Có Hình [Quan Điểm] Luân Hồi, có hay không!

Bạn nghĩ có luân hồi hay không?

  • Có, t tin vào Luân hồi

    Votes: 65 49.2%
  • Không, chết là hết.

    Votes: 67 50.8%

  • Total voters
    132
Phật giáo mày nói là Phật giáo của Tịnh Độ, của Tăng Đoàn. Xammer thông thái nghiên cứu thẳng tư tưởng của Tất đạt Đa nên khác lắm. Với lại đấu tranh thật ra cũng ko cần thiết, mọi người phải tự khai sáng cho chính mình chứ ko phải nhờ người khác khai sáng.
PQ cua nó là PQ bị tụi phương Bắc biến tấu mang màu sắc chính rrij để cai trị
 
M nói cũng có phần đúng. Mặc dù t không đồng ý hoàn toàn 👍👍👍👍
Phật Giáo giảng "chúng sinh điều khổ" nói nôm na ra là mọi vật(người, động vật, cây cối, đất đá vv tất cả mọi vật điều có sinh mệnh) điều khổ. Tại sao lại khổ thì Phật Giáo lại không có giảng, không phải họ không giảng mà giảng ra thì lại quá khó tiếp thu cho người ta nên họ không giảng. Ta thì đơn cử 1 ví dụ thôi, dùng kính hiển vi điện tử để xem 1 hạt cát hay 1 tế bào thì như thế nào? Càng phóng to lên thì mọi thứ quá khác biệt rồi, tất cả mọi thứ điều như cát cấu thành, nguyên tử luôn vận động, các loại hạt quay quanh hạt nhân nguyên tử, to hơn nửa lại có hạt quart, hạt neutrino vv. Dùng vật lý học mà nói thì mọi thứ điều sống, điều vận động, điều có chu kỳ vận động. Dùng hóa học mà giảng thì nguyên tử kết hợp với nhau nếu có kết cấu khác nhau sẻ tạo thành các loại chất khác nhau, có phải là mọi thứ điều sống phải không? Chẳng qua con mắt không nhìn thấy được thôi.

Tiếp, tại vì Phật giáo nói riêng đề cập vấn đề chúng sinh điều khổ, nên người người nếu mà tu theo Phật điều sẻ Nhẫn, vậy tại sao có vắn đề này. Tôn giáo giảng "con người đến thế gian này mang theo nghiệp chồng lấy nghiệp, nên phải chụi khổ mà hoàn nghiệp" nên để trả nghiệp ai ai cũng phải chụi khô cả, phải Nhẫn nhịn nỗi khổ, áp bức vv vì tất cả điều là nghiệp mình tạo ra nên phải hoàn trả. Đương nhiên câu này là nói cho người tu chứ không phải nói cho người thường nghe, ta cũng không rảnh để bỏ ra 1 2 tiếng để giải thích theo Khoa Học đâu, rất tốn thời gian và ta cũng không nên làm thế vì cái vấn đề này nó liên quan đến Ngộ Tính rồi.
Chỉ nói đến đây, nên người tu thường rất khổ, Nhẫn, ai nói hèn nói mềm yếu thì kệ vì vốn dỹ chúng sinh điều Si ngốc mà, họ không hiểu nên chê cười là chuyện bình thường, họ nếu mà hong cười, không chê thì mới lạ đấy.
Điều là thể ngộ của ta.
 
Mấy thằng tin vào luân hồi đều là mấy thằng ngu ít dc đi học
Luân hồi cái chó gì kiếp trước kiếp sau
Nếu có luân hồi kiếp sau thì thằng ở kiếp sau phải nhớ rõ tất cả ký ức ở kiếp trước mình tên gì, từng sống ra sao, có bao nhiêu con bồ.... Rõ tần tật như ban ngày
Còn đằng này tự dưng lòi ra 1 thằng ở kiếp sau đéo có ký ức mẹ gì về kiếp trước, giờ nó có mang nghiệp thì cũng 1 mình nó biết và phải chịu, đéo liên quan mẹ gì tới thằng kiếp trước cả
 
Phật Giáo giảng "chúng sinh điều khổ" nói nôm na ra là mọi vật(người, động vật, cây cối, đất đá vv tất cả mọi vật điều có sinh mệnh) điều khổ. Tại sao lại khổ thì Phật Giáo lại không có giảng, không phải họ không giảng mà giảng ra thì lại quá khó tiếp thu cho người ta nên họ không giảng. Ta thì đơn cử 1 ví dụ thôi, dùng kính hiển vi điện tử để xem 1 hạt cát hay 1 tế bào thì như thế nào? Càng phóng to lên thì mọi thứ quá khác biệt rồi, tất cả mọi thứ điều như cát cấu thành, nguyên tử luôn vận động, các loại hạt quay quanh hạt nhân nguyên tử, to hơn nửa lại có hạt quart, hạt neutrino vv. Dùng vật lý học mà nói thì mọi thứ điều sống, điều vận động, điều có chu kỳ vận động. Dùng hóa học mà giảng thì nguyên tử kết hợp với nhau nếu có kết cấu khác nhau sẻ tạo thành các loại chất khác nhau, có phải là mọi thứ điều sống phải không? Chẳng qua con mắt không nhìn thấy được thôi.

Tiếp, tại vì Phật giáo nói riêng đề cập vấn đề chúng sinh điều khổ, nên người người nếu mà tu theo Phật điều sẻ Nhẫn, vậy tại sao có vắn đề này. Tôn giáo giảng "con người đến thế gian này mang theo nghiệp chồng lấy nghiệp, nên phải chụi khổ mà hoàn nghiệp" nên để trả nghiệp ai ai cũng phải chụi khô cả, phải Nhẫn nhịn nỗi khổ, áp bức vv vì tất cả điều là nghiệp mình tạo ra nên phải hoàn trả. Đương nhiên câu này là nói cho người tu chứ không phải nói cho người thường nghe, ta cũng không rảnh để bỏ ra 1 2 tiếng để giải thích theo Khoa Học đâu, rất tốn thời gian và ta cũng không nên làm thế vì cái vấn đề này nó liên quan đến Ngộ Tính rồi.
Chỉ nói đến đây, nên người tu thường rất khổ, Nhẫn, ai nói hèn nói mềm yếu thì kệ vì vốn dỹ chúng sinh điều Si ngốc mà, họ không hiểu nên chê cười là chuyện bình thường, họ nếu mà hong cười, không chê thì mới lạ đấy.
Điều là thể ngộ của ta.
khi con người chưa giác ngộ chúng ta sẽ có 2 thứ khổ : thể xác khổ và tâm khổ. khi giác ngộ được rồi chúng ta chỉ còn thể xác khổ.

Thiện tay.
Mày rình bần đạo chơi đá banh à.
Đá "bóng" thì tao biết mày chơi giỏi, còn đá banh thì tao ko rành
 
Phật Giáo giảng "chúng sinh điều khổ" nói nôm na ra là mọi vật(người, động vật, cây cối, đất đá vv tất cả mọi vật điều có sinh mệnh) điều khổ. Tại sao lại khổ thì Phật Giáo lại không có giảng, không phải họ không giảng mà giảng ra thì lại quá khó tiếp thu cho người ta nên họ không giảng. Ta thì đơn cử 1 ví dụ thôi, dùng kính hiển vi điện tử để xem 1 hạt cát hay 1 tế bào thì như thế nào? Càng phóng to lên thì mọi thứ quá khác biệt rồi, tất cả mọi thứ điều như cát cấu thành, nguyên tử luôn vận động, các loại hạt quay quanh hạt nhân nguyên tử, to hơn nửa lại có hạt quart, hạt neutrino vv. Dùng vật lý học mà nói thì mọi thứ điều sống, điều vận động, điều có chu kỳ vận động. Dùng hóa học mà giảng thì nguyên tử kết hợp với nhau nếu có kết cấu khác nhau sẻ tạo thành các loại chất khác nhau, có phải là mọi thứ điều sống phải không? Chẳng qua con mắt không nhìn thấy được thôi.

Tiếp, tại vì Phật giáo nói riêng đề cập vấn đề chúng sinh điều khổ, nên người người nếu mà tu theo Phật điều sẻ Nhẫn, vậy tại sao có vắn đề này. Tôn giáo giảng "con người đến thế gian này mang theo nghiệp chồng lấy nghiệp, nên phải chụi khổ mà hoàn nghiệp" nên để trả nghiệp ai ai cũng phải chụi khô cả, phải Nhẫn nhịn nỗi khổ, áp bức vv vì tất cả điều là nghiệp mình tạo ra nên phải hoàn trả. Đương nhiên câu này là nói cho người tu chứ không phải nói cho người thường nghe, ta cũng không rảnh để bỏ ra 1 2 tiếng để giải thích theo Khoa Học đâu, rất tốn thời gian và ta cũng không nên làm thế vì cái vấn đề này nó liên quan đến Ngộ Tính rồi.
Chỉ nói đến đây, nên người tu thường rất khổ, Nhẫn, ai nói hèn nói mềm yếu thì kệ vì vốn dỹ chúng sinh điều Si ngốc mà, họ không hiểu nên chê cười là chuyện bình thường, họ nếu mà hong cười, không chê thì mới lạ đấy.
Điều là thể ngộ của ta.
Vậy mới thấy Đức Phật ngài Từ bi và đỉnh cỡ nào khi dù biết là dân chúng vô minh nhưng vẫn kiên nhẫn thuyết pháp. Những con người giác ngộ khác thì họ đã im lặng và rời bỏ rồi.
 
Phật Giáo giảng "chúng sinh điều khổ" nói nôm na ra là mọi vật(người, động vật, cây cối, đất đá vv tất cả mọi vật điều có sinh mệnh) điều khổ. Tại sao lại khổ thì Phật Giáo lại không có giảng, không phải họ không giảng mà giảng ra thì lại quá khó tiếp thu cho người ta nên họ không giảng. Ta thì đơn cử 1 ví dụ thôi, dùng kính hiển vi điện tử để xem 1 hạt cát hay 1 tế bào thì như thế nào? Càng phóng to lên thì mọi thứ quá khác biệt rồi, tất cả mọi thứ điều như cát cấu thành, nguyên tử luôn vận động, các loại hạt quay quanh hạt nhân nguyên tử, to hơn nửa lại có hạt quart, hạt neutrino vv. Dùng vật lý học mà nói thì mọi thứ điều sống, điều vận động, điều có chu kỳ vận động. Dùng hóa học mà giảng thì nguyên tử kết hợp với nhau nếu có kết cấu khác nhau sẻ tạo thành các loại chất khác nhau, có phải là mọi thứ điều sống phải không? Chẳng qua con mắt không nhìn thấy được thôi.

Tiếp, tại vì Phật giáo nói riêng đề cập vấn đề chúng sinh điều khổ, nên người người nếu mà tu theo Phật điều sẻ Nhẫn, vậy tại sao có vắn đề này. Tôn giáo giảng "con người đến thế gian này mang theo nghiệp chồng lấy nghiệp, nên phải chụi khổ mà hoàn nghiệp" nên để trả nghiệp ai ai cũng phải chụi khô cả, phải Nhẫn nhịn nỗi khổ, áp bức vv vì tất cả điều là nghiệp mình tạo ra nên phải hoàn trả. Đương nhiên câu này là nói cho người tu chứ không phải nói cho người thường nghe, ta cũng không rảnh để bỏ ra 1 2 tiếng để giải thích theo Khoa Học đâu, rất tốn thời gian và ta cũng không nên làm thế vì cái vấn đề này nó liên quan đến Ngộ Tính rồi.
Chỉ nói đến đây, nên người tu thường rất khổ, Nhẫn, ai nói hèn nói mềm yếu thì kệ vì vốn dỹ chúng sinh điều Si ngốc mà, họ không hiểu nên chê cười là chuyện bình thường, họ nếu mà hong cười, không chê thì mới lạ đấy.
Điều là thể ngộ của ta.
Chiếu kiến ngũ uẩn giai không
Độ nhất thiết khổ ách

Adidas phật
Xin đảnh lễ tri kiến của hiền giả Foodandrink🥰🥰
 
Tao nghĩ là sẽ không có luân hồi đâu, kể cả có cũng không mang ý nghĩa gì cả. Kiếp sau từ lúc còn bé sinh ra đã mang trong mình 1 cơ thể khác, 1 ý thức khác, nó được thừa hưởng từ gen của bố mẹ, ông bà.... Các phản ứng sinh hoá trong não bộ tạo ra một con người độc nhất về tư duy ý thức. Sinh ra và sống ở trong môi trường lại ảnh hưởng lớn đến ý thức đó hình thành nên một vận mệnh với rất nhiều biến số. Khi chết có thể vẫn còn 1 số năng lượng có tính chất lượng tử chuyển đổi, có thể tác động vào bộ não người cùng tần số nên mới nghĩ là ma quỷ, linh hồn hay kiếp trước...
 
tao chuẩn bị mở đạo mới cũng mượn nhân quả của Đức Phật dễ viết nên câu chuyện. sẵn tiện tao có giảm giá 30% cho bạn thân nè bạn. bạn có muốn gia nhập giáo ta ?
Đậu má. Bán khóa học à.
Đạo của mày là gì, đường đến đạo của mày thật là xây dựng bằng vật chất chúng sinh.
 
Phật giáo mày nói là Phật giáo của Tịnh Độ, của Tăng Đoàn. Xammer thông thái nghiên cứu thẳng tư tưởng của Tất đạt Đa nên khác lắm. Với lại đấu tranh thật ra cũng ko cần thiết, mọi người phải tự khai sáng cho chính mình chứ ko phải nhờ người khác khai sáng.
Rồi 1 Minh Tuệ(tạm coi là chánh pháp, ko theo dõi kỹ), làm răng đấu lại 9999 Cọng sả giáo ?
Ai đi phò phò ...
 
1.“Bây giờ tôi muốn thử nhìn từ một góc cạnh khác vào vài cơ cấu khả dĩ cho việc tái sinh có thể xảy ra. Tôi muốn nói sơ qua khái niệm “linh hồn”. Đó là vì phải có linh hồn trước hết thì mới có đầu thai.


Để giải thích về khái niệm linh hồn, người ta thường dùng một số giả thuyết dựa theo Định Luật Thứ Nhất của nhiệt động học (còn thường được gọi là “nguyên lý bảo toàn năng lượng”). Các giả thuyết nầy nói chung cho rằng mỗi người được cấu tạo bởi 2 phần: phần vật chất và phần phi vật chất. Phần vật chất là thể xác và phần phi vật chất thường được gọi là linh hồn. Theo nguyên lý bảo toàn năng lượng thì sau khi một người chết đi, phần năng lượng phi vật chất của họ rất có thể tuy đã rời thân xác nhưng vẫn còn tồn tại đâu đó.


Ngoài định luật bảo toàn năng lượng vừa nói ở trên, người ta cũng dùng Định Luật Thứ Hai của nhiệt động học để gián tiếp xác định việc sự sống thành tựu rồi tan biến, và do đó cho thấy sự khả dĩ hiện hữu của linh hồn. Tôi xin nói rõ hơn một chút về lý thuyết nầy.


Định Luật Thứ Hai của nhiệt động học cho rằng mọi hệ thống năng lượng trong vũ trụ, trừ khi đã ở trạng thái cân bình, đều có khuynh hướng tự biến đổi từ trạng thái có trật tự cao xuống dần thành có trật tự thấp. Một con người khi còn sống là một hệ thống (năng lượng) có trật tự cao; hệ thống nầy có thể nằm ở trạng thái trật tự cao trong suốt đời sống của họ là nhờ năng lượng dung nạp vào dưới dạng thức ăn, nước uống, v.v. Tuy vậy, trạng thái trật tự cao nầy không vĩnh viễn. Trạng thái trật tự cao tạm thời dần dần trở nên bất ổn định hơn khi các cơ quan trong thân thể dần dần hư hao đi đến khi toàn thể hệ thống sụp đổ hoàn toàn. Đó là khi sự chết xảy ra. Cái tử thi cũng là một hệ thống năng lượng từ từ phân hủy và tan rã ra: trật tự cao biến đổi thành thấp hơn và thấp hơn nữa cho đến khi toàn bộ tử thi đó không còn gì tồn tại nữa.


Theo lý thuyết về linh hồn thì linh hồn của một người sẽ tách rời khỏi thể xác họ sau khi chết. Điều nầy phù hợp với Định Luật Thứ Hai của nhiệt động học vì đó là khi một hệ thống (năng lượng) có trật tự cao hơn bị tan rã thành một hệ thống có trật tự thấp hơn.

Tuy nhiên theo tôi, các giả thuyết trên có một số vấn đề rất thiếu hoàn hảo. Thí dụ như:


1/ Nếu có một khối năng lượng gọi là “linh hồn” hiện hữu đi nữa thì cũng như bao nhiêu hệ thống năng lượng khác, rồi linh hồn cũng sẽ phải cần có năng lượng từ bên ngoài cung cấp vào nó để tồn tại (cũng tương tự như cơ thể vật chất cần có thức ăn để sống). Vấn đề cần giải thích ở đây là nguồn năng lượng cần thiết đó từ đâu mà có? Và nếu linh hồn là phi vật chất thì làm sao nó có thể hấp thụ và chứa đựng năng lượng đến từ bên ngoài được?


2/ Ngay cả nếu khối năng lượng gọi là “linh hồn” có thể thu nhận năng lượng bên ngoài để tồn tại đi nữa thì không có gì bảo đảm khối năng lượng đó vẫn còn chứa đầy đủ tri thức cũng như đặc tính cá nhân của người đã chết để còn nhận biết nó là ai hay những điều gì đang xảy ra chung quanh nó hay không. Nói cách khác, khối năng lượng đó có thể hoàn toàn vô cá tính và vô cảm tính.


3/ Và ngay cả nếu cá thể và cá tính có thể được bảo tồn đi nữa thì cũng không có gì để xác định rằng khối năng lượng nầy sẽ bền vững bao nhiêu và bao lâu. Rất có thể là sau khi rời khỏi thân xác thì theo Định Luật Thứ Hai của nhiệt động học, nó rồi sẽ bị phân tán ra và tan loảng dần trong vũ trụ; tri thức và những đặc tính cá nhân của cá thể nầy do đó cũng bị phai mờ dần và rồi biến mất. Không ai có thể xác định khoảng thời gian nầy là bao lâu: ngay tức khắc sau khi chết hay 3 ngày hay 100 ngày, v.v. sau đó?


4/ Hơn nữa, ngay cả nếu như linh hồn của một người còn tồn tại lâu đủ sau khi chết đi nữa thì cũng không có gì cho biết rằng nó có thể có khả năng hay cơ hội để được tái sinh dưới một hình dạng khác hay chuyển biến sang thành một cá thể khác. Đó là vì mọi thay đổi trên mọi hệ thống trong vũ trụ đều cần năng lượng. Khi linh hồn “mới” muốn kết hợp vào một thân xác “mới”, đó là trường hợp một hệ thống có trật tự thấp đang biến đổi thành một hệ thống có trật tự cao; nó cũng cần năng lượng bổ xung vào để làm việc đó. Cũng như ở trên, vấn đề cần giải thích ở đây là những năng lượng cần thiết đó từ đâu mà có? Và nếu linh hồn là phi vật chất thì làm sao nó có thể hấp thụ và sử dụng năng lượng đến từ bên ngoài được?


Theo tôi thì cần phải giải quyết tất cả những vấn đề thiếu hoàn hảo trên trước khi có thể xác định rằng việc "đầu thai" có xảy ra hay không.


Tuy vậy, thật tình mà nói thì bất kể những câu hỏi trên có câu trả lời thỏa đáng hay không, tôi vẫn có cảm tưởng cách nhìn nầy có phần đơn giản quá. Đó là vì nói chung thì hầu như bất cứ sự kiện hay hiện tượng nào trên đời cũng có thể được giải thích (một phần nào) bằng một giả thuyết hay định luật nào đó. Ở đây các lý thuyết nầy đang dùng những định luật khoa học có phạm vi rất tổng quát để cố giải thích cho những hiện tượng không kiểm chứng được.


Một vấn đề theo tôi đáng ghi nhận nhất là nếu đầu thai là một hiện tượng tự nhiên xảy ra sau khi một người chết đi thì tại sao nó quá hiếm hoi? Trong những trăm ngàn triệu tỉ người chết xưa nay, tại sao chỉ có một số rất rất nhỏ câu chuyện cho thấy hiện tượng nầy (có vẻ) xảy ra? Nếu là một hiện tượng tự nhiên thì nó sẽ xảy ra đồng nhất, rõ ràng, chắc chắn, liên tục, và có thể dự đoán trước hầu như không bao giờ sai chạy mỗi lần, mỗi nơi và đến tất cả mọi người, mọi vật. Thí dụ như trọng lực, sự thay đổi nhiệt độ qua mỗi mùa trong năm, phản ứng sinh lý của động vật trước sự thay đổi của môi trường sống, v.v và v.v. Hiện tượng “đầu thai” không hề mang những tính chất trên.


Tôi có khuynh hướng cho rằng không ít những câu chuyện về đầu thai phát nguồn từ niềm mong ước mãnh liệt của con người rằng sự sống vẫn còn tiếp diễn sau khi thân xác họ đã ngừng hoạt động. Niềm mong ước đó mãnh liệt đủ để tiềm thức họ thuyết phục họ một cách dễ dàng để nhìn thấy và đi đến những kết luận về những sự kiện không hề xảy ra.”
 
sao lại ko cách nào chứng minh. Đức Phật đã nói, người xấu, đẹp, kẻ hèn kém, cao sang..đều do nghiệp của họ. Chúng ta là kẻ thừa tự lại chính những gì chúng ta đã làm. Không phải random ngẫu nhiên mà lại có kẻ giàu, người nghèo, đứa đẹp đẽ, đứa tật nguyền...chính chúng ta sẽ nhận lại những gì chúng ta đã làm và suy nghĩ. Cho nên những cái đứa thần đồng, bác sỹ nội trú...nó đã giỏi sẵn từ trong gen do tích lũy từ hàng chục hàng trăm kiếp rồi. Đéo có chuyện tự nhiên mà giỏi đc.

Báo chính thống, keyword đứa trẻ tỉnh Hòa Bình đầu thai tìm lại cha mẹ ruột. Nó sinh ra đc vài tuổi nó đã kể cho bố mẹ nó về nơi ở kiếp trước của nó như nào, bố mẹ kiếp trước nó tên gì...rồi tìm lại được đấy. Phương tây cũng có nhiều trường hợp tương tự.
Tao có đọc qua câu chuyện này rồi. Thằng nhỏ không ở với cha mẹ sinh ra mà qua nhà kia ở luôn
 
1. Sự Khác Nhau Giữa Tái Sinh & Đầu Thai



Mọi tôn giáo đều tin rằng có sự sống sau khi chết, tức có kiếp sau của một ‘linh hồn’ thật sự. Học thuyết Phật giáo nên được phân biệt trong ý nghĩa ‘chuyển kiếp’ hay ‘đầu thai kiếp sau’ theo ý nghĩa có ‘linh hồn’ thường hằng dịch chuyển từ đời này qua đời khác, như là do Thượng Đế sắp đặt hoặc như là một linh hồn tối thượng hay một linh hồn phổ quát - đại ngã (Param-atma).



Phật giáo không tin vào bất kỳ dạng chuyển kiếp hay chuyển linh hồn nào. Không có gì thoát ra khỏi một thể xác và chui vào một thể xác khác. Mọi sự vật, hiện tượng đều diễn ra theo quy luật thuyết Duyên Khởi (Paticca Samuppada). Mọi sự vật xảy ra, xuất hiện hay tồn tại đều do những sự vật khác trước đó tạo điều kiện mà có, rồi đến khi chúng xuất hiện chúng lại là điều kiện để sinh ra những sự vật khác.



Trong học thuyết Duyên Khởi (Paticca Samuppada), Đức Phật đã giảng giải rằng Dục Vọng làm khởi sinh Dính Chấp, rồi do có Dính Chấp nên dẫn đến sự Trở Thành, hiện thành (hay là sự liên tục của quá trình sự sống bị tác động bởi Nghiệp) và cuối cùng dẫn đến sự Sinh ra. Dục Vọng của một người sắp chết hay đang chết cũng làm khởi sinh sự Dính Chấp và dẫn đến sự liên tục của quá trình sự sống là Trở Thành, Hiện Thành thông qua Nghiệp hay Nghiệp Hữu (Kammabhava), và cuối cùng tạo nên sự Sinh, mà ta hay gọi là Tái Sinh. Điều này tương đồng và trùng khớp với cách diễn tả của Diệu Đế Thứ Hai (Nguồn Gốc của sự Khổ) cho rằng chính Dục Vọng đã dẫn đến tạo thành một ‘thực thể’ sống hay một ‘con người’ mới được cấu tạo bằng năm Uẩn dính chấp chính là “Khổ”.



2. Sự Tái Sinh Diễn ra Như Thế nào



Bắt đầu từ khái niệm một ‘con người’, Đức Phật đã dạy rằng “mầm” móng của cuộc sống được “gieo trồng” chỉ khi nào có đủ 3 điều kiện: Mẹ và Cha hợp duyên, đây là giai đoạn có mẹ (trứng chín) và một ‘Thực Thể’ hay “một con người chuẩn bị được sinh ra” đã có mặt, đã ‘hiện thành’, đã chết ở đâu đó, hay vừa kết thúc sự sống ở đâu đó. Chứ không nên hiểu theo nghĩa là ‘một con người hay một linh hồn đang chờ trứng và tinh trùng giao phối và rồi ‘chui’ vào đó để đầu thai”. Yếu tố người Cha chỉ cung cấp cho chúng ta vật chất vệ tinh trong quá trình tái sinh. Nhưng điều này không có nghĩa mọi loài chúng sinh đều cần phải có yếu tố cha mới sinh ra được, bởi vì có nhiều loài được sinh ra một cách tự nhiên, tùy theo Nghiệp (Kamma).



“Chết”, theo đạo Phật, là một sự ngưng lại, sự chấm dứt của một đời sống “sinh-vật-lý” của một ‘cá thể’ chúng sinh. Sự chết diễn ra bằng việc chấm dứt giác quan sự sống (jivitindriya) hay còn gọi là mạng căn (HV), nhiệt và thức. Cái chết không phải là một sự hủy diệt hoàn toàn của một sự sống, mặc dù thời gian sống hay ‘mạng sống’ đã đến lúc chết, tuy nhiên nguồn lực đã “chạy” hay “duy trì” sự sống đó vẫn còn chứ không bị hủy diệt hay chấm dứt.



Khi cái “chết” đang xảy ra, một tiến trình Tâm mới được gọi là (tâm) Thức Tái Sinh (patisandhi citta, tiếng Anh: Rebirth Consciousness) được xúc tiến (duyên) bởi Nghiệp Tái Sinh (tiếng Anh: Reproductive Kamma) hay là Nghiệp Hữu (kamma-bhava), tức quá trình “Trở Thành”, cùng khởi sinh với 3 nhóm vật chất (sắc) do nghiệp tạo ra, cấu thành thân, giống và cơ sở tiếp xúc (chỗ dựa của Thức). Tất cả chúng làm điều kiện (duyên) làm khởi sinh những quá trình vật chất và tinh thần (danh và sắc) trong noãn trứng, bây giờ theo nghĩa truyền thống hay gọi là một ‘con người’ đã hiện diện trong bào thai. Thức Tái Sinh và 3 nhóm vật chất (sắc) do nghiệp tạo ra đó được gọi chung là: “Con người sắp được sinh ra”. Danh từ này chỉ được dùng để diễn tả trong ngữ cảnh này khi không còn biết mượn danh từ khác xuất thế gian để giải thích tiến trình tâm và vật chất cấu tạo nên ‘thực thể’ sống này. Không nên hiểu lầm đó là một linh hồn thường hằng nào đó đang đợi chui vào bào thai hay tử cung để được tái sinh.



3. Thức Kết Nối Lại hay Thức Tái Sinh



Theo giáo lý về Duyên Khởi của Đức Phật, “thông qua tiến trình Trở Thành hay Nghiệp hữu (kamma-bhava), mà khởi sinh (duyên) cho Tái Sinh”. Để hiểu được vấn đề này một cách rõ ràng, chúng ta cần phải hiểu được rằng trong thực tại tuyệt đối, không có cái gọi là một ‘con người’ hay một ‘thực thể’ thường hằng nào đó, mà chỉ có tiến trình sinh lý vật lý hay danh sắc (nama-rupa). Ngay cả trong cuộc sống từ lúc khởi đầu cho đến khi chết, những quá trình danh sắc (nama-rupas) luôn khởi sinh và mất đi, sinh diệt liên tục và liên tục.



Cái chết là sự diệt Thức cuối cùng cùng lúc với sự tàn hoại của danh sắc (nama-rupa). Tái sinh lập tức xảy ra, khởi sinh một Thức mới, được gọi là Thức Kết Nối hay Thức Tái Sinh, cùng với (chỗ dựa) danh sắc (nama-rupa) mới. Nó được gọi là Thức kết nối lại bởi vì nó nối liền sự sống mới và cũ. Sự khởi sinh Thức Tái Sinh do duyên hay sự xúc tiến của Nghiệp cuối cùng trước khi chết. Nói cách khác, chính Nghiệp cuối cùng trước khi chết là nhân duyên làm khởi sinh Thức tái sinh.



Nếu Nghiệp (kamma) là nghiệp lành, thiện, thì sự tái sinh sẽ diễn ra ở cuộc sống hạnh phúc. Nếu Nghiệp là dữ, bất thiện, thì sự tái sinh sẽ diễn ra ở một cuộc sống đau khổ. Điều này chính là ý nghĩa khi Đức Phật nói: “Tất cả chúng sinh được sinh ra từ chính nghiệp của mình (Kammayoni)”.



▪ Một điều rất quan trọng để chúng ta lưu tâm rằng: Không có một linh hồn nào rời khỏi thể xác và chui vào thể (a) xác mới.



─ Nếu không hiểu được điều này thì rất khó chấp nhận nó và thường bị dẫn đến một kiểu tin là có sự di chuyển linh hồn hay hồn đi đầu thai vào thân xác khác, mà trong nhiều phần khác chúng ta gọi là: Quan điểm sai lầm về một linh hồn bất tử.



Khi những Hành Động Tạo Nghiệp hay Nghiệp ((b) Kamma), (Xin nhắc lại, trong khái niệm này, hành động cố ý, hành động ý chí, hành động tạo nghiệp, Hành hay Nghiệp… đều diễn tả một nghĩa như nhau –ND), thì tùy thuộc vào & do Vô Minh và Dục vọng, chúng sinh chưa diệt sạch những ô nhiễm này sẽ tiếp tục tích lũy Nghiệp (Kamma) hay mang nghiệp (nghiệp hữu) và tiếp tục chịu tái sinh sau khi chết.



─ Nếu không hiểu điều này, thì khó mà tin nó và thường bị dẫn đến kiểu tin là sự sống bị hủy diệt hoàn toàn sau khi chết. Đó là quan điểm sai lạc về sự tự hủy diệt, không còn/là gì sau khi chết, mà những nhà duy vật hiện đại còn đang chấp thủ.

 
Xin được thỉnh giáo.
Ai đi phò phò ...
Có bạn nào trả lời rồi đó. T thấy cũng hợp lý.

Chỗ m gọi là triệt tiêu "ý chí đấu tranh" thì nghe có vẻ là đang đi xuống.
Nhưng nếu hiểu sâu giáo lý thì chẳng có gì để đấu tranh .
Chúng ta chỉ là một phần của cuộc sống, chỉ tồn tại mấy chục năm so với sự vĩnh hằng của thời gian.
Chỉ là một chiếc lá nhỏ trên cái cây
Chỉ là một hạt cát giữa sa mạc
Chỉ là một con sóng trên đại dương

Nếu nghĩ rằng ta độc lập, thì ta phải tranh đấu.
Nhưng khi nghĩ rằng ta chỉ là một bộ phận của cái toàn thể. Thì khi này sẽ có bình an, phúc lạc.
 
Cái này thì chỉ là vấn đề niềm tin, quan điểm cá nhân. Chứ không có cách nào kiểm tra hay chứng minh.
Không tranh luận đúng sai.

Vì Tất cả chúng ta chỉ biết đến sự sống. Thậm chí chưa từng trải nghiệm cái chết. Thì làm sao biết được có luân hồi hay không.

Nhưng theo t thì việc nghĩ rằng có luân hồi sẽ tốt hơn. Vì sao?
Bởi vì khi đó con người sẽ biết sợ, biết lo cho "kiếp sau" của mình 😂😂🤣. Từ đó mà bỏ ác làm lành. Hướng thiện hướng thượng.

Và một điều nữa, với những người muốn tin sâu vào nhân quả. Thì phải tin thêm luân hồi. Vì sao?
Vì nếu không có luân hồi, thì đứa trẻ vừa mới sinh ra đã tạo "nhân" gì, mà quả của chúng lại khác nhau.

Đứa thì sinh ra đã ở vạch đích, ngậm thìa vàng.
Đứa thì cả đời chỉ ước gì mình chưa từng được sinh ra.

1pvcAEZf.jpeg
Trước kia thì t không có tin luân hồi

Nhưng từ khi t gặp đc mẹ @Hoanggiap512
Làm đĩ 9 kiếp thì t mới biết là nó có thật =)))
 
Đầu thai



Có người hỏi tôi có tin chuyện “đầu thai” hay không. Câu trả lời của tôi là "Tôi không biết".

Trước hết, có những giả thuyết dựa trên nguyên lý bảo toàn năng lượng để cố gắng giải thích một phần nào về cái gọi là “linh hồn”. Nếu dựa vào đó thì chuyện đầu thai có thể xảy ra hoặc không xảy ra tùy vào những điều kiện và nghi vấn nằm trong giả thuyết trên.

Các giả thuyết về linh hồn nầy nói chung cho rằng mỗi người được cấu tạo bởi 2 phần: vật chất và phi vật chất. Phần vật chất là thể xác và phần phi vật chất là cái được gọi là “linh hồn”. Nếu dựa theo nguyên lý bảo toàn năng lượng thì sau khi một người chết đi, phần năng lượng phi vật chất của họ rất có thể tuy đã rời thân xác nhưng vẫn còn tồn tại đâu đó.

Vài điều kiện và nghi vấn chính dính liền với giả thuyết trên là:

1/ Không ai có thể xác định rằng cái khối năng lượng “linh hồn” nầy có còn chứa đầy đủ tri thức cũng như đặc tính cá nhân của một người trước khi chết để còn nhận biết nó là ai hay những điều gì đang xảy ra chung quanh nó hay không.

2/ Và ngay cả nếu điều kiện ở trên có xảy ra đi nữa thì cũng không ai có thể xác định rằng khối năng lương nầy sẽ bền vững bao nhiêu và bao lâu. Rất có thể là sau khi rời khỏi thân xác thì vì không có gì kềm giữ khối năng lượng nầy lại, nó sẽ bị phân tán ra và tan loảng dần trong vũ trụ; tri thức và những đặc tính cá nhân của cá thể nầy do đó cũng bị phai mờ dần và rồi biến mất. Không ai có thể xác định khoảng thời gian nầy là bao lâu: ngay tức khắc sau khi chết hay 3 ngày hay 100 ngày, v.v. sau đó?

3/ Hơn nữa, ngay cả nếu như linh hồn của một người còn tồn tại lâu đủ sau khi chết đi nữa thì cũng không có gì cho biết rằng nó có thể có khả năng hay cơ hội để được tái sinh dưới một hình dạng khác hay chuyển biến sang thành một cá thể khác.

Nói cách khác, theo tôi thì cần phải biết rõ tất cả những vấn đề trên trước khi có thể xác định rằng việc "đầu thai" có xảy ra hay không.

Tôi có đọc qua nhiều mẩu chuyện “chứng minh” là chuyện đầu thai đã xảy ra. Thí dụ như về đứa bé tự xưng mình là hiện thân của một người quá vãng đã từng sống ở một nơi xa lạ mà đứa bé đó chưa bao giờ đặt chân đến; đứa bé có thể kể chính xác nhiều chi tiết cá nhân của người chết và diễn tả tĩ mĩ căn nhà mà người ấy từng sống.

Tôi không có giả thuyết nào có thể giải thích được những hiện tượng đó, nếu những hiện tượng đó có thật.

Tôi không thể khẳng định rằng hiện tượng “đầu thai” là không có thật. Tôi không thể cho là tất cả các câu chuyện nầy đều có thể giả mạo. Tuy vậy tôi tin rằng có rất nhiều trường hợp mà toàn bộ câu chuyện đã được giàn cảnh tinh vi bởi thân hữu của nhân vật chính.

Tôi không biết có bao nhiêu trường hợp giả mạo. Tôi cũng không biết có phải tất cả mọi câu chuyện trên đều là giả mạo hay ít nhất được thêu dệt, thêm thắt ít nhiều hay không.

Phần lớn những vụ giả mạo trong vấn đề nầy là để vụ lợi. Hầu hết các mẩu chuyện nầy đều xảy ra ở một vùng quê hẻo lánh hay một thôn tỉnh vô danh nào đó. Nếu một sự kiện ly kỳ loại nầy xảy ra ở những nơi như vậy thì số du khách tò mò đến thăm viếng sẽ mang lại địa phương và các người trong cuộc những lợi tức không nhỏ.

Đã có nhiều người điều tra về các mẩu chuyện loại nầy. Tuy vậy các bài tường trình của họ (mà tôi đã đọc qua) vẫn không đủ sức thuyết phục để tôi có thể chấp nhận hoàn toàn mọi thứ mà không có một chút ngờ vực nào.

Nói chung cho đến nay không có bằng chứng gì khách quan và rõ ràng đủ để làm tôi tin rằng những chuyện về đầu thai đó đã có xảy ra. Và ngay cả nếu những câu chuyện đó đã có thật sự xảy ra đi nữa thì cũng không có gì chứng minh rằng đây là một quy luật chung cho tất cả mọi người.

Vì lý do nầy, tôi xem chuyện “đầu thai” chỉ có thể là một “giả thuyết” chớ không phải là một “định luật” đáng tin cậy đủ để được áp dụng vào đời sống thực tế.





Luân hồi



Lý thuyết về luân hồi gắn liền với lý thuyết về đầu thai.

Luân hồi là một khái niệm nói về sự luân chuyển của việc sinh ra, sống, rồi chết đi để rồi tái sinh trở lại, sống, rồi chết đi nữa vòng vòng mãi không bao giờ dứt.

Như đã nói ở trên, tôi cũng không có đủ dữ kiện và kiến thức về các vấn đề nầy để khẳng định hay phủ nhận tất cả mọi trường hợp. Nói cách khác, tôi vẫn có nhiều nghi vấn chưa được giải đáp ổn thỏa. Phần lớn có lẽ là vì tôi chưa bao giờ bỏ công ra thật sự tìm tòi, nghiên cứu về hiện tượng nầy.

Những nghi vấn của tôi về vấn đề "luân hồi" cũng tương tự như những nghi vấn đã nói ở trên về vấn đề "đầu thai". Hiện tượng nầy có thật sự xảy ra hay không? Nếu có thì có xảy ra trong tất cả mọi trường hợp, cho tất cả mọi người hay không? Ngay cả nếu việc “đầu thai” có thật thì việc “luân hồi” có thật hay không? Nếu có thật thì nó áp dụng cho tất cả mọi người hay không? Nó làm việc ra sao? Mỗi người có sự lựa chọn trong việc đầu thai đi đâu hay không? v.v. và v.v.

Như đã nói, các khái niệm về “luân hồi”, “đầu thai”, “nghiệp quả”, v.v. đều liên quan và hoạt động chung với nhau. Có những lý thuyết dùng năng lượng học, nhiệt động học, v.v. để giải thích các khái niệm nầy. Các lý thuyết nầy rất có thể không hoàn hảo và theo tôi có vẻ có phần đơn giản quá.

Như đã nói, có thể dùng định luật bảo toàn năng lượng để cho thấy sự khả dĩ hiện hữu của linh hồn. Và sau đó thì Định Luật Thứ Hai của nhiệt động học có thể dùng để gián tiếp xác định việc sự sống thành tựu rồi tan biến. Tôi xin nói rõ hơn một chút về lý thuyết nầy.

Định Luật Thứ Hai của nhiệt động học cho rằng mọi hệ thống năng lượng trong vũ trụ đều có khuynh hướng tự biến đổi từ trạng thái có trật tự cao xuống dần thành có trật tự thấp. Một con người khi còn sống là một hệ thống (năng lượng) có trật tự cao; khi một người chết thì linh hồn tách rời khỏi thể xác: đó là một hệ thống (năng lượng) có trật tự thấp hơn. Cái tử thi cũng là một hệ thống từ từ phân hủy và tan rã ra: trật tự cao biến đổi thành thấp.

Tuy vậy, Định Luật Thứ Hai của nhiệt động học cũng đưa đến một số câu hỏi chưa được giải đáp thỏa đáng; thí dụ như:

1/ Ngay cả nếu cái gọi là “linh hồn” là một hệ thống, giả dụ như có thể hiện hữu độc lập một phần nào, nhưng theo Định Luật Thứ Hai của nhiệt động học thì rồi cũng sẽ phải từ từ tiêu tan đi; và nếu như vậy thì linh hồn không vĩnh cửu hay sao?

2/ Khi linh hồn của một người biến đổi thành linh hồn của một cá thể khác, nó phải cần năng lượng để làm việc đó. Khi linh hồn “mới” muốn kết hợp vào một thân xác “mới”, đó là trường hợp một hệ thống có trật tự thấp đang biến đổi thành một hệ thống có trật tự cao; nó cũng cần năng lượng để làm việc đó. Vấn đề cần giải thích ở đây là những năng lượng cần thiết đó từ đâu mà có?

3/ Nếu cho rằng những năng lượng cần thiết để một linh hồn có thể kết hợp được với một thân xác mới đến từ vũ trụ thì điều gì cho phép (hay dẫn đến) sự di chuyển năng lượng từ một hệ thống (bao la như vũ trụ) đến một hệ thống khác (bé nhỏ như một cá thể)? v.v.

Thật ra thì tôi có cảm tưởng cách nhìn nầy có phần đơn giản quá. Đó là vì nói chung thì hầu như bất cứ sự kiện hay hiện tượng nào trên đời cũng có thể được giải thích (ít nhất là một phần nào) bằng một giả thuyết hay định luật nào đó. Ở đây các lý thuyết nầy đang dùng những định luật khoa học có phạm vi rất tổng quát để cố giải thích cho những hiện tượng không kiểm chứng được.

Đối với tôi thì chuyện “đầu thai” và “luân hồi” không quan trọng lắm. Tôi sống cho kiếp sống hiện tại. Nếu thật sự có chuyện đầu thai thì tốt, còn không thì cũng không sao. Tôi không lo sợ về chuyện nhân quả, tôi cũng không quan tâm lắm đến chuyện luân hồi.

Tôi nói “nếu thật sự có chuyện đầu thai thì tốt” vì nếu vậy thì có sự sống còn tiếp diễn sau khi chết. Chinh phục được cái chết là nỗi ước vọng lớn nhất của loài người từ thời hồng thủy. Tôi cũng chỉ là một thành viên của nhân loại, sự sống rất quý báu và tuyệt vời đối với tôi. Tuy nhiên tôi không vì thế mà tự dối gạt tôi với cái ảo tưởng của sự sống vĩnh cửu nếu tôn phục một thần linh nào đó.

Tương tự, những cái gọi là "bằng chứng" cho vấn đề luân hồi cho đến nay theo tôi cũng chỉ rất mơ hồ nên tôi không thể nào dựa vào nó để làm nguyên tắc trong đời sống hàng ngày.

Điều tôi than phiền nhất về nhiều tông phái Phật giáo là việc họ giảng dạy về các khái niệm đầu thai và luân hồi giống như những định luật khoa học tự nhiên trong khi họ không hề có một bằng cớ khách quan nào có thể kiểm chứng được.
 
Rồi 1 Minh Tuệ(tạm coi là chánh pháp, ko theo dõi kỹ), làm răng đấu lại 9999 Cọng sả giáo ?
Ai đi phò phò ...
Mình Tuệ ko biết hiểu được Duyên Khởi hay Vô Ngã hơn Xammer trên đây ko. Mà cũng ko quan trọng là chánh pháp hay ko khi nghe MT nói tao ko cảm thấy cái tâm vô dục trong đó nên tao ko mến lắm. Mà mày cũng đừng quá hi vọng vào những thứ tốt đẹp sẽ được cập nhật hết cho số đông, thế giới ko vận hành như vậy, đám đông luôn chọn những thứ thuộc về tham sân si nên sẽ luôn bị dẫn dắt.
 
Chỉ có một thức nhỏ được tái sinh thôi, nếu theo quan điểm của phật giáo. Có luân hồi concac

Cứu cánh của Thích Ca rất giản dị và rõ ràng: Diệt Khổ.

Sau nhiều năm tu nghiệm, ông tìm ra một chân lý mà theo ông có thể giúp con người để diệt khổ.

Theo Thích Ca muốn diệt Khổ thì phải 1/ nhận ra những loại Khổ trên đời, rồi 2/ nhận ra nguyên nhân của các loại Khổ nầy, rồi 3/ nhận biết rằng con người sự Khổ có thể đoạn diệt được, và 4/ nhận biết cách thức để đoạn diệt sự Khổ.

Diệt Khổ là chân lý mà Thích Ca tìm ra và truyền dạy. Chân lý nầy được gọi là Tứ Diệu Đế như vừa kể trên.

Chấm hết.

Thích Ca không chủ trương và không dạy gì về “Tây Phương Cực Lạc” hay “đầu thai” hay “luân hồi” cả.

Quan niệm “giác ngộ” và “giải thoát” của Thích Ca chỉ để nói về “nhận ra được bản chất của sự Khổ trên đời nầy” và “đoạn diệt được sự Khổ”.

Lúc sinh thời khi đệ tử thắc mắc về “kiếp sau” hay những vấn đề siêu nhiên khác, Thích Ca không trả lời. Theo ông, những điều nầy không cần thiết mà còn làm Phật tử phân tâm trong việc suy nghiệm ra con đường “giác ngộ” và “giải thoát” vừa kể trên.

Thích Ca sống trong một xã hội của Ấn Độ hơn 2000 năm về trước lúc mà đại đa số đang chịu ảnh hưởng mạnh bởi Ấn Độ Giáo cũng như vô số các tôn giáo đầy mê tín dị đoan khác. Dân trí rất thấp. Tất cả những lời dạy của ông đều là truyền miệng.

Mấy trăm năm sau khi ông chết, nghĩa là không dưới khoảng 10 thế hệ truyền miệng với nhau, các đệ tử mới bắt đầu ghi chép lại các lời dạy của ông. Mấy trăm năm là một thời gian quá dài trong hoàn cảnh xã hội thời đó để các lời dạy nầy có thể được ghi chép lại một cách trung thực. Qua thời gian, các lời dạy của Thích Ca càng lúc càng bị ô nhiễm, pha trộn, chế biến, thêm thắc với đủ loại tư tưởng khác cũng như các chi tiết mê tín dị đoạn bởi chính các tăng sư khi soạn thảo kinh sách.

Mức độ ô nhiễm của mê tín dị đoan trong Phật giáo có thể thấy được ở hầu hết mọi tầng lớp trong mọi tông phái.

Chuyện “hoàng hậu nằm mơ thấy voi trắng 9 ngà húc vào người rồi thọ thai” hay “mới sinh ra bước 7 bước, trên mỗi bước hiện ra một hoa sen, tuyên bố ‘thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn’” là một thí dụ điển hình. Câu chuyện nầy được ghi chép trong vô số kinh sách Phật giáo không phải như là một truyền thuyết mà như là lịch sử đã thật sự xảy ra. Hiện tượng tín đồ thần thánh hóa việc giáo chủ của họ được sinh ra (thí dụ như trinh nữ thọ thai hay giao cấu bởi thần tiên) nầy có thể thấy được trong hầu hết mọi tôn giáo khác, nhất là những tôn giáo bị khống chế nặng nề bởi mê tín dị đoan.

Chuyện địa ngục có quỷ sứ đầu trâu mặt ngựa tra tấn hành hạ những kẻ ác độc khi còn sống ở thế gian là một thí dụ thịnh hành khác trong vô số kinh sách. Sự kiện Mục Kiền Liên hiếu thảo với mẹ được tuyên dương trong kinh sách song song với cuộc hành trình xuống địa ngục cứu mẹ như là một chuyện có thật giúp phần phổ biến và bồi đắp hình ảnh địa ngục kể trên thêm.

Có thể nói rằng chỉ trong vòng khoảng gần một thế kỷ nay mới bắt đầu có ít sách vở được phổ biến viết rằng những câu chuyện tương tự như trên chỉ là truyền thuyết chớ không phải có thật. Một số ít các sư tăng cũng bắt đầu giảng giải rằng những truyền thuyết loại trên chỉ có giá trị tượng trưng chớ không có giá trị lịch sử. Đây là một hiện tượng đáng kể đánh dấu bước ngoặc lớn trong quá trình tiến hóa của Phật giáo. Thời điểm mà hiện tượng nầy xảy ra trùng hợp với thời điểm mà kiến thức khoa học phổ thông và khả năng phân tích suy luận của con người trong xã hội nói chung đã tiến triển đến một mức độ mà một số đủ lớn hành giả không thể nào chấp nhận các chuyện hoang đường trên là có thật nữa.

Lấy chuyện Thích Ca ngồi thiền định dưới gốc Bồ Đề 49 ngày trước khi giác ngộ làm một thí dụ. Hầu hết tất cả kinh sách Phật trong hơn 2000 năm nay đều ghi chép lại việc Ma Vương hiện đến quyến rũ và hăm dọa Thích Ca. Phật tử được giảng dạy và tin rằng chuyện đó đã xảy ra thật. Có 2 trường hợp: 1/ Có thể là Thích Ca đã kể lại cho đệ tử nghe về những cám dỗ và sợ hãi đã xảy ra trong tâm tưởng ông trong 49 ngày ấy bằng một ngôn ngữ rất thực tế; tuy vậy khi các đệ tử soạn thảo kinh sách ra thì tự họ thêu dệt các chi tiết huyền hoặc vào. 2/ Cũng có thể là Thích Ca đã dùng những từ ngữ đầy màu sắc thích hợp thời bấy giờ để làm cho những đệ tử ông có thể hiểu được ông muốn nói gì; và sau đó thì họ lại tin là những câu chuyện màu sắc đó có thật.

Dù gì đi nữa thì các tác giả của vô số kinh sách chính thức của Phật giáo đã ghi chép lại các chuyện trên như là sự thật vì chính họ cũng đã được giảng dạy và tin như vậy. Như đã nói, chỉ đến gần đây thì ý tưởng cho rằng các câu chuyện trên chỉ có tính cách “truyền thuyết” hay “có giá trị tượng trưng” (thay vì là “sự thật”) mới được phổ biến.

Vài Phật tử khi đọc đến đây chắc sẽ nghĩ rằng thời nay chỉ có kẻ dốt nát và mê tín dị đoan mới tin là các truyền thuyết trên có thật, và chắc sẽ không khỏi thầm hãnh diện rằng họ không thuộc vào dạng nầy. Những người đó có thể không biết rằng đa số Phật tử hiện nay vẫn tin, hay ít nhất bán tín bán nghi, rằng các chuyện trên là “có thể có thật”. Mức độ “có thật” nầy cao hay thấp bao nhiêu tùy vào kiến thức phổ thông và khả năng phân tích, lý luận thực tế của từng người.

Những người đó cũng quên rằng có thể ngay chính họ cũng đang tin tưởng và thực hành một số điều mà Thích Ca là giáo chủ của họ khi sinh thời đã cương quyết và kiên trì tránh xa.

Một sự kiện mà Thích Ca đã tránh đề cập đến khi còn sinh tiền là “điều gì sẽ xảy ra sau khi chết”. Tuy vậy, những đệ tử sau nầy của Thích Ca (các Tổ, các cao tăng sáng lập ra phái Đại Thừa hay Thiền Đông Độ chẳng hạn) đã dần dần chế tạo ra một khái niệm thịnh hành nhất trong Phật giáo là cõi “Tây Phương Cực Lạc” để đáp ứng nhu cầu nầy của chính họ và các Phật tử khác.

Đại đa số Phật tử tin rằng nếu họ siêng năng tụng kinh, làm việc phước thì sau khi chết họ sẽ được vào Tây Phương Cực Lạc. Cái cứu cánh và chân lý “đoạn diệt Khổ” của Thích Ca đã bị hoán chuyển ra thành cứu cánh và chân lý “chinh phục sự Chết”. Bản năng sinh tồn tự nhiên của con người từ khai thiên lập địa luôn luôn thu hút người ta tìm đủ mọi cách để tự thuyết phục rằng họ không hoàn toàn bị hũy diệt sau khi chết. Điều nầy có thể thấy trong hầu như tất cả tôn giáo. Phật tử do đó đã thay đổi chủ đích “làm sao để đoạn diệt Khổ ở đời nầy” ra thành “làm sao được vào Tây Phương Cực Lạc sau khi chết” một cách dễ dàng và thoải mái.

(Khái niệm “thiện” liên quan mật thiết với khái niệm “Tây Phương Cực Lạc” trong Phật Giáo, cũng như trong nhiều tôn giáo khác. Làm thiện sẽ được vào Tây Phương Cực Lạc, làm ác sẽ bị trở lại đầu thai trong vòng đau khổ của thế gian; hay tệ hơn nữa sẽ bị đày đọa ở những cõi địa ngục u tối. Khái niệm “thiện” được mọi người đều công nhận là “tốt”, là “nên làm”, là “nên xảy ra”. Khái niệm “Tây Phương Cực Lạc” do đó được vô tình củng cố thêm. Tâm thức của con người có khuynh hướng đồng hóa những sự việc liên quan hay tương tự với nhau. Vì công nhận “thiện” là “tốt”, người ta chấp nhận những lời dạy trong kinh sách về Tây Phương Cực Lạc một cách sẵn sàng hơn.)

Hai khái niệm thịnh hành khác trong Phật Giáo nhưng không nằm trong cứu cánh của Thích Ca là “luân hồi” và “đầu thai”. Nếu chấp nhận là Thích Ca lúc sinh tiền tránh không trả lời các câu hỏi về vấn đề siêu nhiên thì cũng cần chấp nhận rằng ông cũng đã không giảng dạy về quan niệm “luân hồi” và “đầu thai”.

Trong Tứ Diệu Đế không có chi tiết nào, dù trực tiếp hay gián tiếp, đề cập về các quan niệm nầy.

Khi đã chú trọng vào “làm sao để đến Tây Phương Cực Lạc sau khi chết” hay “kiếp sau sẽ là gì”, người ta dễ bị phân tâm và không còn chú trọng đến “làm sao để đoạn diệt Khổ ở đời nầy” nữa. Đây là lý do chính tại sao Thích Ca không trả lời những câu hỏi về siêu nhiên của đệ tử khi ông còn sống. Lý do thứ hai có thể là vì trả lời xác nhận cũng như trả lời phủ nhận đều không hoàn toàn cả: xác nhận thế giới siêu nhiên là chỉ dựa vào sự mong mỏi và sự sợ hãi của tâm thức khi phản ứng theo bản năng sinh tồn; phủ nhận thế giới siêu nhiên là chỉ dựa trên nhận thức hạn hẹp và thiếu sót của ngũ quan.

Và cũng rất có thể là vì ông không biết câu trả lời vì ngôn ngữ nhân loại không đủ để diễn tả những gì tâm thức và ngũ quan họ cho đến bây giờ chưa thể cảm nhận được. Nhưng điều nầy cho thấy rằng ông ít nhất đã thành thật với chính mình, và với học trò của ông.

Tôi cho rằng ngay cả các quan niệm thịnh hành “nghiệp phước” và “nhân quả” cũng không nằm trong những gì Thích Ca lúc sinh tiền đã dạy. Tuy trong Bát Chánh Đạo có dạy hành giả phải chú trọng vào “chánh nghiệp” nhưng vẫn có thể tranh luận rằng quan niệm “nghiệp” của Thích Ca chỉ có ý nghĩa thực tế chớ không phải huyền bí như Phật tử ngày nay nghĩ. “Thực tế” thí dụ như “ăn ở hiền lành với mọi người thì thường dễ tạo ra một môi trường sống hiền lành trong đó nhiều người cũng sẽ ăn ở hiền lành với những người khác chung quanh, kể cả với mình”. Tuy vậy, quan niệm “nghiệp” thực tế nầy rất có thể cũng đã bị biến đổi với thời gian trở thành siêu nhiên. Và quan niệm “nhân quả” cũng có thể được giải thích tương tự.

Quan niệm “nghiệp phước” và “nhân quả” trong Phật Giáo hiện hành còn được biến cải để bao gồm thêm những nguyên nhân và hệ quả không liên quan đến nhau.

Thí dụ ở trên (“ăn ở hiền lành với người khác sẽ được người khác ăn ở hiền lành với mình”) là một niềm tin mà nguyên nhân và hệ quả có liên quan với nhau. Quan niệm “tụng kinh để được phước” là một niềm tin mà nguyên nhân không có gì liên quan với hệ quả. Tin rằng hành động “tụng kinh” dẫn đến kết quả “được chuyện tốt lành xảy ra cho họ trong tương lai” cũng tương đồng với tin rằng đọc một câu chú hay đốt một lá bùa gì đó sẽ làm thay đổi những gì xảy ra trong cuộc đời của mình hay của một người khác. Và cũng tương đồng với việc tin rằng những câu viết bâng quơ trong quẻ số ngày đầu năm có thể tiên đoán những gì sẽ xảy ra trong suốt 12 tháng sau đó, cũng như vô số các mê tín dị đoan khác xảy ra thường trực trong các chùa chiềng hiện nay. Tương tự, Tứ Diệu Đế không hề nói gì, trực tiếp hay gián tiếp, về các vấn đề nầy.

Tại sao các quan niệm trình bày ở đây được xem là một “Phật giáo phi tín ngưỡng, phi tôn giáo”?

Chữ “tín ngưỡng” ở đây cần hiểu là liên quan đến những gì được coi là thuộc về thế giới siêu hình, thiêng liêng, huyền bí, huyễn hoặc. Không nhìn nhận “Tây Phương Cực Lạc”, “đầu thai”, “luân hồi”, “nghiệp phước”, “nhân quả”, v.v. là không có tín ngưỡng.

Khi đã không còn nhìn nhận “Tây Phương Cực Lạc”, “đầu thai” và “luân hồi” thì không còn gì để mong đợi trong “kiếp sau” nữa. Sự mong mỏi được đạt Niết Bàn hay đến Tây Phương Cực Lạc là một cái Tham vĩ đại án ngữ trước mắt của hành giả.

Cũng giống như một người đứng áp mặt sát vào một bức tường; bức tường sẽ trở thành quá lớn, chu vi của nó nằm hẳn bên ngoài phạm vi của nhãn quang nên người đó sẽ không còn nhận thấy là có bức tường trước mặt họ nữa. Khi bước lùi lại xa khỏi bức tường đó thì nó không còn lớn đủ để che hết tầm nhìn của hành giả nữa. Khi không còn nhìn nhận “Tây Phương Cực Lạc”, “đầu thai” và “Luân Hồi” thì tâm thức của hành giả sẽ chỉ chú trọng vào một mục tiêu duy nhất có thể đạt được trong đời sống hiện tại: Diệt Khổ.

Không còn lo nghĩ về “nhân quả”, “phước nghiệp” thì khi làm điều thiện sẽ không còn vì “để có phước” (và để “việc tốt lành sẽ xảy ra cho mình”, để “kiếp sau được đầu thai thành người sang tốt”, để “khi chết được vào Tây Phương Cực Lạc”, v.v.) nữa. Tất cả những điều trên cũng là một cái Tham lớn. Theo tôi thì đạo đức thật sự là đạo đức xuất phát từ trách nhiệm tự nguyện của tri thức cá nhân. Nếu bị hăm dọa (thí dụ: “làm điều ác sẽ tạo ra nghiệp chướng đời sau”) hay khuyến dụ (thí dụ: “làm việc thiện sẽ gặp việc thiện trả lại”) thì cái gọi là “đạo đức” đó chỉ là những trao đổi với mục tiêu vụ lợi và do đó vô ý nghĩa. Ngoài việc “vô ý nghĩa” ra, quan điểm trên còn tạo ra một ngả rẽ tách rời hành giả ra khỏi con đường Tứ Diệu Đế.

Nếu không còn các yếu tố thiêng liêng, huyền bí trên thì người ta không còn phải lo sợ vô cớ không cần thiết nữa.

Niết Bàn hay Địa Ngục sẽ chỉ là những chuyện kể cho vui tai. Chỉ có đời sống hiện tại là có ý nghĩa, bắt đầu từ lúc nó bắt đầu và chấm dứt bằng sự Chết. Tự nhiên và hiển nhiên. Nếu đã chấp nhận được sự Chết là một điều hiển nhiên thì hành giả sẽ không còn phải mong lo tìm kiếm cách để che đậy cái sự thật đó bằng những ảo ảnh vô tưởng nữa. Tuy không ai có thể chinh phục được sự Chết, nhưng nếu nhìn nhận sự Chết là một phần tự nhiên của đời sống thì rất có thể hành giả sẽ chinh phục, ít ra là phần nào, được sự sợ hãi về cái Chết.

Nếu đã chấp nhận, và hằng nhớ mỗi giây phút trong đời, rằng sự Chết sẽ xảy đến cho bất cứ ai bất cứ lúc nào thì tự nhiên mỗi hơi thở sẽ rất ngọt ngào, mỗi cử động bình thường của cơ thể sẽ là mỗi nỗi sung sướng, mỗi buổi sáng thức dậy sẽ đẹp tuyệt vời, mỗi ngày trôi qua trong đời là một kỳ quan đáng tận hưởng, và mỗi muộn phiền lo lắng trong cuộc sống hàng ngày tự dưng sẽ trở thành không còn đáng để muộn phiền lo lắng nữa. Và đó, theo tôi là một phần lớn của Cực Lạc.

Chữ “tôn giáo” ở đây cần được hiểu là “tôn giáo bị chi phối và điều hành bởi các tổ chức của tăng lữ”.

“Phi tôn giáo” có nghĩa là không bị chi phối bởi tổ chức tăng lữ và do đó không bị ảnh hưởng bởi niềm tin sẵn có của họ. Mỗi tông phái có một lối tu riêng; mỗi tông phái đều cho lối tu của họ là hay nhất, mau lẹ nhất, “thật” nhất. Nhiều chùa, nhiều sư tăng pha trộn lý thuyết và thực hành của nhiều tông phái với nhau, kể cả những mê tín dị đoan thu gặt từ thế hệ nầy sang thế hệ khác. Mỗi “thầy” dạy và muốn đệ tử đi theo con đường của họ, và Phật tử rối mù làm theo như những con nộm vô thức. Nếu không còn bị chi phối bởi kinh sách và lời giảng giải của tổ chức tăng lữ hay Thầy nầy Tổ nọ, thì hành giả sẽ có dịp tự suy ngẫm để may ra có thể nhận thấy tại sao những con đường sẵn có mà họ đang đi theo không dẫn họ đến đâu cả.

Nói tóm lại, quan niệm “Phật giáo phi tín ngưỡng, phi tôn giáo” chú tâm vào cái cốt tủy của Phật pháp là Tứ Diệu Đế và gạt bỏ những chi tiết rườm rà không cần thiết khác. Đối với hành giả mang quan niệm nầy, triết lý Phật giáo tự nhiên giản dị và dễ hiểu hơn nhiều.

Giản dị và dễ hiểu không có nghĩa là dễ thực hành.

Và chắc chắn là không có nghĩa rằng ai cũng nhận thấy.
 
Top