Johnny Lê Nữu Vượng
Già làng


Dự án Irắc – Pháp – Italia
Dưới ánh hoàng hôn đỏ rực của ngày 7 tháng 6 năm 1981, bầu trời sa mạc Trung Đông bị xé toạc bởi tiếng gầm của những chiếc tiêm kích F-16A mang biểu tượng Ngôi sao David. Không quân Israel (IAF), trong một phi vụ táo bạo mang tên Operation Opera, đã thực hiện một cuộc không kích chớp nhoáng nhằm phá hủy lò phản ứng hạt nhân Osirak (Tamuz-1) tại Tuwaitha, Iraq.
Đây là lần đầu tiên một quốc gia công khai tấn công cơ sở hạt nhân của nước khác, mở ra một chương mới trong chiến lược an ninh của Israel và làm rung chuyển địa chính trị toàn cầu. Câu chuyện về phi vụ này, từ những giờ phút chuẩn bị bí mật đến khoảnh khắc bom rơi, là một câu chuyện đầy kịch tính, mạo hiểm, và tham vọng nay được giải mã dần.
Thủ tướng Israel Menachem Begin, người sống sót sau Holocaust và mang niềm tin mãnh liệt vào sự sống còn của Israel, không thể chấp nhận nguy cơ này. Với Saddam Hussein, một nhà lãnh đạo nổi tiếng hiếu chiến và thù địch với Israel, việc Iraq sở hữu vũ khí hạt nhân là "mối đe dọa hiện hữu". Năm 1980, Iran từng tấn công Osirak trong Chiến tranh Iran-Iraq (Operation Scorch Sword), gây thiệt hại nhẹ, nhưng lò phản ứng vẫn hoạt động. Israel quyết định phải hành động trước khi Osirak được nạp nhiên liệu và đi vào hoạt động, tránh nguy cơ rò rỉ phóng xạ lớn.

Mùa thu năm 1980, giới chức tình báo quân sự Ixraen báo cáo rằng lò phản ứng hạt nhân Osirak, cách thủ đô Bátđa hơn 21 km về phía đông nam, sẽ đi vào hoạt động trong khoảng từ tháng 7 – 11/1981. Họ cho rằng, Tổng thống Irắc Saddam Hussein không cần thiết phải có một lò phản ứng hạt nhân để sản xuất điện hay để phục vụ cho các mục đích hòa bình khác, bởi trữ lượng dầu mỏ của Irắc đứng hàng thứ sáu trên thế giới

Cơ sở hạt nhân Osirak
Theo Ixraen, cái mà Tổng thống Saddam thực sự muốn từ lò phản ứng hạt nhân này là nhiên liệu nguyên tử đã qua sử dụng, từ đó plutonium có thể được chiết xuất để sản xuất phần lõi của một quả bom nguyên tử. Đích đến của quả bom này sẽ là Ixraen.
Nếu Ixraen dự kiến hành động, nước này phải tiến hành sớm. Một khi lò phản ứng đã đi vào hoạt động và được nạp nhiên liệu uranium, một trận ném bom sẽ khiến bụi phóng xạ bao phủ khắp Bátđa.
Chính quyền Hussein mua lò phản ứng này từ Pháp, nước cũng cung cấp công nghệ hạt nhân cho Ixraen trong những năm 1950. Kể từ đó, Pháp thay đổi chính sách và tìm cách cải thiện quan hệ với thế giới Arập. Trước tình trạng khan hiếm dầu mỏ ở Mỹ và Tây Âu sau lệnh cấm vận dầu mỏ các nước Arập diễn ra trong khoảng năm 1973 – 1974, nước Pháp mong muốn tìm kiếm một nguồn cung ổn định.

Khi Irắc đưa ra đề nghị mua một lò phản ứng hạt nhân, Pháp nhận thấy đây là cơ hội để mua dầu mỏ với mức giá hấp dẫn nên họ không thể bỏ qua. Lợi nhuận từ các thương vụ bán vũ khí cũng là một khía cạnh khiến họ phải cân nhắc. Năm 1975, Pháp đồng ý bán cho Irắc một lò phản ứng Osirak có công suất 70 megawatt và một lò phản ứng Isis công suất dưới 1 megawatt để phục vụ cho công tác đào tạo nhân lực. Italia, với những động cơ tương tự, cũng đồng ý cung cấp cho Irắc một nhà máy để tái chế nhiên liệu hạt nhân và tách plutonium.
Năm 1976, người ta bắt đầu xây dựng một cơ sở hạt nhân ở al Tuwaitha, gần một khúc quanh trên dòng sông Tigris. Tên tiếng Pháp của lò phản ứng lớn hơn là “Osirak”, kết hợp giữa hai cái tên “Osiris” và Irắc. Tổng thống Hussein và các nhà lãnh đạo Irắc đặt tên lại cho các lò phản ứng lần lượt là Tammuz I và II, theo tên của ngày Tammuz 17 (17/7), ngày họ giành được chính quyền từ tay chế độ cũ vào năm 1958. Đối với thế giới, lò phản ứng lớn và cơ sở hạt nhân tiếp tục được gọi là Osirak.
Năm 1978, Pháp đồng ý cung cấp uranium đã được làm giàu ở cấp độ cao cho các lò phản ứng hạt nhân này, thay vì cấp độ thấp hơn theo đề nghị của phía Ixraen. Tuy nhiên, đến tháng 4/1979, hai lõi của lò phản ứng bị phá hủy trong một vụ phá hoại ở Pháp, ngay trước thời điểm chúng được vận chuyển sang Irắc. Điều này khiến dự án bị lùi lại sáu tháng; nhiều ý kiến cho rằng vụ phá hoại liên quan đến cơ quan tình báo Ixraen, Mossad.

Lò phản ứng nhỏ Isis/Tammuz II đi vào hoạt động từ tháng 2/1980. Tháng 6/1980, chuyến hàng uranium làm giàu đầu tiên đã được vận chuyển đến Irắc.
Ixraen kêu gọi Pháp và Italia ngừng hỗ trợ Irắc, đồng thời tìm kiếm sự ủng hộ của Mỹ và một vài nước khác. Tuy vậy, động thái này của Ixraen không được cộng đồng quốc tế chú ý tới. Lúc đó, kể cả Mỹ, đồng minh lớn nhất của Ixraen, cũng có đôi chút thiện cảm với Tổng thống Hussein bởi giữa Irắc và Iran đã từng xảy ra một cuộc chiến tranh vào tháng 9/1980. Mỹ coi Iran, nước đã bắt giữ 52 người Mỹ làm con tin trong hơn một năm, là kẻ thù chính của họ ở khu vực này. Tuy nhiên, Giám đốc Cơ quan tình báo Trung ương Mỹ (CIA) William J. Casey cho phép Ixraen tiếp cận các tấm ảnh về cơ sở al Tuwaitha được chụp bởi vệ tinh trinh sát KH-11 của Mỹ.
Trong khi Ixraen đứng ngồi không yên về cơ sở hạt nhân của Irắc thì Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) khẳng định, lò phản ứng hạt nhân của Irắc không phải được sử dụng cho các mục đích quân sự. Trước khi đưa ra lời khẳng định này, IAEA đã tiến hành các chuyến thanh sát tại Irắc. Tuy nhiên, kết luận này của IAEA không khiến Ixraen yên tâm hơn, thậm chí nước này còn tỏ ra nghi ngờ khi cho rằng, những chuyến thanh sát này của IAEA là vô giá trị bởi những lý do sau: Các nước bị thanh sát có thể phủ quyết các chuyến đi của những thanh sát viên mà họ không thích; Liên Xô và Hunggari lại tiến hành mọi cuộc thanh sát ở Irắc. Ngoài ra, các nước bị thanh sát có thể lựa chọn cơ sở để IAEA thanh sát. Trong trường hợp của Osirak, các thanh sát viên không được phép tiếp cận khu vực tái chế nguyên liệu hạt nhân của Italia.
nhăm nhe “miếng mồi” Osirak
Thủ tướng theo đường lối cứng rắn của Ixraen, Menachem Begin cho rằng lò phản ứng hạt nhân Osirak phải bị phá hủy, nhưng lại không tìm được sự đồng thuận trong chính nội các của mình.

Bom Mk 84 trang bị cho máy bay F-16 trong trận không kích Osirak.
Trong số những người phản đối biện pháp tấn công quân sự có Bộ trưởng Quốc phòng Ezer Weizman và lãnh tụ Công Đảng Shimon Peres – nguyên Bộ trưởng Quốc phòng và đồng thời là đối thủ của Begin trong cuộc bầu cử sau đó (diễn ra tháng 6/1981). Những người phản đối lo sợ rằng kể cả khi trận không kích thành công cũng chỉ làm trì hoãn vấn đề và Ixraen sẽ bị cộng đồng quốc tế kịch liệt phản đối.
Những người ủng hộ chính của Begin là Ariel Sharon, một tướng lĩnh đã nghỉ hưu và là anh hùng quân đội, Bộ trưởng Nông nghiệp thuộc nội các của Begin, Bộ trưởng Ngoại giaoYitzhak Shamir, Trung tướng Rafael Eitan, Tổng tham mưu trưởng các lực lượng vũ trang Ixraen, và Thiếu tướng David Ivry, Tư lệnh Không quân Ixraen.
Khi Weizman từ chức, Begin nắm luôn chiếc ghế Bộ trưởng Quốc phòng.
Tháng 7/1980, Ixraen đưa vấn đề lò phản ứng hạt nhân của Irắc ra công luận và cảnh báo rằng nước này sẽ hành động để đối phó với mối đe dọa này. Quyết định tấn công được Begin và nội các bí mật thông qua vào tháng 10/1980.
Kế hoạch phá hủy lò phản ứng hạt nhân đã được hoạch định trước đó từ năm 1978. Có ý kiến trong chính phủ Ixraen cho rằng, nước này nên áp dụng chiến dịch oanh kích tầm xa Entebbe (Ixraen đã từng thực hiện để giải cứu những người bị giam giữ ở Uganda năm 1976) trong vụ không kích Osirak. Nhưng phương án này đòi hỏi phải có sự phối hợp giữa lực lượng trên mặt đất với số lượng lớn binh sĩ và những máy bay vận tải hạng nặng. Bởi vậy, nếu áp dụng lối đánh phức tạp này đối với Osirak thì xem chừng Ixraen quá mạo hiểm. Thảm họa của Mỹ, chiến dịch Sa mạc 1 diễn ra vào tháng 4/1980 nhằm giải cứu con tin ở Têhêran, cũng được Ixraen đem ra cân nhắc khi xác định Osirak là mục tiêu cần tiêu diệt.
Chính quyền Ixraen khẳng định, trận đánh vào Osirak nhất định phải là chiến dịch đường không. Cơ sở hạt nhân ở al Tawaitha cách Ixraen khoảng 1.080 km, lại phải bay qua Arập Xêút và Gioócđani. Không quân Ixraen chưa từng thực hiện một sứ mệnh nào ở khoảng cách xa đến như thế. Hầu hết các loại máy bay của nước này không đủ khả năng bay một quãng đường xa như thế mà không tiếp nhiên liệu. Việc tiếp nhiên liệu sẽ làm gia tăng nguy cơ bị phát hiện hay bị chặn đánh.
Để phục vụ cho chiến dịch này, Ixraen phải chuẩn bị loại máy bay phù hợp. Nước này đã đặt mua máy bay F-16 của Mỹ và thời hạn chuyển giao là năm 1982. Tuy nhiên, họ có cơ hội nhận máy bay F-16 sớm hơn dự kiến do một thương vụ bán máy bay cho Iran bị hoãn lại sau khi quốc vương nước này bị lật đổ. Những chiếc máy bay đầu tiên về đến Ixraen vào tháng 7/1980 và nước này sở hữu tổng cộng 53 chiếc loại này tại thời điểm tiến hành chiến dịch Osirak.
Tốc độ và kích thước nhỏ giúp máy bay F-16 giảm thiểu nguy cơ bị tiêu diệt bởi hỏa lực của đối phương. Với thùng nhiên liệu chính cộng với các thùng nhiên liệu ở cánh và khoang giữa máy bay, F-16 có thể bay được một quãng đường dài mà không cần tiếp nhiên liệu.
Ixraen có các loại đạn chính xác có điều khiển nhưng các vũ khí “thông minh” cũng rất dễ bị ảnh hưởng bởi những yếu tố như điều kiện thời tiết và đòi hỏi máy bay phải bay theo một kiểu ổn định. Các nhà hoạch định quyết định tiến hành chiến dịch theo cách đơn giản. Họ tính toán rằng, 8 quả bom ném trực tiếp xuống mục tiêu sẽ đủ khả năng phá hủy lò phản ứng, và 16 quả bom trọng trường được ném ở tầm thấp sẽ có cơ hội thành công lên đến 99%.
Hệ thống kính ngắm dùng khi ném bom được điều khiển bằng máy tính của máy bay F-16 giúp hiện thực hóa quyết định tấn công bằng bom trọng trường thông thường. Lực lượng tiến hành chiến dịch sẽ gồm 8 máy bay F-16, mỗi chiếc mang theo hai quả bom Mk 84 nặng 908 kg, dưới sự yểm trợ của các máy bay F-15.
Lò phản ứng hạt nhân Osirak được bao phủ bởi một mái vòm bê tông có độ dày gần 10 cm. Theo như tính toán, một quả bom nặng 908 kg có thể dễ dàng xuyên thủng mái vòm đó.
Các chiến đấu cơ F-16 được biên chế thành một phi đội mới đóng ở căn cứ không quân Ramat David, phía bắc Tel Aviv trong thung lũng Jezreel. Chỉ huy phi đội kiêm chỉ huy trưởng căn cứ là Đại tá Iftach Spector, một người nổi tiếng trong không lực Ixraen vì đã từng bắn rơi 15 máy bay MiG trong cuộc chiến tranh Yom Kippur diễn ra năm 1973. (Trong mắt của mọi người, Spector không phải là anh hùng. Năm 1967, do nhầm lẫn, ông chỉ huy một phi đội oanh kích tàu USS Liberty trong vùng biển quốc tế, giết chết 34 lính Mỹ trong cuộc Chiến tranh sáu ngày).
Những người ủng hộ chính của Begin là Ariel Sharon, một tướng lĩnh đã nghỉ hưu và là anh hùng quân đội, Bộ trưởng Nông nghiệp thuộc nội các của Begin, Bộ trưởng Ngoại giaoYitzhak Shamir, Trung tướng Rafael Eitan, Tổng tham mưu trưởng các lực lượng vũ trang Ixraen, và Thiếu tướng David Ivry, Tư lệnh Không quân Ixraen.
Khi Weizman từ chức, Begin nắm luôn chiếc ghế Bộ trưởng Quốc phòng.
Tháng 7/1980, Ixraen đưa vấn đề lò phản ứng hạt nhân của Irắc ra công luận và cảnh báo rằng nước này sẽ hành động để đối phó với mối đe dọa này. Quyết định tấn công được Begin và nội các bí mật thông qua vào tháng 10/1980.
Kế hoạch phá hủy lò phản ứng hạt nhân đã được hoạch định trước đó từ năm 1978. Có ý kiến trong chính phủ Ixraen cho rằng, nước này nên áp dụng chiến dịch oanh kích tầm xa Entebbe (Ixraen đã từng thực hiện để giải cứu những người bị giam giữ ở Uganda năm 1976) trong vụ không kích Osirak. Nhưng phương án này đòi hỏi phải có sự phối hợp giữa lực lượng trên mặt đất với số lượng lớn binh sĩ và những máy bay vận tải hạng nặng. Bởi vậy, nếu áp dụng lối đánh phức tạp này đối với Osirak thì xem chừng Ixraen quá mạo hiểm. Thảm họa của Mỹ, chiến dịch Sa mạc 1 diễn ra vào tháng 4/1980 nhằm giải cứu con tin ở Têhêran, cũng được Ixraen đem ra cân nhắc khi xác định Osirak là mục tiêu cần tiêu diệt.
Chính quyền Ixraen khẳng định, trận đánh vào Osirak nhất định phải là chiến dịch đường không. Cơ sở hạt nhân ở al Tawaitha cách Ixraen khoảng 1.080 km, lại phải bay qua Arập Xêút và Gioócđani. Không quân Ixraen chưa từng thực hiện một sứ mệnh nào ở khoảng cách xa đến như thế. Hầu hết các loại máy bay của nước này không đủ khả năng bay một quãng đường xa như thế mà không tiếp nhiên liệu. Việc tiếp nhiên liệu sẽ làm gia tăng nguy cơ bị phát hiện hay bị chặn đánh.
Để phục vụ cho chiến dịch này, Ixraen phải chuẩn bị loại máy bay phù hợp. Nước này đã đặt mua máy bay F-16 của Mỹ và thời hạn chuyển giao là năm 1982. Tuy nhiên, họ có cơ hội nhận máy bay F-16 sớm hơn dự kiến do một thương vụ bán máy bay cho Iran bị hoãn lại sau khi quốc vương nước này bị lật đổ. Những chiếc máy bay đầu tiên về đến Ixraen vào tháng 7/1980 và nước này sở hữu tổng cộng 53 chiếc loại này tại thời điểm tiến hành chiến dịch Osirak.
Tốc độ và kích thước nhỏ giúp máy bay F-16 giảm thiểu nguy cơ bị tiêu diệt bởi hỏa lực của đối phương. Với thùng nhiên liệu chính cộng với các thùng nhiên liệu ở cánh và khoang giữa máy bay, F-16 có thể bay được một quãng đường dài mà không cần tiếp nhiên liệu.
Ixraen có các loại đạn chính xác có điều khiển nhưng các vũ khí “thông minh” cũng rất dễ bị ảnh hưởng bởi những yếu tố như điều kiện thời tiết và đòi hỏi máy bay phải bay theo một kiểu ổn định. Các nhà hoạch định quyết định tiến hành chiến dịch theo cách đơn giản. Họ tính toán rằng, 8 quả bom ném trực tiếp xuống mục tiêu sẽ đủ khả năng phá hủy lò phản ứng, và 16 quả bom trọng trường được ném ở tầm thấp sẽ có cơ hội thành công lên đến 99%.
Hệ thống kính ngắm dùng khi ném bom được điều khiển bằng máy tính của máy bay F-16 giúp hiện thực hóa quyết định tấn công bằng bom trọng trường thông thường. Lực lượng tiến hành chiến dịch sẽ gồm 8 máy bay F-16, mỗi chiếc mang theo hai quả bom Mk 84 nặng 908 kg, dưới sự yểm trợ của các máy bay F-15.
Lò phản ứng hạt nhân Osirak được bao phủ bởi một mái vòm bê tông có độ dày gần 10 cm. Theo như tính toán, một quả bom nặng 908 kg có thể dễ dàng xuyên thủng mái vòm đó.
Các chiến đấu cơ F-16 được biên chế thành một phi đội mới đóng ở căn cứ không quân Ramat David, phía bắc Tel Aviv trong thung lũng Jezreel. Chỉ huy phi đội kiêm chỉ huy trưởng căn cứ là Đại tá Iftach Spector, một người nổi tiếng trong không lực Ixraen vì đã từng bắn rơi 15 máy bay MiG trong cuộc chiến tranh Yom Kippur diễn ra năm 1973. (Trong mắt của mọi người, Spector không phải là anh hùng. Năm 1967, do nhầm lẫn, ông chỉ huy một phi đội oanh kích tàu USS Liberty trong vùng biển quốc tế, giết chết 34 lính Mỹ trong cuộc Chiến tranh sáu ngày).