44. Chủ Nghĩa CS - Richard Pipes
Bìa mềm sách hiếm của NXB Giấy Vụn.
Có chữ ký của dịch giả PNT.
650k + ship./
Bìa mềm sách hiếm của NXB Giấy Vụn.
Có chữ ký của dịch giả PNT.
650k + ship./
1 triệu freeship./Quyền lực của không quyền lực là một luận văn chính trị lớn do nhà viết kịch, người bất đồng chính kiến, sau này trở thành tổng thống cuối cùng của Tiệp Khắc và tổng thống đầu tiên của Cộng hòa Séc, Václav Havel, viết vào tháng 10 năm 1978.
1 triệu 5 freeship./Tiểu thuyết Tầng đầu địa ngục của Aleksandr I. Solzhenitsyn diễn tả cuộc sống mất tự do trong tù ngục của những chính trị phạm Nga trên Liên bang Xô Viết. Chính tác giả từng sống trong những ngục tù này nên những gì ông viết lại đều rất trung thực, rất sống, làm rung động tâm hồn người đọc. Trong truyện, ông viết lại cuộc đời của rất nhiều tù nhân, mỗi tù nhân là một trường hợp đặc biệt, một cảnh ngộ riêng. Vì muốn diễn tả thật nhiều trường hợp bị tù đày nên trong The First Circle có quá nhiều nhân vật không liên lạc gì đến cốt truyện.
1 triệu freeship./Bài tiểu luận của Alexander Solzhenitsyn "Đừng Sống bằng dối trá” có lẽ là cái cuối cùng ông viết trên đất quê hương mình - trước khi Liên Xô sụp đổ - đã và lưu hành trong giới trí thức của Moscow tại thời điểm đó. Bài tiểu luận ghi ngày 12 Tháng Hai, cái ngày mà mật vụ đột nhập vào căn hộ để bắt ông. Ngày hôm sau, ông bị lưu đày sang Tây Đức.
Bản tuyên ngôn Không sống bằng dối trá được viết ngay trước khi ông bị trục xuất khỏi nước Liên Xô đã thể hiện tâm tư của ông, có đoạn viết Chúng ta đã bị phi nhân tính một cách tuyệt vọng tới mức chỉ vì một khẩu phần ăn khiêm tốn hàng ngày cũng sẵn lòng đánh đổi mọi nguyên tắc của mình, tâm hồn của mình, những nỗ lực của tiền nhân và cơ hội dành cho hậu thế - cốt sao sự tồn tại mong manh của mình không bị phá vỡ. Chúng ta chẳng còn lấy một chút vững vàng, một chút tự hào và một bầu nhiệt huyết. Chúng ta thậm chí còn chẳng sợ cái chết vì vũ khí hạt nhân, không sợ thế chiến thứ ba (còn có thể trú ẩn trong những kẽ hầm mà!), thế nhưng lại sợ những hành động can đảm của công dân! Bài viết này được các báo chí trên thế giới đăng lại hoặc nhắc đến, gồm The Washington Post, NewYork Times
650k + ship./Bàn về Khế ước xã hội (Du Contrat social) là tác phẩm quan trọng nhất của nhà tư tưởng khai sáng Jean Jacques Rousseau, có ảnh hưởng sâu rộng đến tiến trình cách mạng dân chủ tư sản Pháp thế kỷ XVIII (1789-1794); những tư tưởng của tác phẩm còn có ý nghĩa to lớn và sức ảnh hưởng cho đến tận ngày nay.
Ý đồ của tác giả là muốn tìm một số quy tắc cai trị chính đảng, vững chắc, biết đối đãi với con người như con người. Theo ông, nhà nước phải được tổ chức cai trị bằng một "Khế ước xã hội", trong đó mọi thành viên kết hợp với nhau thành một lực lượng chung, được điều khiển bằng một động cơ chung, một ý chung. “Khế ước xã hội” tất nhiên bao hàm điều ràng buộc với cá nhân, nhưng mỗi thành viên, trong khi khép mình vào tập thể, vận dụng sức mạnh của tập thể vẫn được tự do đầy đủ.
Tác giả bàn thấu triệt đến môi tương quan giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; đồng thời khẳng định cần phải phân lập, trong khi vẫn liên kết và tương tác để bảo đảm quyền tự do và bình đẳng của toàn dân.
650k + ship./Bàn về tinh thần pháp luật là một trong những tác phẩm vĩ đại trong lịch sử triết học chính trị và trong lịch sử luật học. Mục đích cuốn sách, như chính tác giả đã nêu, là: Trình bày những nguyên nhân quyết định nền pháp lý cho mỗi quốc gia; trình bày sự phù hợp cần thiết giữa luật lệ và chế độ cai trị của một nước; trình bày những quan hệ giữa các luật lệ với nhau. Ở tác phẩm này, Montesquieu không nghiên cứu luật pháp như một nhà luật học thuần tuý, mà nghiên cứu cái hồn, cái tinh thần của pháp luật.
Tác giả không chỉ bám vào mảng luật học khô khan mà còn diễn giải rất nhiều khía cạnh đi kèm trong mặt đời sống chính trị. Tác phẩm còn cung cấp cho chúng ta một lượng lớn kiến thức về đế chế Roman và nước Pháp hay các dân tộc Germain thời Trung Cổ, một số chương cực kỳ có giá trị như phần Hiến Pháp Nước Anh, hay phần bàn về ba chính thể Cộng Hòa, Quân Chủ, Chuyên Chế...Bất chấp những chỉ trích, đặc biệt là những ngăn cấm của Giáo hội thời bấy giờ, Bàn về tinh thần pháp luật của Montesquieu là một sự can đảm khi phản đối những lạm dụng, lên án mọi hình thức độc tài và đưa ra những kiến giải mới mẻ của thời đại, là nền tảng cho Cách mạng Pháp và sau này là mô hình nhà nước dân chủ Hoa Kỳ cũng như nhiều quốc gia khác.
1 triệu 2 freeship./"Những Bài Diễn Văn Nổi Tiếng Thế Giới" gồm 13 phần:
- I. Diễn văn ái quốc và tưởng niệm.
- II. Diễn văn chiến tranh và cách mạng.
- III. Tỏ lòng kính trọng và tán dương.
- IV. Thảo luận và tranh cãi.
- V. Xử án.
- VI. Bài diễn văn dưới giá treo cổ và tạm biệt.
- VII. Bài thuyết pháp.
- VIII. Diễn văn truyền cảm hứng.
- IX. Diễn thuyết và diễn văn mang tính giáo huấn.
- X. Diễn văn về trách nhiệm xã hội.
- XI. Diễn văn về phương tiện truyền thông đại chúng.
- XII. Diễn văn chính trị.
- XIII. Diễn văn trong lễ phát bằng.
650k + ship./Cuốn Một ngày trong Đời Ivan Đênixôvitch của Alêkxanđr Xôlgiênitxyn quả nhiên là tác phẩm làm kinh hoàng nhất xưa nay từng được xuất bản tại Liên Xô. Ngoài sự kiện là một kiệt tác văn chương, nó còn là một tài liệu cách mạng sẽ ảnh hưởng đến khí hậu đời sống bên trong Liên Xô. Nó là một câu truyện không thương xót và được kể một cách tàn nhẫn về những trại lao công cưỡng bách dưới thời Xtalin. Xôlgiênitxyn đã vạch trần cả một thế giới mới. Trong một phần tư thế kỷ, cái hệ thống trại tập truung to lớn được Xtalin tạo nên đã, trực tiếp hay gián tiếp, là một phần của đời sống hàng ngày của mọi người dân Xô-viết. Chẳng có một gia đình nào mà đã không có một người con, một người chồng, một người anh, hay thân nhân nào khác ở trong một trại, và sự thật về những gì Xôlgiênitxyn nói ra đã được biết đdến từ lâu, nhưng chẳng phải lúc nào cũng được tin, bên ngoài Liên Xô. Nhưng cuốn sách của Xôlgiênitxyn, bởi cái phẩm chất nghệ thuật tột đỉnh của nó, tạo ra một ấn tượng hãi hùng và ghê tởm tại ngoại quốc bởi ngay đến cả những nạn nhân xót hận nhất của các trại tập trung Xô-viết.
450k + ship./Nhà Thanh có chàng thanh niên ở Đông Sơn lên kinh thành ứng thí. Chàng trai bé nhỏ với hình hài kỳ dị chính là Lưu Dung, tuy mang tấm lưng gù, nhưng bên trong là một tấm lòng trong sáng và trí tuệ hơn người. Yêu nước, thương dân, thanh liêm lại có tài văn chương thơ phú nên dần dần Lưu Dung được thăng đến chức tể tướng. Trái ngược với ông là đại gian thần Hoà Thân luôn tìm cách vơ vét cho mình và lấy lòng Hoàng thượng. Cuộc đối đầu giữa Lưu Dung và Hoà Thân đã làm nảy sinh nhiều tình huống cười ra nước mắt…
Một người có dáng hình xấu xí bẩm sinh, lưng gù, lại là người tài cao, hết lòng vì dân vì nước. Một người thì tuấn tú, lanh lợi nhưng chỉ biết nịnh vua, thâu tóm quyền lực, vơ vét của cải về nhà mình, gây bao nhiêu tội ác, tai họa. Người thứ nhất là Lưu Dung, biệt hiệu Tể tướng Lưu Gù, người thứ hai là Hòa Thân.
1 triệu freeship./Đối thoại Socratic 1 tập hợp một số tác phẩm tiêu biểu của Plato, bao gồm Euthyphro, Socrates tự biện, Crito, Pheado. Ngoài ra, cuốn sách còn có những chú giải chi tiết và phần dẫn nhập của dịch giả Nguyễn Văn Khoa, tập trung vào những vấn đề lí luận trong Hi Lạp học nói chung và Socrates học nói riêng, như quan hệ phức tạp giữa Socrates và Plato, sự phát triển và suy vong của nền dân chủ Athens, nội dung và phong cách triết lí của Socrates. Mỗi dẫn nhập vào từng đối thoại nhằm nêu lên các vấn đề triết học đặc thù của nó, giúp cho việc tiếp cận các tác phẩm kinh điển này được dễ dàng hơn.
Quan tâm xin liên hệ số Zalo 083 969 6071./Trong công trình này, Lowie đã điểm lại một cách có phê phán những hạn chế không thể vượt khỏi của viễn tượng tiến hóa luận và truyền bá luận qua đại diện của nó là Lewie H. Morgan (1818-1881) trong việc lý giải diễn trình văn hóa của nhân loại. Theo ông, để vượt qua những hạn chế lý thuyết này, ta phải đưa kích thước thời gian như là chân trời lý giải vào công việc nghiên cứu và phải xét đối tượng ở phương diện chức năng của nó, tức là xét các mối tương liên của các tổ chức xã hội và những nhân tố quy định sự phát triển của chúng.
Từ viễn tượng chức năng luận, Lowie xử lý các vấn đề mà ông cho là then chốt trong việc hiểu các nền văn hóa nguyên thủy: hôn nhân, gia đình, tài sản, đẳng cấp xã hội, chính quyền, pháp luật và những hình thức khác nhau của các nhóm họ hàng, anh em, xã hội và chính trị. Kết quả là không gian văn hóa của xã hội nguyên thủy, qua sự phân tích của ông, hiện ra với ‘một tính chất khác hẳn với tính chất mà trường phái Morgan đã phổ biến rộng rãi’ (tr. 553); đó là một không gian đa dạng nhiều màu sắc với các đơn vị xã hội luôn vận động trong sự tương tác qua lại với nhau một cách đa chiều.
Sách cung cấp cho các nhà nghiên cứu một khung phân tích mẫu mực của lý thuyết chức năng, vốn là lý thuyết quan trọng nhưng không mấy được biết đến ở nước ta; đồng thời nó mang lại cho chúng ta, với tư cách là những bạn đọc, một cái nhìn rộng hơn và sâu sắc hơn về những chân trời văn hóa khác.
2 triệu freeship./Nguồn gốc các loài là tên rút gọn của cuốn sách Về nguồn gốc các loài qua con đường chọn lọc tự nhiên, hay sự bảo tồn những chủng ưu thế trong đấu tranh sinh tồn (của Charles Darwin, xuất bản năm 1859). Đây là một cuốn sách khoa học hiếm có khi bán hết 1250 bản in lần đầu trong vòng một ngày và trong một thời gian ngắn đã làm “rung chuyển” cả thế giới. Cuốn sách này là kết quả của những quan sát của Darwin trong chuyến đi gần 5 năm, từ 1831 đến 1836, trên con tàu biển Beagle vòng quanh thế giới, cùng với những suy tư và nghiên cứu của ông trong hai mươi năm sau đó, trong đó ông đặt vấn đề có tính quyết định về biến đổi luận hay sự tiến hóa. Sách của ông đã được xuất bản nhiều lần, sửa đổi, liên tục cập nhật cho đến khi ông mất.
1 triệu 5 freeship./Triết học của tự do ở đây không có nghĩa là nghiên cứu vấn đề về tự do như một trong các vấn đề của triết học, tự do ở đây không có nghĩa là khách thể. Triết học của tự do ở đây có nghĩa là triết học của những người tự do, là triết học xuất phát từ tự do, trái ngược với triết học của nô lệ, với triết học xuất phát từ tính tất yếu, tự do có nghĩa là trạng thái của chủ thể đang triết lí. Triết học của tự do là triết học tôn giáo, là triết học trực giác, là triết học của những người con đẻ, chứ không phải là triết học của lũ con nuôi. Kim chỉ nam của cuốn sách này xuất phát từ tự do ngay từ đầu, chứ không dẫn tới tự do ở cuối. Không nên rút tự do ra từ bất kì cái gì, tự do chỉ có thể hiện diện ngay từ đầu ở trong nó.
Cũng không nên rút ra sự thật về Chúa, nó mở ra trong ánh chớp, nó được đem lại toàn bộ trong Mặc khải. Niềm tin bất di bất dịch, không lay chuyển rằng, sự thật được đem lại trong trực giác thần bí, rằng không nên tiến lên, không nên vươn xa nếu không có điểm tựa là thành trì của Chúa, không có sự trợ giúp là hồng ân, khi bị bỏ rơi và cô độc, bị chia cắt với linh hồn thế gian, - niềm tin này quy định cách thức trình bày cuốn sách này. Cuốn sách này chủ ý sử dụng phương pháp xuất phát, chứ không phải phương pháp đi đến, xuất phát từ những gì đã được Mặc khải, đã nhìn thấy như ánh sáng, chứ không phải đi đến cái vẫn chưa được Mặc khải, chưa nhìn thấy và chìm đắm vào bóng tối
1 triệu 5 freeship./Bản đồ tâm hồn con người của Jung là cuốn sách giới thiệu những nét cơ bản, đặc sắc nhất về học thuyết của nhà tâm lý học phân tích nổi tiếng người Thụy Sĩ C.G. Jung.
Bản đồ tâm hồn con người của Jung là cuốn sách mang tính dẫn nhập vào những công trình trừu tượng của một trong những bộ óc vĩ đại nhất thế kỉ XX – C.G.Jung. Được viết bởi Murray Stein, một nhà tâm lí học có thâm niên nghiên cứu lí thuyết của Jung, cuốn sách được đánh giá là giải thích khá tốt các khái niệm, đưa ra một cái nhìn mang tính khái quát và đơn giản, thống nhất và toàn diện về tầm nhìn tư tưởng của Jung. Cuốn sách cũng được kì vọng sẽ cung cấp những kiến thức nền tảng để hiểu sâu hơn về thế giới bên trong tâm hồn con người.
2 triệu 5 freeship./"Nhiệt đới buồn" chiếm một vị trí đặc biệt trong toàn bộ sự nghiệp mênh mông của Claude Lévi-Strauss, một trong những nhà nhân học, dân tộc học, một nhà tư tưởng và nhà văn lớn nhất của thế giới trong nửa cuối thế kỷ 20. Nó được viết trong năm tháng, từ tháng 12.1954 đến 5.1955, như một thiên tùy bút kỳ lạ, được tuôn ra một mạch liền không dứt, và đến nay, sau nửa thế kỷ, dường như được khôi phục tính thời sự một cách kỳ diệu.
Thật khó xếp nó vào thể loại nào. Mở đầu bằng một câu gây sốc “Tôi ghét các chuyến viễn du và các nhà thám hiểm”, nhưng nó lại là một cuốn du ký, hết sức gợi tò mò, không thiếu cả những pha phiêu lưu mạo hiểm, đưa chúng ta đến với những nhóm người ở xa xôi nhất trên hành tinh, còn gần nhất với tình trạng nguyên thủy, sắp và chắc chắn sẽ biến mất - cách nay nửa thế kỷ, nghĩa là nay đã biến mất hoàn toàn - mà ông là người chứng kiến và được tiếp xúc cuối cùng…
Bằng một lối viết vừa phóng khoáng vừa chặt chẽ, đây lại là một công trình khảo sát nhân học, dân tộc học hết sức tỉ mỉ, khoa học, đến mức mẫu mực.
1 triệu 5 freeship./Quyển Nền đạo đức Tin lành và tinh thần chủ nghĩa tư bản (1904-1905) của Max Weber, một trong những ông tổ của ngành xã hội học, đã được dịch ra trên 20 thứ tiếng và cho đến nay có lẽ là quyển sách được đọc và thảo luận nhiều nhất trong ngành xã hội học. Tác phẩm này đã trở thành một tài liệu giáo khoa thông thể thiếu trong các phân khoa khoa học xã hội ở các đại học trên thế giới.
Cuốn sách “Nền đạo đức Tin lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản” của Max Weber giúp trả lời cho câu hỏi tại sao và làm thế nào chủ nghĩa tư bản đã xác lập không chỉ như một mô hình kinh tế mà còn là một “mô hình văn hóa ghi dấu ấn lên trên toàn bộ các lĩnh vực đời sống xã hội, tinh thần cũng như vật chất ở châu Âu cận đại và đương đại”. Dưới góc độ văn hóa học, cuốn sách của Max Weber cho thấy rõ mối quan hệ của văn hóa và phát triển: văn hóa như là một trong những động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội. Bài viết giới thiệu những quan niệm của Max Weber về văn hóa trong cuốn sách này.
Hồi nhỏ tao có cả một kho sách trong nhà vì ông nội và các ông của tao sưu tầm.Một ngày đẹp trời năm tao 19 tuổi bà già tao bán sạch sẽ cái kho sách để lấy chỗ cho chó nằm là tao đéo bao giờ đọc sách nữa.Mấy ông tao nói là có lận tiền trong sách cho tao mà tao chưa kịp đọc hết sách đã bị bán.Sách ở nhà tao cả đống tao cũng chẳng buồn đọc, đéo có tiền đọc sách cũng vô dụng
2 triệu 5 freeship./Chính thể đại diện (Representative government), Bàn về Tự do (On Liberty) và Chủ nghĩa công lợi (Utilitarianism) là ba tác phẩm được chọn lựa như các tác phẩm tiêu biểu của John Stuart Mill trong bộ sách Great Books Of The Western World (Encyclopedia Britanica, 1994). Cùng với tác phẩm Nền dân trị Mỹ của Alexis de Tocqueville (đã được NXB Tri thức ấn hành 2006), tác phẩm Chính thể đại diện của J.S. Mill được xem như những khảo cứu mang tính nền tảng đối với các thiết chế chính trị-xã hội ở các nước Anh và Mỹ thế kỷ XIX.
1 triệu 5 freeship./Bản dịch Sử ký Tư Mã Thiên của Nhượng Tống năm 1944 là bản dịch ra quốc ngữ có hệ thống đầu tiên tại Việt Nam.
Bản dịch này chẳng những được văn đàn đánh giá cao về khả năng chuyển ngữ điêu luyện mà còn có ảnh hưởng cực kỳ to lớn đối với hai bản dịch sau đó: Bản dịch của Nhữ Thành (Phan Ngọc) gần như tiếp nối văn phong của Nhượng Tống và bản dịch của nhóm Giản Chi – Nguyễn Hiến Lê cố gắng học theo phong cách của Nhượng Tống.
Phan Khôi, bút danh Chương Dân, là một học giả tên tuổi, một nhà thơ, nhà văn, thành viên nhóm Nhân Văn - Giai Phẩm, cháu ngoại của Tổng đốc Hà Nội Hoàng Diệu, đỗ Tú tài chữ Hán năm 19 tuổi nhưng lại mở đầu và cổ vũ cho phong trào Thơ mới
2 triệu 5 freeship./Với hoàn cảnh xã hội của miền Bắc trước năm 1975 và của cả nước trước năm 1986; với hoàn cảnh của cá nhân Phan Khôi về cuối đời bị quy kết tội phản động, bị khai trừ khỏi Hội Nhà văn, bị cấm công bố tác phẩm, thì các bản thảo có giá trị nhiều mặt này cũng phải chịu chung số phận không được công bố; đó là một thiệt thòi cho học giới nước nhà.
Chúng tôi trực tiếp nghiên cứu nội dung Di cảo, rất lấy làm ngạc nhiên, là tại sao các năm 1956, 1957, 1958 ông bị phê phán, bị lăng mạ, bị vu khống kịch liệt đến như vậy, bị quy kết tội phản động, bị cô lập về mọi mặt, nhưng Di cảo của ông lại không có bất cứ một bản thảo nào mang dấu ấn của sự phản ứng, của sự phản đối; trong khi ông lại dồn hết trí tuệ, sức lực để hoàn thành một bản khảo luận rất có giá trị về tiếng Việt trước ngày ông qua đời một năm?...
2 triệu 5 freeship./Cuốn sách Hiện tượng con người được xuất bản lần đầu năm 1955, sau khi ông đã mất. Tác phẩm đã gây tiếng vang lớn trong nhiều năm, và những âm hưởng mạnh mẽ của nó đến nay vẫn còn. Cuốn sách trình bày một quan điểm độc đáo về vũ trụ. Quan điểm này mở rộng thuyết tiến hóa đến lĩnh vực tinh thần và được coi là bước tiến quan trọng trong sự hòa giải giữa khoa học hiện đại và tôn giáo.
Nghiên cứu trong cuốn sách khởi đầu từ một nghịch lí con người, biểu lộ qua việc khoảng cách hình thái học giữa con người và khỉ giống người là không đáng kể, trong khi đó, con người lại khác những động vật ấy biết bao. Để giải thích nghịch lí này, tác giả lần theo quá trình tiến hóa trong Quá khứ, cho đến tận những cội nguồn của sự sống trên trái đất. Bằng cách nhìn ra những đường nét chủ đạo của quá trình đó (đôi khi bị che phủ bởi những vẻ bề ngoài đối nghịch), tác giả chỉ ra những điều kiện chung mà sự sống trong quá khứ phải thỏa mãn để có được diện mạo như ngày hôm nay. Rồi từ đó, tác giả rút ra quy luật về độ phức hợp và ý thức.
Cũng chính từ cách nhìn này, tác giả nhận ra sự cần thiết của việc đưa vào quá trình đó một biến số mới nhằm diễn giải hợp lẽ hiện tượng con người.