độc lập 1 mình riêng lẻ nó.
Theo Vật lí lượng tử thì
vật chất của thế giới này được tồn tại theo dạng sóng và hạt :
Louis de Broglie, Albert Einstein và Max Planck là những người đóng góp dẫn đến sự phát triển của cơ học lượng tử, nơi lưỡng tính sóng-hạt được công nhận như một thuộc tính cơ bản của vật chất.
Xem thêm :
Lưỡng tính sóng–hạt là một thuộc tính cơ bản của vật chất, thể hiện ở điểm mọi đối tượng vật chất di chuyển trong không gian đều có tính chất như là sự lan truyền của sóng tương ứng với vật chất đó, đồng thời cũng có tính chất của các hạt chuyển động. Là một khái niệm trung tâm của cơ học lượng tử, lưỡng tính sóng-hạt nhấn mạnh sự thiếu sót của các khái niệm cổ điển như "sóng" và "hạt" trong việc mô tả đầy đủ hành trạng của các thực thể vật chất ở các thang nguyên tử (nguyên tử và phân tử) và hạ nguyên tử (hạt nhân, proton, electron, photon...). Những luận giải chính thống về cơ học lượng tử giải thích điều dường như là một nghịch lý này như là một thuộc tính cơ bản của toàn bộ vật chất trong Vũ trụ, trong khi các luận giải khác giải thích lưỡng tính sóng-hạt như là một hệ quả xuất hiện do những hạn chế khác nhau của người quan sát.
Lưỡng tính sóng–hạt là một thuộc tính cơ bản của vật chất, thể hiện ở điểm mọi đối tượng vật chất di chuyển trong không gian đều có tính chất như là sự lan truyền của sóng tương ứng với vật chất đó, đồng thời cũng có tính chất của các hạt chuyển động. Là một khái niệm trung tâm của cơ học lượng tử, lưỡng tính sóng-hạt nhấn mạnh sự thiếu sót của các khái niệm cổ điển như "sóng" và "hạt" trong việc mô tả đầy đủ hành trạng của các thực thể vật chất ở các thang nguyên tử (nguyên tử và phân tử) và hạt nguyên tử (hạt nhân, proton, electron, photon...). Những luận giải chính thống về cơ học lượng tử giải thích điều dường như là một nghịch lý này như là một thuộc tính cơ bản của toàn bộ vật chất trong Vũ trụ, trong khi các luận giải khác giải thích lưỡng tính sóng-hạt như là một hệ quả xuất hiện do những hạn chế khác nhau của người quan sát.
Vậy suy ra cấu tạo của mọi vật trên đời này được liên kết, kết cấu, tác động nhau bởi vô số điều kiện hết sức phức tạp. Đó là phần vật chất, vật lí sinh học hay còn gọi là thể xác, thân sác khi nói về con người.
Tiếp theo, con người chỉ được tính là hiện hữu, tồn tại khi được kết hợp giữa phần thể xác và tinh thần (xác và hồn).
Nếu không có phần tinh thần, ý thức hay hồn thì không thể gọi là con người mà gọi cái đó là xác chết !!
Vậy phần tinh thần, ý thức, linh hồn đến từ đâu ?
Trong tiếng Anh có từ spirit.
Theo như Cambrigde định nghĩa như sau : a particular way of thinking, feeling, or behaving, especially a way that is typical of a particular group of people, an activity, a time, or a place.
Còn theo như Oxford định nghĩa : the part of a person that includes their mind, feelings and character rather than their body
Từ "spirit" có nguồn gốc từ tiếng Latinh và đã trải qua nhiều biến đổi qua các ngôn ngữ trước khi đến tiếng Anh hiện đại. Dưới đây là quá trình phát triển của từ này:
- Tiếng Latinh: Từ "spiritus" có nghĩa là "hơi thở" hoặc "hơi thở của sự sống." Nó bắt nguồn từ động từ "spirare," có nghĩa là "thở."
- Tiếng Pháp cổ: Từ "espirit" hoặc "esprit" trong tiếng Pháp cổ (được mượn từ tiếng Latinh) mang nghĩa "linh hồn," "tinh thần," hoặc "trí tuệ."
- Tiếng Anh cổ: Từ "spirit" xuất hiện trong tiếng Anh cổ với các nghĩa tương tự như trong tiếng Latinh và tiếng Pháp cổ. Nó bắt đầu được sử dụng rộng rãi trong các văn bản tôn giáo và triết học để chỉ linh hồn hoặc tinh thần của con người.
Trong tiếng Anh hiện đại, "spirit" mang nhiều nghĩa khác nhau, bao gồm:
- Linh hồn hoặc tinh thần của con người hoặc sinh vật.
- Tinh thần hoặc thái độ của một nhóm hoặc cá nhân.
- Năng lượng, sự sống động, hoặc nhiệt huyết.
- Hơi thở hoặc khí.
Quá trình biến đổi này cho thấy cách từ "spirit" đã phát triển từ ý nghĩa cơ bản liên quan đến hơi thở và sự sống đến các khái niệm phức tạp hơn về tinh thần và linh hồn trong nhiều ngữ cảnh khác nhau.
Chứng tỏ từ xa xưa giữa các quốc gia đã có đồng quan điểm, tư tưởng, tư duy là con người do một "Đấng" nào đó "thổi hồn" vào để tạo nên sự sống. Vậy hiện tại sự thổi hồn đó ở đâu ? Đó cũng là 1 điều cần note lại để thảo luận.
Vậy rốt cuộc sự tồn tại của mỗi con người trong vũ trụ bao la, rộng lớn này có ý nghĩa gì ?
Chẳng lẻ chỉ có sinh ra, lớn lên, ăn 1 đống thị phi, cay đắng của cuộc đời buồn nhiều hay vui rồi chết hay sao ?
Trên thực tế thì rất nhiều người không hề hạnh phúc với sự hiện hữu, oán trách đời, trách cha, trách mẹ đã sinh ra, tạo ra họ. Liệu như vậy có đúng đắn không khi sự hiện hữu của họ là đau khổ.
Đau khổ, oán than 1 đời, 1 kiếp người. Rồi sau đó lại chết đi, thời gian xóa nhòa tên tuổi, phai mờ tên trên mộ bia. Gì cũng qua, rồi cũng xong, một đời lăn lộn dù cho hào hùng, trượng nghĩa hay là kẻ tiểu nhân, điếm thúi rồi cũng về với cát bụi.
Vậy sống tốt, sống ác, sống hiền thiện hay là kẻ thất phu thì cũng chung 1 số phận là về với đất.
Có bao giờ chúng ta đặt câu hỏi rằng "bản chất của hiện hữu là sinh ra rồi chết đi thôi hay sao ?"
Do cuộc đời này đau khổ, nghèo nhiều hơn giàu, máu lệ nhiều hơn là vui sướng nên từ đó mới đẻ ra vô số tín ngưỡng, tôn giáo, quan điểm triết học, hệ tư tưởng ... cốt cũng là để phục vụ con người, giúp vận hành xã hội này.
Từ đó hình thành và gom gọn là 2 trường phái chính trong hệ tư tưởng của nhân loại :
- Sau cái chết người ta tiếp tục hiện hữu.
- Sau cái chết không còn hiện hữu.
Sau cái chết người ta tiếp tục hiện hữu cũng chia thành nhiều dạng :
- Về với Chúa trời, Đấng Tạo Hóa, về với ông bà, làm thần, thánh, làm ma hay tồn tại dưới dạng linh hồn, thần thức .... theo như vô số quan điểm tín ngưỡng, tôn giáo ...
- Sẽ tiếp tục luân hồi chuyển kiếp rồi chờ 1 ngày về với Đại Ngã lớn như nền triết học - tôn giáo Ấn Độ.
Những người theo quan điểm còn hiện hữu thường tin vào hệ thống thưởng - phạt dựa theo quan điểm tôn giáo, tín ngưỡng, triết học ... mà họ tin theo.
Còn những người không tin sự hiện hữu sau khi chết thì sẽ có 3 dạng :
- Cho rằng mọi thứ ngẫu nhiên mà có, không do ai tạo, hay do cái này có cái kia ... gì hết.
- Vì không tin theo hệ thống thưởng - phạt sau khi chết nên tin rằng thiện ác giống hệt nhau chỉ là hành động mà thôi, mỗi người có thể tha hồ sống và hành động theo ý thích.
- Cho rằng những gì mình không thể chứng minh, không thấy biết được thì là không có thật chẳng hạn như các vấn đề nhân quả báo ứng, luân hồi tái sinh, sự hiện hữu của Thánh nhân, của các loài khuất mặt.
Tạm thời là như vậy, cái này nếu nói rốt ráo thì vô cùng tận.
Chốt lại ở đây chờ phản hồi của các xammers !