Live Gia Long hay Nguyễn Huệ

Mày sai. Gia Long không hề có chuyện bế quan tỏa cảng mà trái lại ủng hộ giao thương với Tây chỉ có Minh Mạng là không theo hầu hết các ý kiến của vua cha thôi trong đó có cả cấm đạo vì Minh Mạng được nuôi dưỡng bởi bọn hủ nho.
Gia Long buôn bán với phương tây rất nhiều
Súng của ông mua là hàng tốt nhất phương tây thời đó
https://banggia.thanhnien.vn/







Logo


Kinh Thành Huế đầu thế kỷ XIX: Một lần gặp vua Gia Long​

Michel Đức Chaigneau
Michel Đức Chaigneau

Vua Gia Long đã cho cha tôi ngày giờ hẹn và nơi bái kiến, tôi phải theo cha đến cung Cao - Minh. Ngày hẹn, tôi đi cùng cha tôi đến cung vào khoảng sáu hay bảy giờ tối. Khi đến phòng chờ, người hầu cận nói với chúng tôi người ta chờ chúng tôi một lúc rồi.​


Cha tôi cầm tay tôi và dẫn đến một gian phòng lớn nơi vua ngự trên một sập gụ thếp vàng, có trải chiếc chiếu đẹp có đường viền bằng lụa vàng, với nhiều người hầu đứng phục dịch bên trái và bên phải đức vua.
Vua Gia Long có vóc dáng cao hơn người bình thường và có vẻ có thể lực cường tráng. Mái đầu bạc tôn quý của ngài cân đối với thân hình. Khuôn mặt đức vua thật uy nghi và thần thái, cho thấy một tấm lòng cao cả bao dung: ngài có những cử chỉ thật trang nhã và tính cách thân thiện, nhất là trong những lần trao đổi thân tình thường nhật. Nhưng sự lanh lợi tự nhiên của ngài cũng có thể làm cho ngài từ thái độ nhân từ chuyển sang trạng thái tức giận tột cùng mỗi khi lệnh của ngài không được thi hành đúng như chỉ bảo. Vua có sắc da sáng, mắt tinh anh, râu hoàn toàn bạc trắng, có vẻ rậm hơn người bình thường ở xứ này. Mỗi bên má là một nốt ruồi đen, chung quanh là râu, tạo thành hai lúm râu hai bên, điểm thêm cho chòm râu lớn nhưng tách biệt.
Vua Gia Long là một người có nhiều trí tuệ và hoài bão. Do trải qua nhiều gian nan thử thách, ngài có được sự đúng đắn, chín chắn trong đánh giá người và việc. Ngài nắm rõ mọi ngóc ngách của hệ thống hành chính vương triều, hơn cả những vị thượng thư mà ngài nhiều lần đã bắt lỗi. Nhưng ngoài công việc phải trao đổi nghiêm túc ra, ngài là người vui tính nhất, dễ mến nhất của đất nước này: nhiều lúc, do ý thích và ở nơi thân tình, ngài đã thốt ra những lối nói bông đùa dân dã đến mức làm người nghe đỏ cả mặt.
close_xam.png

admicro.vn
Đức vua đang nằm nghiêng mình trên sập gụ, tay cầm sách, vội bật dậy khi thấy chúng tôi đến. Ngài thốt lên: “Hà ha! Nào những người bạn của ta đây! Hãy đến đây, đến gần hơn nữa để trẫm xem thử con có giống người cha cao quý của con hay không!”. Ngài đặt hai tay lên vai tôi, mân mê cằm của tôi, nhìn tôi chăm chú rồi ngài nói: “Khanh đã đổ nhiều công sức, nhưng khanh lại cho thằng bé này cái mũi hơi theo kiểu người An Nam”. Bản thân tôi đã chuẩn bị sẵn sàng để bẩm lời chúc mừng với đức vua nhưng ngài nói không dừng, chẳng để tôi chút thời gian để bày tỏ.
Cuối cùng, tôi lui lại vài bước rồi nói thật to và rành mạch: “Xin bái kiến hoàng thượng là thiên tử, hạ thần xin khấu đầu kính chúc hoàng thượng vạn tuế, vạn vạn tuế!”. Tôi chưa dứt lời thì vua Gia Long đã cười vang: “Này, ngươi cũng muốn vậy, muốn ta là thiên tử! Chắc chắn không phải cha ngươi đã dạy ngươi điều đó, vì cha ngươi chẳng bao giờ bẩm với ta những điều bậy bạ như vậy. Ta mà là con trời à!”. Vua nhìn sang cha tôi rồi cả hai cùng cười hả hê đến nỗi tôi cũng cười lây mà không hiểu tại sao. Đức vua nói tiếp: “Ta đã bảo với tất cả những ai gọi ta là con trời rằng ta cũng có một người cha và một người mẹ, rằng cha ta thì đã làm thế này và mẹ ta đã làm thế kia...”. Nhưng tôi xin dừng lại ở đây, vì nhân đó vua Gia Long nói dông dài về cách con người lưu truyền nòi giống, và rồi ngài dùng những cử chỉ và chữ nghĩa rất hiển hiện, đến mức nếu tôi mà kể ra đây thì sẽ rất chói tai cho những ai vốn có tâm hồn thanh thoát.

Sau khi đã cười và nói dông dài thoải mái về một chủ đề mà ngài ưa thích, đức vua quay lại phía tôi và phán rằng tôi đã quên, trong việc chúc tụng, một điều hết sức thiết yếu. Ngài bảo: “Ngươi gọi ta là thiên tử nhưng ngươi chưa bái lạy thiên tử”. Người xứ An Nam rất xem trọng tập quán vái chào xứ mình. Tôi buộc phải tuân theo, dù là miễn cưỡng: bổ sung thêm lời chúc tụng là động tác vái lạy theo kiểu người An Nam, kiểu chào mà vài năm về sau tôi sẽ chẳng chịu làm, trừ phi là bị bó buộc. Thế rồi, với đôi chút do dự, tôi bắt đầu vái lạy phủ phục: đầu tiên là quỳ một đầu gối, rồi đầu gối tiếp theo, rồi chắp tay lại, cúi rạp người xuống, theo như tư thế rạp cong người của trẻ con làm con ngựa để bè bạn nhảy qua. Tôi đã sắp thực hiện cái vái lạy thứ năm thì nhà vua, rất tinh mắt, thấy cảnh tượng này, nửa nghiêm trang nửa khôi hài, không hợp lòng cha tôi, nên khoát tay bảo tôi: “Thôi đủ rồi con, con chỉ phải vái lạy ta bằng một nửa lối người xứ ta phải làm. Nhưng này, con mấy tuổi?”.
Muôn tâu hoàng thượng, hạ thần tám tuổi.
Con học gì?
Muôn tâu hoàng thượng, hạ thần học tiếng Pháp và chữ Hán.

Rất giỏi, gắng học rồi ta sẽ cho con làm quan. Con có muốn làm quan không?
Muôn tâu hoàng thượng, hạ thần rất muốn.
Rồi ngài quay về phía cha tôi nói tiếp: “Thằng bé này có sung sướng khi hiện diện giữa những quý phi xinh đẹp hay không! Rất nhiều kẻ muốn được vào địa vị của thằng bé! Này Ông - Long (vua Gia Long gọi cha tôi như thế), thật là khổ khi có những vật báu như thế mà không thể tận hưởng tùy thích! Trời đất quá nghiêm khắc với chúng ta, nay đã là những ông lão: cho phép ta ngắm nhìn cây tươi trái đẹp, nhưng như chỉ cho ta sức lực vừa đủ để với hái
 

Logo
App StoreGoogle Play
ZaloYoutubeYoutube





Chứng nhận tín nhiệm mạng
Văn hóa
Sống đẹp

Câu chuyện văn hóa

Khảo cứu

Xem - Nghe

Sách hay

Món ngon Hà Nội

Nghĩa tình miền Tây

Hào khí miền Đông

15/01/2017 08:00 GMT+7

Kinh thành Huế đầu thế kỷ XIX: Người Pháp tại Huế

Michel Đức Chaigneau

Michel Đức Chaigneau

Tư gia của hai ông quan Pháp Vannier và Chaigneau luôn rộng mở đón chào bất cứ vị nào mặc Âu phục đặt chân đến Kinh thành Huế:

Là thương gia hay chỉ đơn giản là du khách, tất cả đều được đón tiếp theo cung cách hiếu khách đặc biệt kiểu người Pháp.
Những thương thuyền cập bến xứ Cochinchine, với tần suất không cao, thường là thuyền buôn Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha hay là chiến thuyền của người Anh. Chỉ mãi đến năm 1817, hai ông mới sung sướng được thấy cập bến những thuyền đầu tiên đến từ nước Pháp. Như thế, trong hơn một phần tư thế kỷ, đã không có một người Pháp nào đặt chân đến vùng đất này và hình như nước Pháp đã quên mất nó đi. Chỉ đến tháng 9.1817 mới có thương thuyền của công ty Balguerie, Sarget et Compagnie, đến từ cảng Bordeaux cập bến xứ Cochinchine.
Khi viết những dòng này, tôi sẽ không dám thử gợi ra lại những cảm xúc của hai ông Vannier và Chaigneau khi chứng kiến sự xuất hiện bất ngờ mà hai ông đã hết lòng ước ao mong đợi từ bấy lâu. Thương thuyền Pháp xuất hiện đã làm sống lại nơi hai người những kỷ niệm về quê hương và niềm hy vọng sẽ có ngày về thăm lại tổ quốc xinh đẹp, nơi hai ông vẫn còn người thân và bạn bè. Mỗi vật hai ông thấy trên thương thuyền lại gợi lên một kỷ niệm nào đó của một thời đã qua: hai ông luôn miệng hỏi thăm vị chỉ huy, các sĩ quan và thủy thủ trên con tàu về quê hương sinh thành. Hai vị quan đã tiếp đón hết sức nồng hậu tất cả những người đồng hương và giúp đỡ họ bán hết số hàng hóa chở theo.
Chuyến tàu thứ hai của một công ty khác tại Bordeaux, Công ty Phillipon, cập bến tiếp theo sau chuyến thứ nhất. Chuyến này cũng được đón tiếp như chuyến trước, nhận được sự bảo trợ của hai vị quan người Pháp. Đáng tiếc là hai chuyến hàng đều hoàn toàn không phù hợp với xứ này, làm những chuyến đi thử nghiệm đầu tiên như thế hoàn toàn thất bại.
close_xam.png

close_xam.png
admicro.vn
Xem thêm

tin liên quan

Kinh thành Huế đầu thế kỷ XIX: Diện kiến vua Minh Mạng
Cha tôi nôn nóng muốn gặp vua Minh Mạng. Sau khi báo tin xin được tiếp kiến, cha tôi đã đến điện Cần Chánh.
Vua Gia Long đón tiếp tàu buôn Pháp
Tuy vậy, vì có cảm tình và sự trân trọng với người Pháp nên vua Gia Long, qua trung gian của hai ông Vannier và Chaigneau, đã bày tỏ với những người chỉ huy và áp tải hàng hóa việc ngài lấy làm tiếc là những chuyến tàu buôn khởi đầu như thế đã không thành công, rồi ngài ra lệnh miễn mọi sắc thuế cho cả hai chuyến tàu. Ngài cũng từ chối ngay cả những món quà dâng tặng ngài, và chỉ nhận vài món cho triều đình với điều kiện là được trả tiền. Đức vua cũng bày tỏ với các vị chỉ huy đồng thời áp tải hàng của các chuyến tàu là ngài mong muốn họ trở lại với những hàng hóa phù hợp với nhu cầu bản xứ, ngài cũng chỉ rõ thêm những món hàng nào, và hứa sẽ luôn đối xử với họ như những thần dân đến từ một nước bạn.
Mười tám tháng sau, hai thương thuyền loại ba cột buồm tuyệt đẹp thả neo ở vịnh Tourane (Đà Nẵng), hai chiếc này có tên Larose và Henri, thuộc quyền các chủ tàu đã tổ chức các chuyến trước.
Và đây là những lời trình bày của một trong những nhà buôn trong báo cáo về những chuyến đi đầu tiên đến xứ Cochinchine. Sau khi cho biết những thiệt hại của hai công ty. Vị thương gia nói: “Tin tưởng vào những kết quả tiếp theo mà nước Pháp có thể gặt hái được từ những mối quan hệ như thế, tin tưởng vào sự đón tiếp của đức vua (An Nam) dành cho đại diện những chuyến tàu, qua sự trung gian của những quan người Pháp phục vụ tại triều đình bản xứ, những vị này đã ân cần săn đón với tình cảm thân hữu; được những vị này khuyến khích, các công ty lại cử đi tiếp người áp tải hàng trên một trong những con tàu đẹp nhất, chiếc Larose, trọng tải khoảng 700 tonneaux (đơn vị chuyên chở trên tàu thuyền trước đây của Pháp, một tonneaux tương ứng 1,44 m3) và ít ngày sau đó lại đến lượt chiếc Henri. Lời hứa sẽ vẫn đón tiếp trọng thị như những chuyến trước đó được thực thi hết sức nghiêm túc và chính xác. Hàng hóa đã được tiếp nhận và trang trải một cách sòng phẳng, ngay thẳng và thật chu đáo kỹ lưỡng. Hai con tàu này lúc quay về đã nhập đường, trà và tơ lụa thô, đồng thời cũng mang về tiền của xứ này. Như thế, dưới mọi góc độ, chuyến đi sau này là một thành công trọn vẹn...”.
Từ khi xuất hiện các thuyền buôn Pháp ở xứ Cochinchine, ông Chaigneau luôn nghĩ ngợi hướng về nước Pháp. Không cho triều đình hay biết về ý đồ đã chín muồi, ông lặng lẽ chuẩn bị để rời xứ này ngay khi xuất hiện thời cơ thuận lợi, nếu không trở về vĩnh viễn thì chí ít cũng trong một khoảng thời gian nào đó, để thăm viếng lại nước Pháp, gia đình và đích thân sẽ báo cáo cho chính phủ tất cả những thông tin mà công tước Richelieu, Bộ trưởng của vua Louis XVIII đã nêu yêu cầu liên quan đến xứ sở này.
[td]
Cả hai ông Vannier và Chaigneau, những người Pháp còn lại ở chốn Kinh thành Huế, đều có gốc gác ở vùng Bretagne, đã cùng chiến đấu dưới ngọn cờ của vua Gia Long, chia sẻ với nhau tình cảm anh em đồng hương do cùng xuất thân một vùng miền và cùng sinh tử trên đất người. Tình cảm ban đầu đó được bền chặt hơn nữa trong mối thâm tình giữa những người bạn thâm giao
[/td]​
 

Logo
App StoreGoogle Play
ZaloYoutubeYoutube





Chứng nhận tín nhiệm mạng
Văn hóa
Sống đẹp

Câu chuyện văn hóa

Khảo cứu

Xem - Nghe

Sách hay

Món ngon Hà Nội

Nghĩa tình miền Tây

Hào khí miền Đông

15/01/2017 08:00 GMT+7

Kinh thành Huế đầu thế kỷ XIX: Người Pháp tại Huế

Michel Đức Chaigneau

Michel Đức Chaigneau

Tư gia của hai ông quan Pháp Vannier và Chaigneau luôn rộng mở đón chào bất cứ vị nào mặc Âu phục đặt chân đến Kinh thành Huế:

Là thương gia hay chỉ đơn giản là du khách, tất cả đều được đón tiếp theo cung cách hiếu khách đặc biệt kiểu người Pháp.
Những thương thuyền cập bến xứ Cochinchine, với tần suất không cao, thường là thuyền buôn Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha hay là chiến thuyền của người Anh. Chỉ mãi đến năm 1817, hai ông mới sung sướng được thấy cập bến những thuyền đầu tiên đến từ nước Pháp. Như thế, trong hơn một phần tư thế kỷ, đã không có một người Pháp nào đặt chân đến vùng đất này và hình như nước Pháp đã quên mất nó đi. Chỉ đến tháng 9.1817 mới có thương thuyền của công ty Balguerie, Sarget et Compagnie, đến từ cảng Bordeaux cập bến xứ Cochinchine.
Khi viết những dòng này, tôi sẽ không dám thử gợi ra lại những cảm xúc của hai ông Vannier và Chaigneau khi chứng kiến sự xuất hiện bất ngờ mà hai ông đã hết lòng ước ao mong đợi từ bấy lâu. Thương thuyền Pháp xuất hiện đã làm sống lại nơi hai người những kỷ niệm về quê hương và niềm hy vọng sẽ có ngày về thăm lại tổ quốc xinh đẹp, nơi hai ông vẫn còn người thân và bạn bè. Mỗi vật hai ông thấy trên thương thuyền lại gợi lên một kỷ niệm nào đó của một thời đã qua: hai ông luôn miệng hỏi thăm vị chỉ huy, các sĩ quan và thủy thủ trên con tàu về quê hương sinh thành. Hai vị quan đã tiếp đón hết sức nồng hậu tất cả những người đồng hương và giúp đỡ họ bán hết số hàng hóa chở theo.
Chuyến tàu thứ hai của một công ty khác tại Bordeaux, Công ty Phillipon, cập bến tiếp theo sau chuyến thứ nhất. Chuyến này cũng được đón tiếp như chuyến trước, nhận được sự bảo trợ của hai vị quan người Pháp. Đáng tiếc là hai chuyến hàng đều hoàn toàn không phù hợp với xứ này, làm những chuyến đi thử nghiệm đầu tiên như thế hoàn toàn thất bại.
close_xam.png

close_xam.png
admicro.vn
Xem thêm

tin liên quan

Kinh thành Huế đầu thế kỷ XIX: Diện kiến vua Minh Mạng
Cha tôi nôn nóng muốn gặp vua Minh Mạng. Sau khi báo tin xin được tiếp kiến, cha tôi đã đến điện Cần Chánh.
Vua Gia Long đón tiếp tàu buôn Pháp
Tuy vậy, vì có cảm tình và sự trân trọng với người Pháp nên vua Gia Long, qua trung gian của hai ông Vannier và Chaigneau, đã bày tỏ với những người chỉ huy và áp tải hàng hóa việc ngài lấy làm tiếc là những chuyến tàu buôn khởi đầu như thế đã không thành công, rồi ngài ra lệnh miễn mọi sắc thuế cho cả hai chuyến tàu. Ngài cũng từ chối ngay cả những món quà dâng tặng ngài, và chỉ nhận vài món cho triều đình với điều kiện là được trả tiền. Đức vua cũng bày tỏ với các vị chỉ huy đồng thời áp tải hàng của các chuyến tàu là ngài mong muốn họ trở lại với những hàng hóa phù hợp với nhu cầu bản xứ, ngài cũng chỉ rõ thêm những món hàng nào, và hứa sẽ luôn đối xử với họ như những thần dân đến từ một nước bạn.
Mười tám tháng sau, hai thương thuyền loại ba cột buồm tuyệt đẹp thả neo ở vịnh Tourane (Đà Nẵng), hai chiếc này có tên Larose và Henri, thuộc quyền các chủ tàu đã tổ chức các chuyến trước.
Và đây là những lời trình bày của một trong những nhà buôn trong báo cáo về những chuyến đi đầu tiên đến xứ Cochinchine. Sau khi cho biết những thiệt hại của hai công ty. Vị thương gia nói: “Tin tưởng vào những kết quả tiếp theo mà nước Pháp có thể gặt hái được từ những mối quan hệ như thế, tin tưởng vào sự đón tiếp của đức vua (An Nam) dành cho đại diện những chuyến tàu, qua sự trung gian của những quan người Pháp phục vụ tại triều đình bản xứ, những vị này đã ân cần săn đón với tình cảm thân hữu; được những vị này khuyến khích, các công ty lại cử đi tiếp người áp tải hàng trên một trong những con tàu đẹp nhất, chiếc Larose, trọng tải khoảng 700 tonneaux (đơn vị chuyên chở trên tàu thuyền trước đây của Pháp, một tonneaux tương ứng 1,44 m3) và ít ngày sau đó lại đến lượt chiếc Henri. Lời hứa sẽ vẫn đón tiếp trọng thị như những chuyến trước đó được thực thi hết sức nghiêm túc và chính xác. Hàng hóa đã được tiếp nhận và trang trải một cách sòng phẳng, ngay thẳng và thật chu đáo kỹ lưỡng. Hai con tàu này lúc quay về đã nhập đường, trà và tơ lụa thô, đồng thời cũng mang về tiền của xứ này. Như thế, dưới mọi góc độ, chuyến đi sau này là một thành công trọn vẹn...”.
Từ khi xuất hiện các thuyền buôn Pháp ở xứ Cochinchine, ông Chaigneau luôn nghĩ ngợi hướng về nước Pháp. Không cho triều đình hay biết về ý đồ đã chín muồi, ông lặng lẽ chuẩn bị để rời xứ này ngay khi xuất hiện thời cơ thuận lợi, nếu không trở về vĩnh viễn thì chí ít cũng trong một khoảng thời gian nào đó, để thăm viếng lại nước Pháp, gia đình và đích thân sẽ báo cáo cho chính phủ tất cả những thông tin mà công tước Richelieu, Bộ trưởng của vua Louis XVIII đã nêu yêu cầu liên quan đến xứ sở này.
[td]
Cả hai ông Vannier và Chaigneau, những người Pháp còn lại ở chốn Kinh thành Huế, đều có gốc gác ở vùng Bretagne, đã cùng chiến đấu dưới ngọn cờ của vua Gia Long, chia sẻ với nhau tình cảm anh em đồng hương do cùng xuất thân một vùng miền và cùng sinh tử trên đất người. Tình cảm ban đầu đó được bền chặt hơn nữa trong mối thâm tình giữa những người bạn thâm giao
[/td]​
Đọc báo TN nói chuyện sử vãi đạn thật 🤣🤣🤣
 
Logo

App StoreGoogle Play
ZaloYoutubeYoutube






Chứng nhận tín nhiệm mạng
Văn hóa

15/01/2017 08:00 GMT+7

Kinh thành Huế đầu thế kỷ XIX: Người Pháp tại Huế

Michel Đức Chaigneau

Michel Đức Chaigneau

Tư gia của hai ông quan Pháp Vannier và Chaigneau luôn rộng mở đón chào bất cứ vị nào mặc Âu phục đặt chân đến Kinh thành Huế:

Là thương gia hay chỉ đơn giản là du khách, tất cả đều được đón tiếp theo cung cách hiếu khách đặc biệt kiểu người Pháp.
Những thương thuyền cập bến xứ Cochinchine, với tần suất không cao, thường là thuyền buôn Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha hay là chiến thuyền của người Anh. Chỉ mãi đến năm 1817, hai ông mới sung sướng được thấy cập bến những thuyền đầu tiên đến từ nước Pháp. Như thế, trong hơn một phần tư thế kỷ, đã không có một người Pháp nào đặt chân đến vùng đất này và hình như nước Pháp đã quên mất nó đi. Chỉ đến tháng 9.1817 mới có thương thuyền của công ty Balguerie, Sarget et Compagnie, đến từ cảng Bordeaux cập bến xứ Cochinchine.
Khi viết những dòng này, tôi sẽ không dám thử gợi ra lại những cảm xúc của hai ông Vannier và Chaigneau khi chứng kiến sự xuất hiện bất ngờ mà hai ông đã hết lòng ước ao mong đợi từ bấy lâu. Thương thuyền Pháp xuất hiện đã làm sống lại nơi hai người những kỷ niệm về quê hương và niềm hy vọng sẽ có ngày về thăm lại tổ quốc xinh đẹp, nơi hai ông vẫn còn người thân và bạn bè. Mỗi vật hai ông thấy trên thương thuyền lại gợi lên một kỷ niệm nào đó của một thời đã qua: hai ông luôn miệng hỏi thăm vị chỉ huy, các sĩ quan và thủy thủ trên con tàu về quê hương sinh thành. Hai vị quan đã tiếp đón hết sức nồng hậu tất cả những người đồng hương và giúp đỡ họ bán hết số hàng hóa chở theo.
Chuyến tàu thứ hai của một công ty khác tại Bordeaux, Công ty Phillipon, cập bến tiếp theo sau chuyến thứ nhất. Chuyến này cũng được đón tiếp như chuyến trước, nhận được sự bảo trợ của hai vị quan người Pháp. Đáng tiếc là hai chuyến hàng đều hoàn toàn không phù hợp với xứ này, làm những chuyến đi thử nghiệm đầu tiên như thế hoàn toàn thất bại.
close_xam.png


close_xam.png




Xem thêm



tin liên quan

Kinh thành Huế đầu thế kỷ XIX: Diện kiến vua Minh Mạng
Cha tôi nôn nóng muốn gặp vua Minh Mạng. Sau khi báo tin xin được tiếp kiến, cha tôi đã đến điện Cần Chánh.
Vua Gia Long đón tiếp tàu buôn Pháp
Tuy vậy, vì có cảm tình và sự trân trọng với người Pháp nên vua Gia Long, qua trung gian của hai ông Vannier và Chaigneau, đã bày tỏ với những người chỉ huy và áp tải hàng hóa việc ngài lấy làm tiếc là những chuyến tàu buôn khởi đầu như thế đã không thành công, rồi ngài ra lệnh miễn mọi sắc thuế cho cả hai chuyến tàu. Ngài cũng từ chối ngay cả những món quà dâng tặng ngài, và chỉ nhận vài món cho triều đình với điều kiện là được trả tiền. Đức vua cũng bày tỏ với các vị chỉ huy đồng thời áp tải hàng của các chuyến tàu là ngài mong muốn họ trở lại với những hàng hóa phù hợp với nhu cầu bản xứ, ngài cũng chỉ rõ thêm những món hàng nào, và hứa sẽ luôn đối xử với họ như những thần dân đến từ một nước bạn.
Mười tám tháng sau, hai thương thuyền loại ba cột buồm tuyệt đẹp thả neo ở vịnh Tourane (Đà Nẵng), hai chiếc này có tên Larose và Henri, thuộc quyền các chủ tàu đã tổ chức các chuyến trước.
Và đây là những lời trình bày của một trong những nhà buôn trong báo cáo về những chuyến đi đầu tiên đến xứ Cochinchine. Sau khi cho biết những thiệt hại của hai công ty. Vị thương gia nói: “Tin tưởng vào những kết quả tiếp theo mà nước Pháp có thể gặt hái được từ những mối quan hệ như thế, tin tưởng vào sự đón tiếp của đức vua (An Nam) dành cho đại diện những chuyến tàu, qua sự trung gian của những quan người Pháp phục vụ tại triều đình bản xứ, những vị này đã ân cần săn đón với tình cảm thân hữu; được những vị này khuyến khích, các công ty lại cử đi tiếp người áp tải hàng trên một trong những con tàu đẹp nhất, chiếc Larose, trọng tải khoảng 700 tonneaux (đơn vị chuyên chở trên tàu thuyền trước đây của Pháp, một tonneaux tương ứng 1,44 m3) và ít ngày sau đó lại đến lượt chiếc Henri. Lời hứa sẽ vẫn đón tiếp trọng thị như những chuyến trước đó được thực thi hết sức nghiêm túc và chính xác. Hàng hóa đã được tiếp nhận và trang trải một cách sòng phẳng, ngay thẳng và thật chu đáo kỹ lưỡng. Hai con tàu này lúc quay về đã nhập đường, trà và tơ lụa thô, đồng thời cũng mang về tiền của xứ này. Như thế, dưới mọi góc độ, chuyến đi sau này là một thành công trọn vẹn...”.
Từ khi xuất hiện các thuyền buôn Pháp ở xứ Cochinchine, ông Chaigneau luôn nghĩ ngợi hướng về nước Pháp. Không cho triều đình hay biết về ý đồ đã chín muồi, ông lặng lẽ chuẩn bị để rời xứ này ngay khi xuất hiện thời cơ thuận lợi, nếu không trở về vĩnh viễn thì chí ít cũng trong một khoảng thời gian nào đó, để thăm viếng lại nước Pháp, gia đình và đích thân sẽ báo cáo cho chính phủ tất cả những thông tin mà công tước Richelieu, Bộ trưởng của vua Louis XVIII đã nêu yêu cầu liên quan đến xứ sở này.

[td]
Cả hai ông Vannier và Chaigneau, những người Pháp còn lại ở chốn Kinh thành Huế, đều có gốc gác ở vùng Bretagne, đã cùng chiến đấu dưới ngọn cờ của vua Gia Long, chia sẻ với nhau tình cảm anh em đồng hương do cùng xuất thân một vùng miền và cùng sinh tử trên đất người. Tình cảm ban đầu đó được bền chặt hơn nữa trong mối thâm tình giữa những người bạn thâm giao

[/td]​
Ủng hộ bác Ánh...ủng hộ Tô Long...
Hai bác hoàn cảnh rất giống nhau.
Phản Sản phục Hoà, thề giết xamer bình dân áo vải
 
Logo

App StoreGoogle Play
ZaloYoutubeYoutube






Chứng nhận tín nhiệm mạng
Văn hóa

15/01/2017 08:00 GMT+7

Kinh thành Huế đầu thế kỷ XIX: Người Pháp tại Huế

Michel Đức Chaigneau

Michel Đức Chaigneau

Tư gia của hai ông quan Pháp Vannier và Chaigneau luôn rộng mở đón chào bất cứ vị nào mặc Âu phục đặt chân đến Kinh thành Huế:

Là thương gia hay chỉ đơn giản là du khách, tất cả đều được đón tiếp theo cung cách hiếu khách đặc biệt kiểu người Pháp.
Những thương thuyền cập bến xứ Cochinchine, với tần suất không cao, thường là thuyền buôn Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha hay là chiến thuyền của người Anh. Chỉ mãi đến năm 1817, hai ông mới sung sướng được thấy cập bến những thuyền đầu tiên đến từ nước Pháp. Như thế, trong hơn một phần tư thế kỷ, đã không có một người Pháp nào đặt chân đến vùng đất này và hình như nước Pháp đã quên mất nó đi. Chỉ đến tháng 9.1817 mới có thương thuyền của công ty Balguerie, Sarget et Compagnie, đến từ cảng Bordeaux cập bến xứ Cochinchine.
Khi viết những dòng này, tôi sẽ không dám thử gợi ra lại những cảm xúc của hai ông Vannier và Chaigneau khi chứng kiến sự xuất hiện bất ngờ mà hai ông đã hết lòng ước ao mong đợi từ bấy lâu. Thương thuyền Pháp xuất hiện đã làm sống lại nơi hai người những kỷ niệm về quê hương và niềm hy vọng sẽ có ngày về thăm lại tổ quốc xinh đẹp, nơi hai ông vẫn còn người thân và bạn bè. Mỗi vật hai ông thấy trên thương thuyền lại gợi lên một kỷ niệm nào đó của một thời đã qua: hai ông luôn miệng hỏi thăm vị chỉ huy, các sĩ quan và thủy thủ trên con tàu về quê hương sinh thành. Hai vị quan đã tiếp đón hết sức nồng hậu tất cả những người đồng hương và giúp đỡ họ bán hết số hàng hóa chở theo.
Chuyến tàu thứ hai của một công ty khác tại Bordeaux, Công ty Phillipon, cập bến tiếp theo sau chuyến thứ nhất. Chuyến này cũng được đón tiếp như chuyến trước, nhận được sự bảo trợ của hai vị quan người Pháp. Đáng tiếc là hai chuyến hàng đều hoàn toàn không phù hợp với xứ này, làm những chuyến đi thử nghiệm đầu tiên như thế hoàn toàn thất bại.
close_xam.png


close_xam.png




Xem thêm



tin liên quan

Kinh thành Huế đầu thế kỷ XIX: Diện kiến vua Minh Mạng
Cha tôi nôn nóng muốn gặp vua Minh Mạng. Sau khi báo tin xin được tiếp kiến, cha tôi đã đến điện Cần Chánh.
Vua Gia Long đón tiếp tàu buôn Pháp
Tuy vậy, vì có cảm tình và sự trân trọng với người Pháp nên vua Gia Long, qua trung gian của hai ông Vannier và Chaigneau, đã bày tỏ với những người chỉ huy và áp tải hàng hóa việc ngài lấy làm tiếc là những chuyến tàu buôn khởi đầu như thế đã không thành công, rồi ngài ra lệnh miễn mọi sắc thuế cho cả hai chuyến tàu. Ngài cũng từ chối ngay cả những món quà dâng tặng ngài, và chỉ nhận vài món cho triều đình với điều kiện là được trả tiền. Đức vua cũng bày tỏ với các vị chỉ huy đồng thời áp tải hàng của các chuyến tàu là ngài mong muốn họ trở lại với những hàng hóa phù hợp với nhu cầu bản xứ, ngài cũng chỉ rõ thêm những món hàng nào, và hứa sẽ luôn đối xử với họ như những thần dân đến từ một nước bạn.
Mười tám tháng sau, hai thương thuyền loại ba cột buồm tuyệt đẹp thả neo ở vịnh Tourane (Đà Nẵng), hai chiếc này có tên Larose và Henri, thuộc quyền các chủ tàu đã tổ chức các chuyến trước.
Và đây là những lời trình bày của một trong những nhà buôn trong báo cáo về những chuyến đi đầu tiên đến xứ Cochinchine. Sau khi cho biết những thiệt hại của hai công ty. Vị thương gia nói: “Tin tưởng vào những kết quả tiếp theo mà nước Pháp có thể gặt hái được từ những mối quan hệ như thế, tin tưởng vào sự đón tiếp của đức vua (An Nam) dành cho đại diện những chuyến tàu, qua sự trung gian của những quan người Pháp phục vụ tại triều đình bản xứ, những vị này đã ân cần săn đón với tình cảm thân hữu; được những vị này khuyến khích, các công ty lại cử đi tiếp người áp tải hàng trên một trong những con tàu đẹp nhất, chiếc Larose, trọng tải khoảng 700 tonneaux (đơn vị chuyên chở trên tàu thuyền trước đây của Pháp, một tonneaux tương ứng 1,44 m3) và ít ngày sau đó lại đến lượt chiếc Henri. Lời hứa sẽ vẫn đón tiếp trọng thị như những chuyến trước đó được thực thi hết sức nghiêm túc và chính xác. Hàng hóa đã được tiếp nhận và trang trải một cách sòng phẳng, ngay thẳng và thật chu đáo kỹ lưỡng. Hai con tàu này lúc quay về đã nhập đường, trà và tơ lụa thô, đồng thời cũng mang về tiền của xứ này. Như thế, dưới mọi góc độ, chuyến đi sau này là một thành công trọn vẹn...”.
Từ khi xuất hiện các thuyền buôn Pháp ở xứ Cochinchine, ông Chaigneau luôn nghĩ ngợi hướng về nước Pháp. Không cho triều đình hay biết về ý đồ đã chín muồi, ông lặng lẽ chuẩn bị để rời xứ này ngay khi xuất hiện thời cơ thuận lợi, nếu không trở về vĩnh viễn thì chí ít cũng trong một khoảng thời gian nào đó, để thăm viếng lại nước Pháp, gia đình và đích thân sẽ báo cáo cho chính phủ tất cả những thông tin mà công tước Richelieu, Bộ trưởng của vua Louis XVIII đã nêu yêu cầu liên quan đến xứ sở này.

[td]
Cả hai ông Vannier và Chaigneau, những người Pháp còn lại ở chốn Kinh thành Huế, đều có gốc gác ở vùng Bretagne, đã cùng chiến đấu dưới ngọn cờ của vua Gia Long, chia sẻ với nhau tình cảm anh em đồng hương do cùng xuất thân một vùng miền và cùng sinh tử trên đất người. Tình cảm ban đầu đó được bền chặt hơn nữa trong mối thâm tình giữa những người bạn thâm giao

[/td]​
Ủng hộ bác Ánh...ủng hộ Tô Long...
Hai bác hoàn cảnh rất giống nhau.
Phản Sản phục Hoà, thề giết xamer bình dân áo vải
 
Đọc báo TN nói chuyện sử vãi đạn thật 🤣🤣🤣
Tao có cảm giác tụi tuyên giáo đang nhân vụ Nguyễn Ánh Lê Văn Duyệt mà đang dằn mặt dân Miền Nam và nhóm ủy viên trung ương đảng Bộ Chính trị Miền Nam
Chưa kể tụi nó dùng drama này để hút dư luận bớt bàn về đại hội đảng và các trò ma giáo của tụi nó sắp tới
Chưa kể kinh tế đang nát bét lạm phát tăng khủng khiếp
Tụi nó không muốn dân đen chú ý đến chuyện này nên dùng các nhân vật lịch sử Miền Nam ra làm bia để bắn
 

Có thể bạn quan tâm

Top