Ngày xưa, vào thời nhà Trần (khoảng thế kỷ 13-14), giặc Nguyên Mông ba lần sang xâm lược nước ta. Lần thứ ba (năm 1285), quân Trần do Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn chỉ huy đã đại phá quân Thoát Hoan ở trận Vạn Kiếp, rồi đuổi giặc chạy về hướng Bắc.
Trong lúc truy kích, quân ta đi đường xa, lương thực mang theo đã cạn. Binh lính đói lả, mệt mỏi. Một hôm, đoàn quân đi qua vùng đất Quảng Nam ngày nay, thấy dân làng đang nấu một loại cháo đặc làm từ bột gạo, sợi to, nấu với tôm, cá lóc, thịt heo… rất thơm ngon và no lâu.
Thấy quân lính đói, dân làng mang hết nồi cháo ấy ra mời. Quân Trần ăn xong lấy lại sức, tiếp tục truy kích giặc đến cùng, cuối cùng đánh tan quân Nguyên ở sông Như Nguyệt.
Sau chiến thắng, Trần Quốc Tuấn hỏi dân làng:
– Món ăn cứu đói quân ta hôm nay gọi là gì?
Người dân đáp:
– Dạ, chúng con gọi là “bánh canh” ạ.
– Vì sao gọi là “bánh canh”?
Người làng kể rằng: loại bột này họ làm từ gạo ngon, xay thành nước, rồi để lắng lấy hồ, hấp thành tấm bánh, cắt thành sợi. Vì sợi to, dày hơn bún, lại nấu trong nồi canh lớn nên gọi là bánh nấu trong canh → lâu ngày đọc trại thành bánh canh.
Nghe xong, Hưng Đạo Vương khen ngon và bảo:
– Nhờ có món bánh canh này mà quân ta no bụng, đánh tan giặc ngoại xâm. Từ nay, món ăn này sẽ còn lưu truyền mãi.
Kể từ đó, bánh canh trở thành món ăn phổ biến ở nhiều vùng miền Trung và lan vào Nam Bộ. Mỗi nơi lại biến tấu theo nguyên liệu địa phương: bánh canh Trảng Bàng (Tây Ninh) có sợi bột gạo + bột lọc, nước lèo huyết heo; bánh canh cá lóc Huế, bánh canh ghẹ Quảng Nam, bánh canh bột xắt Bình Định, bánh canh giò heo chả cá Trà Vinh…
Dù cách làm và topping khác nhau, nhưng người ta vẫn truyền tai nhau rằng: bánh canh có từ thời chống quân Nguyên Mông, nhờ dân làng cứu đói quân Trần mà lưu truyền đến ngày nay.