2. Chủ nghĩa ******** thâm nhập vào giáo dục tiểu học và trung học
Trong lĩnh vực giáo dục, mặc dù chủ nghĩa ******** can thiệp nặng nhất là bậc đại học, nhưng nó cũng không hề không buông lỏng việc xâm nhập vào giáo dục trung học và tiểu học. Dưới ảnh hưởng của nó, học sinh bị thui chột về phát triển tri thức và độ trưởng thành, khiến họ dễ tiếp nhận ảnh hưởng của cánh tả khi lên đại học. Tri thức của mỗi thế hệ học sinh trở nên ngày càng nông cạn, năng lực tư duy ngày càng kém, quá trình này diễn ra trong cả trăm năm. Người khởi xướng quá trình này là John Dewey, một thủ lĩnh của phong trào giáo dục cấp tiến, và rất nhiều làn sóng cải cách giáo dục sau đó đa phần đều không thoát ly khỏi tầm ảnh hưởng của giáo dục theo chủ nghĩa tiến bộ.
Ngoài việc nhồi nhét cho học sinh thuyết vô Thần, thuyết tiến hóa, hình thái ý thức của chủ nghĩa ********, giáo dục tiểu học và trung học của Mỹ còn tiến hành khống chế tâm lý học sinh trên quy mô lớn, một mặt phá hoại đạo đức và tín ngưỡng truyền thống của học sinh, mặt khác truyền bá chủ nghĩa tương đối về đạo đức và một loạt các quan niệm hiện đại cũng như thái độ sống hủ bại. Sự việc này xuất hiện rải rác trong các bộ ngành giáo dục, họ dùng những thủ đoạn lừa gạt và cưỡng chế vô cùng phức tạp, khiến học sinh và công chúng hầu như không cách nào phòng bị.
2.1 Làm thui chột học sinh, sinh viên
Mỹ là quốc gia dân chủ; từ tổng thống đến các nhà lập pháp, thị trưởng, quận trưởng, ủy viên các khu v.v., mỗi vị trí đều do dân bầu ra. Chính trị dân chủ có thể đi trên con đường lành mạnh hay không, không chỉ được quyết định bởi tiêu chuẩn đạo đức của nhân dân, mà còn được quyết định bởi trình độ tri thức của họ. Giả sử như, cử tri có rất ít kiến thức về các vấn đề lịch sử, chế độ kinh tế chính trị, vấn đề xã hội thì không thể lý trí mà bầu chọn ra những quan chức biết suy nghĩ cho lợi ích căn bản và lâu dài của quốc gia và xã hội, cũng có nghĩa là đặt quốc gia vào hoàn cảnh nguy hiểm.
Năm 1983, Bộ Giáo dục Mỹ ủy thác cho một tổ chuyên gia tiến hành nghiên cứu, điều tra trong 18 tháng, họ đã viết báo cáo có tên “Đất nước đang trong nguy hiểm (A Nation at Risk)”. Tác giả của báo cáo đã chỉ ra một cách sâu sắc rằng:
“Để đất nước của chúng ta có thể vận hành, công dân phải trong một thời gian cực nhanh, trên cơ sở những chứng cứ chưa hoàn thiện và có phần mâu thuẫn, có thể đạt được một số hiểu biết chung về những vấn đề phức tạp.” Giáo dục có thể giúp hình thành nên sự hiểu biết chung này, trước đây rất lâu Thomas Jefferson đã nói trong câu châm ngôn nổi tiếng của ông: ‘Ngoại trừ chính bản thân người dân, tôi không biết quyền lực xã hội tối cao còn có thể đặt ở nơi nào an toàn hơn; nếu chúng ta cho rằng họ không có kiến thức đầy đủ để có thể toàn quyền sử dụng quyền lực của họ, thì biện pháp khắc phục không phải là chiếm đoạt quyền lực từ tay họ, mà là cần giúp họ nâng cao nhận thức về quyền đó.”
Đối với một cá nhân mà nói, nếu kiến thức nông cạn và năng lực tư duy kém thì không thể nào nhận ra sự dối trá và lừa gạt. Giáo dục có vai trò cực kỳ to lớn. Vì thế, các phần tử ******** đã thâm nhập vào các cấp của hệ thống giáo dục, biến học sinh trở thành ngốc nghếch, thiếu hiểu biết, để từ đó dễ dàng khống chế.
Báo cáo này viết: “Nền tảng giáo dục xã hội của chúng ta hiện đang bị xói mòn bởi trào lưu [ưa chuộng] những thứ tầm thường, nó đã uy hiếp đến chính tương lai của cả quốc gia và dân tộc.”
“Nếu trước đây, có thế lực nước ngoài không hữu hảo nào tìm cách áp lên nước Mỹ thứ giáo dục tầm thường đang tồn tại trong xã hội chúng ta ngày nay, vậy thậm chí chúng ta còn coi đó là một loại hành vi gây chiến.”
“Từ buổi đầu của sự kiện vệ tinh nhân tạo Sputnik của Liên Xô, chúng ta thậm chí còn lãng phí lợi ích có thể thu được từ thành tích của sinh viên. Hơn nữa, chúng ta còn phá hủy nền tảng hỗ trợ quan trọng nhất để có thể đạt được những lợi ích đó. Thực ra, chúng ta đã bất tri bất giác, đơn phương cắt giảm giáo dục rồi.”
Báo cáo dẫn lời của nhà phân tích Paul Copperman rằng: “Lần đầu tiên trong lịch sử nước ta xuất hiện tình huống như thế này: kỹ năng đạt được từ giáo dục của một thế hệ không vượt qua, không đáp ứng, thậm chí là không đạt đến tiêu chuẩn của cha mẹ học sinh, sinh viên.”
Báo cáo liệt kê một loạt số liệu khiến người ta phải giật mình: Ngoài việc điểm số của học sinh, sinh viên Mỹ trong các kỳ thi quốc tế thường đứng cuối so với các quốc gia khác, có đến 23 triệu người Mỹ thành niên mù chữ chức năng, tức là chỉ có khả năng đọc viết ở mức căn bản nhất, không có khả năng đáp ứng yêu cầu của công việc và cuộc sống hiện đại ở mức độ phức tạp. Tỷ lệ mù chữ chức năng ở người 17 tuổi là 13%, và có thể lên đến 40% ở các dân tộc thiểu số. Từ năm 1963 đến năm 1980, điểm số trong cuộc thi khảo sát năng lực đầu vào đại học SAT (Scholastic Aptitude Test) liên tục hạ xuống, điểm trung bình môn ngữ văn giảm tới hơn 50 điểm, điểm trung bình môn toán giảm gần 40 điểm. “Nhiều người 17 tuổi không có năng lực tư duy cao như chúng ta kỳ vọng. Gần 40% không thể đọc tài liệu để suy luận; chỉ có 1/5 có thể viết được luận văn thuyết phục, và 1/3 có thể giải những đề toán cần nhiều bước giải.”
Sau những năm 1980, những người có hiểu biết sâu sắc trong giới giáo dục Mỹ đã phát động phong trào “quay về với cơ bản” (Back to Basics), nhưng liệu nó có thể chặn đà xuống dốc của giáo dục Mỹ hay không? Năm 2008, Mark Bauerlein, một giáo sư Khoa tiếng Anh Đại học Emory đã viết một cuốn sách có tựa đề “Thế hệ dốt nát nhất” (The Dumbest Generation), chương đầu tiên của cuốn sách đã tổng hợp kết quả cuộc khảo sát và điều tra của Bộ Giáo dục và các tổ chức phi chính phủ, trong đó khái quát về sự thiếu hụt kiến thức của học sinh, sinh viên Mỹ về các môn như lịch sử, công dân, toán học, khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật, v.v.. Trong bài thi lịch sử của Kỳ thi Đánh giá Tiến độ Giáo dục Toàn quốc (NAEP) năm 2001, 57% học sinh “không đạt” (below basic) và chỉ có 1% đạt “ưu tú” (advanced). Điều khiến người ta kinh ngạc là với câu hỏi “Quốc gia nào là đồng minh của Mỹ trong Chiến tranh Thế giới lần thứ 2?” có 52% đáp án chọn Đức, Nhật Bản, Italy, mà không phải là Liên Xô. Kết quả ở một số phương diện khác cũng khiến người ta thất vọng như thế.
Ai cũng thấy rõ sự sa sút về chất lượng giáo dục ở Mỹ. Từ những năm 1990 đến nay, cụm từ “ngu dân” (“dumbing down”) xuất hiện nhiều trong nhiều cuốn sách về vấn đề giáo dục ở Mỹ, trở thành một khái niệm mà các nhà giáo dục Mỹ không thể né tránh. John Taylor Gatto, một giảng viên có thâm niên, và là nhà nghiên cứu giáo dục ở thành phố New York viết: “Hãy cầm một cuốn sách giáo khoa toán học hoặc văn học của học sinh lớp 5 vào những năm 1850, bạn sẽ phát hiện rằng nội dung thời đó được coi là tương đương với tiêu chuẩn đại học ngày nay”.
Để không làm cho hệ thống giáo dục Mỹ quá tệ, Cơ quan Khảo thí Giáo dục ETS (Educational Testing Service) đành phải cân đối lại điểm của kỳ thi khảo sát đầu vào đại học SAT vào năm 1994. Năm 1941, khi SAT bắt đầu áp dụng hình thức hiện đại, điểm trung bình của bài kiểm tra môn ngữ văn là 500 điểm (thang điểm cao nhất là 800 điểm). Đến những năm 1990, điểm trung bình đã hạ xuống 424 điểm; ETS bèn định nghĩa 424 thành 500 điểm.
Chất lượng giáo dục đi xuống không chỉ biểu hiện ở năng lực đọc viết của học sinh bị giảm sút. Do thiếu nền tảng kiến thức nên năng lực tư duy của học sinh Mỹ cũng bị hạ xuống nhanh chóng. Học giả người Mỹ Thomas Sowell trong những năm 1990 đã chỉ ra tình trạng học sinh “không những không biết đọc, mà thậm chí còn không biết tư duy, không hiểu tư duy là gì, bởi vì ở nhiều trường công, tư duy thường bị lẫn lộn với cảm giác.”
Khác với các lãnh đạo sinh viên nổi loạn những năm 1960 còn có thể nói năng đĩnh đạc, hiện nay, quan sát những thanh thiếu niên tham gia các cuộc biểu tình trên đường phố được phỏng vấn trên các chương trình tin tức truyền hình, hiếm khi thấy họ có thể biểu đạt được yêu cầu của mình một cách rõ ràng. Bởi vì họ thiếu năng lực tư duy và kiến thức cơ bản.
Nguyên nhân việc thành tích của học sinh bị sa sút không phải do học sinh hiện nay không thông minh bằng học sinh trước đây, mà là do hệ thống giáo dục bị chủ nghĩa ******** khống chế làm vũ khí mà âm thầm tiến hành một cuộc chiến nhắm vào thế hệ tiếp theo. Charlotte Thomson Iserbyt, tác giả của cuốn sách “Cố ý làm suy yếu dân trí nước Mỹ”, cũng là cố vấn chính sách cao cấp của Bộ Giáo dục Mỹ trong những năm 1980 đã nói: “Người dân Mỹ không hiểu được nguyên nhân của cuộc chiến này là vì cuộc chiến đang ngầm diễn ra – trong các trường học của đất nước chúng ta, nhắm vào những đứa trẻ bị giam cầm trong lớp học.”
2.2 Bản chất phá hoại của giáo dục theo chủ nghĩa tiến bộ
Giáo dục trung học và tiểu học của Mỹ đã rời xa truyền thống trên quy mô lớn bắt đầu từ phong trào giáo dục cấp tiến đầu thế kỷ 20. Sau đó, các thế hệ nhà giáo dục cấp tiến đã bào chế ra lượng lớn những ngôn từ lý luận lẫn lộn đúng sai, làm thay đổi thiết kế giáo trình, làm đơn điệu nội dung giảng dạy, hạ thấp tiêu chuẩn dạy học, khiến hệ thống giáo trình truyền thống bị giải thể nhanh chóng, từ đó tiêu chuẩn giáo dục không ngừng bị hạ thấp.
2.2.1 Từ Rousseau đến Dewey
Cha đẻ của giáo dục cấp tiến Mỹ là nhà triết học chủ nghĩa hiện thực John Dewey, mà Dewey lại chịu ảnh hưởng cực lớn của nhà tư tưởng thế kỷ 18 của Pháp là Jean-Jacques Rousseau.
Rousseau tin rằng bản tính con người là lương thiện, chính xã hội đã khiến con người bị trượt dốc về đạo đức. Ông ta cho rằng con người sinh ra là tự do và bình đẳng, và rằng trong trạng thái tự nhiên, ai ai cũng có quyền lợi trời ban này, chỉ sau khi nhân loại tiến vào nền văn minh mới xuất hiện hiện tượng bất bình đẳng, độc quyền và nô dịch giữa người với người, từ đó khiến bản tính con người bị hủy mất. Ông ta chủ trương tiến hành cái gọi là “giáo dục tự nhiên” đối với trẻ em, tức là phóng túng khuynh hướng tự nhiên của trẻ em, không tiến hành giáo dục và dẫn dắt về mặt tôn giáo, đạo đức và văn hóa đối với trẻ em.
Mọi người đều biết, nhân tính con người có mặt thiện và ác đồng thời tồn tại, nếu không bồi đắp mặt thiện trong nhân tính, hạn chế mặt ác trong nhân tính, con người sẽ phóng đại vô hạn mặt ác, cuối cùng tất yếu sẽ dẫn đến không điều ác nào là không làm. Với những câu từ văn vẻ, hoa mỹ, đầy tính kích thích, Rousseau đã mê hoặc được rất nhiều người kiến thức nông cạn, nửa vời. Tư tưởng giáo dục của ông ta có tính phá hoại khôn lường đối với giáo dục phương Tây hiện đại.
Hơn 100 năm sau, Dewey lại thúc đẩy sự phá hoại do Rousseau khởi xướng tiến thêm một bước lớn. Dưới ảnh hưởng của thuyết tiến hóa của Darwin, Dewey cho rằng trẻ em cũng nên thoát khỏi sự ảnh hưởng của phụ huynh, tôn giáo và văn hóa truyền thống để tự do phát triển và thích ứng với hoàn cảnh. Về mặt đạo đức, Dewey là một người theo chủ nghĩa tương đối và chủ nghĩa thực dụng. Ông ta cho rằng không có đạo đức tối cao và bất biến, mỗi cá nhân đều có thể dựa vào cảm giác của bản thân mình để quyết định nên hành động như thế nào. Chủ nghĩa đạo đức tương đối khuyến khích con người thoát ly khỏi quy phạm đạo đức mà Thần định ra cho con người. Đó là bước đi đầu tiên dẫn đến sự bại hoại, đây cũng là một bước đi cực kỳ trọng yếu.
Dewey là một trong 33 nhân vật ký tên lên “Tuyên ngôn Chủ nghĩa Nhân bản” (The Humanist Manifesto) vào năm 1933. Khác với chủ nghĩa nhân văn thời kỳ văn nghệ phục hưng, chủ nghĩa nhân bản xuất hiện trong thế kỷ 20, thực chất là thuyết vô thần, một loại tôn giáo thế tục. Nó kiến lập trên những tư tưởng hiện đại như thuyết tiến hóa, thuyết duy vật, coi con người như máy móc, hoặc là tổng hòa của quá trình sinh vật, hóa học.
Vì thế, giáo dục phải dựa trên quan niệm của các nhà giáo dục để nhào nặn và hướng dẫn mọi người, tư tưởng này hoàn toàn đồng nhất với “nhào nặn con người mới chủ nghĩa xã hội” của Marx, về bản chất hoàn toàn giống nhau. Ngoài ra, Dewey cũng là một người theo chủ nghĩa xã hội dân chủ.
Triết học gia người Mỹ Sidney Hook tin rằng “Dewey đã cung cấp cho chủ nghĩa Marx một bộ nhận thức luận và triết học xã hội, mà bản thân Marx chỉ lờ mờ ý thức được bộ nhận thức luận và triết học xã hội này, và đã đề cập sơ qua trong các tác phẩm thời kỳ đầu của ông ta, nhưng chưa từng nói rõ ràng”.
Năm 1921, chính phủ Nga còn trong khói lửa nội chiến đã tranh thủ xuất bản một cuốn sổ tay 62 trang, với nội dung là một phần trích dẫn cuốn “Dân chủ và Giáo dục” (Democracy and Education) của Dewey. Năm 1929, hiệu trưởng Albert P.Pinkerich của Trường Đại học Quốc lập Moscow II đã viết: “Dewey vô cùng gần gũi với những người ******** Nga và Marx.” Nhà viết tiểu sử Alan Ryan đã viết về Dewey rằng: Dewey “đã cung cấp vũ khí tư tưởng cho một chủ nghĩa Marx phi cực quyền, theo hướng dân chủ xã hội”.
Các nhà giáo dục cấp tiến không giấu giếm mục đích làm thay đổi thái độ nhân sinh của học sinh, sinh viên. Để thực hiện mục tiêu này, họ đã đảo lộn mọi phương diện học hành, từ kết cấu lớp học đến tài liệu, phương pháp giảng dạy và quan hệ thầy trò. Giáo dục cấp tiến cổ xúy việc lấy học sinh (hoặc trẻ em) chứ không phải lấy giáo viên làm trung tâm, lấy kinh nghiệm cá nhân mà không phải dùng kiến thức trong sách vở làm trung tâm, lấy hoạt động mà không phải lấy việc giảng dạy trên bục giảng làm trung tâm.
Tạp chí của phái bảo thủ Mỹ “Các sự kiện của Nhân loại” (Human Events) đã xếp cuốn “Dân chủ và Giáo dục” của Dewey đứng thứ 5 trong “Những cuốn sách nguy hại nhất thế kỷ 19 và thế kỷ 20”. Tạp chí này đã bình luận sắc bén rằng, đối với Dewey, “Việc giáo dục chú trọng bồi dưỡng phẩm chất đạo đức truyền thống và truyền thụ tri thức căn bản đều không quan trọng, mà chỉ nhấn mạnh vào việc dạy ‘kỹ năng’ tư duy.”
Ngay từ khi chủ nghĩa tiến bộ mới sinh ra, một số nhân sĩ nhìn xa trông rộng đã từng phê bình nó. Một cuốn sách nhỏ xuất bản năm 1949 tên là “Liều dạy: Giáo dục công lập Mỹ dưới cái nhìn của một người ngoài nghề” (And Madly Teach: A Layman Looks at Public School Education), đã đưa ra lập luận chính xác và toàn diện bác bỏ những giáo điều chủ yếu của giáo dục cấp tiến. Các nhà giáo dục cấp tiến đã gọi những nhà phê bình đó là “kẻ phản động”, họ phản bác lại bằng mọi cách, đến khi đuối lý thì lại ra vẻ làm ngơ.
Dewey làm việc hơn 50 năm với danh hiệu giáo sư suốt đời tại Đại học Colombia. Trong thời gian ông ta quản lý Trường Cao đẳng Sư phạm thuộc đại học này, ít nhất có 1/5 số giáo viên tiểu học và trung học được đào tạo hoặc cấp bằng bậc cao hơn tại Đại học Colombia. Kể từ đó, “Giáo dục cấp tiến” cũng từ nước Mỹ mà lan ra toàn cầu.
Khác với Marx, Engels, Lenin, Stalin, hay Mao Trạch Đông, Dewey không có dã tâm trở thành lãnh tụ cách mạng, cũng không ngông cuồng phát động cách mạng thế giới. Cả đời ông ta là một giáo sư, một học giả, nhưng hệ thống giáo dục mà ông ta tạo ra lại trở thành một trong những công cụ đắc lực nhất của chủ nghĩa ********.