T tiếp
Để tránh lộ thông tin nên tác giả viết hơi mập mờ, t cũng copy nhiều comment của tác giả nên nhiều đoạn hơi lủng củng, AE đọc thì ráng kết nối thông tin nhé
.....
Liên danh tư vấn gọi là "JKT Association" gồm có 8 công ty trong đó 3 công ty trong nước (em xin phép được dấu tên) và 5 công ty Nhật Bản là các công ty: Japan Transportation Consultants,Inc. (JTC); Japan Railway Technical service. (JARTS); JR East Consultants Company. (JRC); The Japan Electrical Consulting Co.,Ltd. (JEC); Koken Architects,Inc. (KOKEN). Sở dĩ có sự liên danh này là trong luật lá thầu bè của VN quy định doanh nghiệp nước ngoài bắt buộc phải liên danh với các công ty trong nước. Thị phần sản lượng các công ty này được quy định bằng hình thức "man months", tức là 1 người làm việc 1 tháng gọi là 1 man months. Chẳng hạn công ty A chiếm thị phần 1 nghìn man months, công ty B chiếm 300 man months trong tổng thời gian (giá trị) hợp đồng.
Nhóm Việt Nam do 1 công ty cầm cái, nhóm Nhật do JTC cầm cái, công ty cầm cái tức là công ty có nhiều quyền hành nhất, chiếm nhiều man months nhất trong "Association". Để được cầm cái nó phục thuộc vào rất nhiều vấn đề loằng ngoằng đằng sau đó...
Người Nhật với tinh thần làm việc trách nhiệm cao, khoa học, cần mẫm chăm chỉ họ lập ra những kế hoạch chi tiết để các kỹ sư Việt Cùng phối hợp thực hiện dự án. Thời gian đầu dự án được điều hành bởi những con người Nhật, tinh thần Nhật rất quy củ chuyên nghiệp. Nhưng...
Cái sợi dây lợi ích nhóm, nó tạo ra quyền lực nó tạo ra cái kiểu cơ chế xin cho, xâm nhập ăn sâu vào dự án như những con sâu mọt đục khoét dần dần... cái mảng thị phần man moth kia tuy đã được phân định rõ ràng nhưng bắt đầu xuất hiện tranh nhau, chiếm đoạt man moth của nhau, con cá nào yếu hơn đành phải nhè miếng mồi nhường cho con cá lớn.
Bằng chiêu trò "không đáp ứng được công việc" nên cắt mam moth sớm, và kéo dài mam moth của người nhà mình sự tranh giành diễn ra khá khốc liệt. Tình trạng người làm được việc lại bị lấy lý do không đáp ứng được việc để cắt man moth, kẻ không làm gì chỉ chơi được kéo dài man moth vô tận (ăn man moth từ người khác). Tình trạng đến dự án chỉ mỗi nhiệm vụ cho nó có mặt còn không làm gì, chỉ chơi, chơi điện tử, ngủ và caffe nhưng cuối tháng lấy lương dự án đều đều diễn ra phổ biến. Ban đầu người Nhật với kỷ luật làm việc nghiêm khắc rất bực tức nhưng sau cũng phải đầu hàng bới nếu không "nghe lời" Việt Nam chính họ cũng bị cắt man moth, công việc cứ thế dồn sang cho 1 nhóm người gánh vác nhóm còn lại mỗi nhiệm vụ là ... chơi để đem mam moth về công ty chủ quản.
Sở dĩ có sự tranh dành mam moth đó bởi luật bất thành văn người lao động thực lĩnh chỉ nhận được 1/3 số tiền lương như trong hợp đồng, còn lại 2/3 quay về công ty quản lý hoặc quay về với bảo kê. Ví dụ vị trí A có mức lương là 2000 USD có nghĩa người lao động thực lĩnh khoảng 600 - 700 USD là max số còn lại (~1300USD) là công ty quản lý người đó ăn hoặc thành phần bảo kê đưa người đó vào ăn. Mức lương phổ biến của kỹ sư Việt vào khoảng 1.800 USD đến 2500 USD tùy từng vị trí và họ phải chịu ràng buộc bởi điều luật trên áp dụng.
Trong số những con người đã đem ra xét xử và đang chịu án tù kia có những người là bảo kê việc đưa người vào dự án như vậy và chúng đục khoét ăn từ đó mới là nhiều chứ con số nhận hối lộ 16 tỷ là quá ít ỏi.
Các chiến sỹ cảnh sát - Bộ CA họ làm việc rất miệt mài tỉ mẩn với khối lượng công việc vô cùng lớn trong thời gian ngắn. Họ thậm chí đã đưa ra 1 danh sách những kỹ sư không đúng chuyên môn, giả mạo CV, giả mạo bảng khai kinh nghiệm, giả mạo chuyên ngành đào tạo để đưa vào dự án. Họ thậm chí đã phải điều tra những người này từng học trường nào, chuyên ngành gì, ra trường năm nào, làm gì, ở đâu, kinh nghiệm ra sao... một khối lượng công việc khổng lồ đè nặng lên vai những người lính CAND thầm lặng.
Cần nói lại rằng thời gian này mới là giai đoạn thiết kế, giai đoạn chuẩn bị dự án, một lượng tiền lớn lần lượt được giải ngân vô tội vạ và ra đi, dẫu sản phẩm vẫn méo mó do cái đầu bài quái thai kia, nhưng dự án cứ thực hiện, cứ có nhân sự ngồi đó là đốt tiền, đồng nghĩa với nhóm nào đó có tiền.
Chính vì một bộ phận lớn từ kỹ sư, phiên dịch, đến văn phòng vào dự án chỉ có mỗi nhiệm vụ... ngồi chơi để nhận tiền và back tiền cho bảo kê, nên nhóm này chủ yếu được trưng dụng từ chợ người tạp nham, hoặc thành phần lởm khởm từ công ty chủ quản. Nhiều anh, chị sau khi ngồi dự án 1 thời gian về chém rất oách làm dự án Nhật bla bla nhưng thực sự công việc là "ăn trực ngồi chờ" lương, không kiến thức, không kỹ năng, không tư duy, không làm việc, không gì hết.
Mỗi khi có 1 tốp mới sang dự án, nhóm ma cũ lại nháo nhào hỏi làm quen, nếu họ nói "từ ban" (RPMU) có nghĩa là thuộc dòng được bảo kê, họ có thể dưới vai kỹ sư, cad operator hay interpreter thì đừng có ai mà động đến cho dù Nhật, ta, hay tây. Dù họ có làm 1 xíu xíu hay ngồi không làm gì cho qua ngày đoạn tháng.
Nhóm khác từ công ty thành viên trong liên danh, nhưng thuộc vào dòng công ty "cầm cái" như đã đề cập thì cũng vậy, hiển nhiên bộ phận lớn sang dự án, họ chỉ có ngồi, ngồi và ngồi ăn lương. Nhóm còn lại phải làm việc cày cuốc để gánh cho nhóm kia là thuộc dòng công ty không cầm cái hoặc các công ty Nhật. Do đó cạnh tranh để trở thành công ty cầm cái vô cùng khốc liệt ở tầm vĩ mô.
Dĩ nhiên cũng có những kỹ sư đến từ nhóm bảo kê hay nhóm cầm cái làm việc có trách nhiệm và có chất lượng nhưng thực sự là không nhiều, còn bộ phận lớn các thành phần từ 2 nhóm này là léng phéng.
Bên cạnh đó nhiều thầu phụ được đưa vào dự án, họ ký được những hợp đồng thực hiện các hạng mục vẽ vời ra để có, sản phẩm gần như vứt đi, hoặc có chất lượng rất thấp, hoặc thậm chí không hề làm gì mà do các kỹ sư Nhật + Việt ở dự án làm họ (thầu phụ) chỉ mỗi nhiệm vụ ký và ăn tiền. Những khoản tiền cho những HĐ dạng này cũng lớn khủng khiếp. Các công ty Nhật vai leder ban đầu họ quản lý rất chặt chẽ, bài bản, sát sao và nguyên tắc, nhưng với sự can thiệp hết sức thô bạo của quan chức Việt cuối cùng những chiến binh samurai cũng phải đầu hàng. Tiền của nhà nước (vay ODA) cứ thế bị đôt không thương tiếc.
Baichi (tên nhân vật đã được thay đổi) 1 kỹ sư mẫu mực trách nhiệm người Nhật, ông thuộc hế hệ người Nhật già, năm đó ông đã ngoài 80 tuổi. Sống tình cảm, trách nhiệm và làm việc miệt mài, nhưng nguyên tắc chặt chẽ. Ông là trưởng 1 team trong dự án, team của ông quản lý 1 số thầu phụ trong đó có thầu phụ đến từ nhóm cầm cái. Sản phẩm nộp lên cẩu thả, chất lượng thấp ông vẫn cần mẫm rà soát từng li từng tí 1, những nhận xét hướng dẫn của ông hết sức tỉ nẩm và chi tiết, nhưng thầu phụ vẫn không sửa, ông cần mẫn ghi chép lại từng nội dung, từng buổi họp, từng chi tiết yêu cầu mỗi lần họp với nhà thầu và lưu cẩn thận làm bằng chứng. Sau bao lần nhưng chất lượng vẫn cẩu thả vẫn thấp họ gây sức ép với ông rằng nếu ông không đồng ý nghiệm thu họ sẽ cho ông mất việc (sa thải) họ ngắt man moths của ông dưới tác động từ Ban.
Chuyện gì đến đã đến và một ngày đẹp trời ông nhận được quyết định Demobilization từ Ban, đồng nghĩa vói ông buộc phải dời dự án, rời VN tươi đẹp về Nhật. Ông có thể nói được tiếng Anh khá trôi chảy ông điện cho tôi và đòi đến tận cơ quan gặp tôi...
Một ngày mùa đông lạnh giá, một ông già Nhật lững thững đến tìm tôi, ông bê 1 bọc lớn được gói gém cẩn thận trong những lớp nylon, ông trao tận tay tôi và nói rằng trong đó là tất cả các chứng cứ, bằng chứng được ông ghi chép cẩn thận về quá trình ông nghiệm thu kiểm soát các lỗi của nhà thầu, ông cúi rạp người chào tôi lần cuối trước khi về lại Nhật.
Như em đã nói, dự án được phân chia thị phần bằng man moths và Demobilization hay mobilization là quyền ở các quan chức VN do đó họ dùng những cái này để gây sức ép lại người Nhật nó khác hoàn toàn với khi bạn làm cho Công ty của Nhật nhé!
Ông với tôi vẫn thường xuyên liên lạc qua email sau đó, và chính ông là người báo cho tôi biết sự vụ các quan chức Việt Nam nhận hối lộ đầu tiên khi mà các thông tin ở VN vẫn còn đang bưng bít.
Vì không phải là không làm được mà là tiền rất đắt, cực đắt thì sẽ làm được, cộng với việc giữ đất khu ga HN và đó là mục đích của quan chức đường sắt.
Nếu dự án vẫn tiếp tục để cho người Nhật làm thì vẫn làm được nhưng sau này các quan chức đi tù hết, Nhật rút hết phía Việt Nam mình chỉ đạo chỉnh sửa độ chế lung tung sản phẩm của họ nên mới thành ra vứt đi và đốt số tiền nghìn tỏi như chúng ta đã thấy.
Quay lại chuyện chém nát mặt, anh ấy là kỹ sư có năng lực, có vị trí nhất định, có mối quan hệ và anh ấy thuộc nhóm cầm cái nhưng cũng chỉ là con tốt trên bàn cờ để các quan chơi. Có thông tin cho rằng anh ấy nhận tiền của thầu phụ rồi nhưng nhiều biến cố dẫn đến chưa lo được, nên vụ chém nát mặt đã được ai đó thực thi như chúng ta đã thấy.
“Bộ GTVT muốn trả dự án đường sắt: Dễ làm, khó bỏ?
Theo chuyên gia, không thể có chuyện thích thì làm, không thích thì trả. Bộ GTVT phải có trách nhiệm xử lý những vấn đề liên quan đến dự án này.
Bộ GTVT vừa kiến nghị Chính phủ chuyển dự án đường sắt đô thị tuyến số 1 Hà Nội (Yên Viên-Ngọc Hồi) cho UBND TP Hà Nội làm chủ đầu tư.
Dự án này đã bị chậm tiến độ nhiều năm, chưa thể triển khai thi công nhưng đã đội vốn gấp 9 lần so với ban đầu, lại dính tai tiếng hối lộ.
Theo Bộ GTVT, dự án đường sắt Yên Viên-Ngọc Hồi giai đoạn 1 đang trong giai đoạn cập nhật hồ sơ thiết kế, hồ sơ mời thầu. Tuy nhiên, do khó khăn về nguồn vốn đối ứng để giải phóng mặt bằng khu tổ hợp Ngọc Hồi nên khó hoàn thành giai đoạn 1 vào năm 2024.
Trao đổi với Đất Việt, một số chuyên gia chia sẻ họ thấy "lạ", "khó hiểu" trước kiến nghị của Bộ GTVT bởi một dự án do Bộ GTVT làm chủ đầu tư bị chậm tiến độ đến hơn chục năm, bị đội vốn, mà giờ Bộ muốn trả là trả, đồng thời thẳng thắn gọi đây chính là hiện tượng "dễ làm, khó bỏ".
Khẳng định việc Bộ GTVT có trả được dự án hay không phải do Chính phủ quyết định, PGS.TS Nguyễn Đình Thám, nguyên Chủ nhiệm Bộ môn Công nghệ và Quản lý xây dựng, Khoa Xây dựng Dân dụng và Công nghiệp (Đại học Xây dựng Hà Nội)
cũng giải thích: dự án đường sắt Yên Viên-Ngọc Hồi mười mấy năm chưa triển khai được gì, mới xong giai đoạn tiền khả thi, chưa triển khai được giai đoạn khả thi cho nên chưa kết luận được để chuyển sang giai đoạn thực hiện.
"Điều này có thể coi dự án vẫn chưa hình thành, việc đội vốn lên bao nhiêu lần cũng không có ý nghĩa gì. Bây giờ chỉ có cách lập lại dự án từ đầu (dự án khả thi), và tổng mức đầu tư đương nhiên sẽ đội lên bởi sau mười mấy năm, mọi thứ biến động, đặc biệt là trượt giá", PGS.TS Nguyễn Đình Thám nói.
Việc xem xét trách nhiệm của Bộ GTVT khi để dự án chậm tiến độ, đội vốn... nhiều năm, theo vị chuyên gia, là khó bởi ai đã giao cho Bộ thực hiện, ai là người theo dõi, giám sát, đôn đốc Bộ?
"Hiện tượng phổ biến ở Việt Nam là dễ làm, khó bỏ, pháp lệnh chưa nghiêm thì phải xử lý. Một mặt phải tiến hành cải tổ lại chính sách, quy định của pháp luật, một mặt đối với riêng dự án này, lập lại dự án từ đầu xem ra là cách hợp lý nhất", PGS.TS Nguyễn Đình Thám cho biết.
Trong khi đó, GS.TS Đặng Đình Đào, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và Phát triển (Đại học Kinh tế Quốc dân) tỏ ra gay gắt, không thể có chuyện một dự án kéo dài hơn chục năm rồi giờ cảm thấy không thể triển khai được lại muốn giao cho người khác và cho rằng lý do không có vốn đối ứng để giải phóng mặt bằng mà Bộ GTVT đưa ra chưa thuyết phục.
Ông đề nghị Bộ GTVT phải giải quyết tất cả những vấn đề liên quan đến dự án đường sắt Yên Viên-Ngọc Hồi: phải làm cho rõ vì sao dự án chậm trễ kéo dài, vì sao đội vốn lên như vậy?
"Không thể thuần túy cho rằng không có vốn đối ứng, trượt giá... Khi làm bất kỳ dự án nào cũng phải có định mức kinh tế - kỹ thuật, không thể tùy tiện được", nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và Phát triển nhấn mạnh.
GS.TS Đặng Đình Đào chia sẻ quan điểm với PGS.TS Nguyễn Đình Thám rằng, câu chuyện trên không chỉ mình dự án Yên Viên-Ngọc Hồi vấp phải. Hiện tượng ôm đồm dự án rồi không làm được, thấy khó, bị dư luận lên án, đòi hỏi phải minh bạch hơn, quản lý chặt chẽ hơn nên muốn đá quả bóng sang cho người khác
.....
Để tránh lộ thông tin nên tác giả viết hơi mập mờ, t cũng copy nhiều comment của tác giả nên nhiều đoạn hơi lủng củng, AE đọc thì ráng kết nối thông tin nhé
.....
Liên danh tư vấn gọi là "JKT Association" gồm có 8 công ty trong đó 3 công ty trong nước (em xin phép được dấu tên) và 5 công ty Nhật Bản là các công ty: Japan Transportation Consultants,Inc. (JTC); Japan Railway Technical service. (JARTS); JR East Consultants Company. (JRC); The Japan Electrical Consulting Co.,Ltd. (JEC); Koken Architects,Inc. (KOKEN). Sở dĩ có sự liên danh này là trong luật lá thầu bè của VN quy định doanh nghiệp nước ngoài bắt buộc phải liên danh với các công ty trong nước. Thị phần sản lượng các công ty này được quy định bằng hình thức "man months", tức là 1 người làm việc 1 tháng gọi là 1 man months. Chẳng hạn công ty A chiếm thị phần 1 nghìn man months, công ty B chiếm 300 man months trong tổng thời gian (giá trị) hợp đồng.
Nhóm Việt Nam do 1 công ty cầm cái, nhóm Nhật do JTC cầm cái, công ty cầm cái tức là công ty có nhiều quyền hành nhất, chiếm nhiều man months nhất trong "Association". Để được cầm cái nó phục thuộc vào rất nhiều vấn đề loằng ngoằng đằng sau đó...
Người Nhật với tinh thần làm việc trách nhiệm cao, khoa học, cần mẫm chăm chỉ họ lập ra những kế hoạch chi tiết để các kỹ sư Việt Cùng phối hợp thực hiện dự án. Thời gian đầu dự án được điều hành bởi những con người Nhật, tinh thần Nhật rất quy củ chuyên nghiệp. Nhưng...
Cái sợi dây lợi ích nhóm, nó tạo ra quyền lực nó tạo ra cái kiểu cơ chế xin cho, xâm nhập ăn sâu vào dự án như những con sâu mọt đục khoét dần dần... cái mảng thị phần man moth kia tuy đã được phân định rõ ràng nhưng bắt đầu xuất hiện tranh nhau, chiếm đoạt man moth của nhau, con cá nào yếu hơn đành phải nhè miếng mồi nhường cho con cá lớn.
Bằng chiêu trò "không đáp ứng được công việc" nên cắt mam moth sớm, và kéo dài mam moth của người nhà mình sự tranh giành diễn ra khá khốc liệt. Tình trạng người làm được việc lại bị lấy lý do không đáp ứng được việc để cắt man moth, kẻ không làm gì chỉ chơi được kéo dài man moth vô tận (ăn man moth từ người khác). Tình trạng đến dự án chỉ mỗi nhiệm vụ cho nó có mặt còn không làm gì, chỉ chơi, chơi điện tử, ngủ và caffe nhưng cuối tháng lấy lương dự án đều đều diễn ra phổ biến. Ban đầu người Nhật với kỷ luật làm việc nghiêm khắc rất bực tức nhưng sau cũng phải đầu hàng bới nếu không "nghe lời" Việt Nam chính họ cũng bị cắt man moth, công việc cứ thế dồn sang cho 1 nhóm người gánh vác nhóm còn lại mỗi nhiệm vụ là ... chơi để đem mam moth về công ty chủ quản.
Sở dĩ có sự tranh dành mam moth đó bởi luật bất thành văn người lao động thực lĩnh chỉ nhận được 1/3 số tiền lương như trong hợp đồng, còn lại 2/3 quay về công ty quản lý hoặc quay về với bảo kê. Ví dụ vị trí A có mức lương là 2000 USD có nghĩa người lao động thực lĩnh khoảng 600 - 700 USD là max số còn lại (~1300USD) là công ty quản lý người đó ăn hoặc thành phần bảo kê đưa người đó vào ăn. Mức lương phổ biến của kỹ sư Việt vào khoảng 1.800 USD đến 2500 USD tùy từng vị trí và họ phải chịu ràng buộc bởi điều luật trên áp dụng.
Trong số những con người đã đem ra xét xử và đang chịu án tù kia có những người là bảo kê việc đưa người vào dự án như vậy và chúng đục khoét ăn từ đó mới là nhiều chứ con số nhận hối lộ 16 tỷ là quá ít ỏi.
Các chiến sỹ cảnh sát - Bộ CA họ làm việc rất miệt mài tỉ mẩn với khối lượng công việc vô cùng lớn trong thời gian ngắn. Họ thậm chí đã đưa ra 1 danh sách những kỹ sư không đúng chuyên môn, giả mạo CV, giả mạo bảng khai kinh nghiệm, giả mạo chuyên ngành đào tạo để đưa vào dự án. Họ thậm chí đã phải điều tra những người này từng học trường nào, chuyên ngành gì, ra trường năm nào, làm gì, ở đâu, kinh nghiệm ra sao... một khối lượng công việc khổng lồ đè nặng lên vai những người lính CAND thầm lặng.
Cần nói lại rằng thời gian này mới là giai đoạn thiết kế, giai đoạn chuẩn bị dự án, một lượng tiền lớn lần lượt được giải ngân vô tội vạ và ra đi, dẫu sản phẩm vẫn méo mó do cái đầu bài quái thai kia, nhưng dự án cứ thực hiện, cứ có nhân sự ngồi đó là đốt tiền, đồng nghĩa với nhóm nào đó có tiền.
Chính vì một bộ phận lớn từ kỹ sư, phiên dịch, đến văn phòng vào dự án chỉ có mỗi nhiệm vụ... ngồi chơi để nhận tiền và back tiền cho bảo kê, nên nhóm này chủ yếu được trưng dụng từ chợ người tạp nham, hoặc thành phần lởm khởm từ công ty chủ quản. Nhiều anh, chị sau khi ngồi dự án 1 thời gian về chém rất oách làm dự án Nhật bla bla nhưng thực sự công việc là "ăn trực ngồi chờ" lương, không kiến thức, không kỹ năng, không tư duy, không làm việc, không gì hết.
Mỗi khi có 1 tốp mới sang dự án, nhóm ma cũ lại nháo nhào hỏi làm quen, nếu họ nói "từ ban" (RPMU) có nghĩa là thuộc dòng được bảo kê, họ có thể dưới vai kỹ sư, cad operator hay interpreter thì đừng có ai mà động đến cho dù Nhật, ta, hay tây. Dù họ có làm 1 xíu xíu hay ngồi không làm gì cho qua ngày đoạn tháng.
Nhóm khác từ công ty thành viên trong liên danh, nhưng thuộc vào dòng công ty "cầm cái" như đã đề cập thì cũng vậy, hiển nhiên bộ phận lớn sang dự án, họ chỉ có ngồi, ngồi và ngồi ăn lương. Nhóm còn lại phải làm việc cày cuốc để gánh cho nhóm kia là thuộc dòng công ty không cầm cái hoặc các công ty Nhật. Do đó cạnh tranh để trở thành công ty cầm cái vô cùng khốc liệt ở tầm vĩ mô.
Dĩ nhiên cũng có những kỹ sư đến từ nhóm bảo kê hay nhóm cầm cái làm việc có trách nhiệm và có chất lượng nhưng thực sự là không nhiều, còn bộ phận lớn các thành phần từ 2 nhóm này là léng phéng.
Bên cạnh đó nhiều thầu phụ được đưa vào dự án, họ ký được những hợp đồng thực hiện các hạng mục vẽ vời ra để có, sản phẩm gần như vứt đi, hoặc có chất lượng rất thấp, hoặc thậm chí không hề làm gì mà do các kỹ sư Nhật + Việt ở dự án làm họ (thầu phụ) chỉ mỗi nhiệm vụ ký và ăn tiền. Những khoản tiền cho những HĐ dạng này cũng lớn khủng khiếp. Các công ty Nhật vai leder ban đầu họ quản lý rất chặt chẽ, bài bản, sát sao và nguyên tắc, nhưng với sự can thiệp hết sức thô bạo của quan chức Việt cuối cùng những chiến binh samurai cũng phải đầu hàng. Tiền của nhà nước (vay ODA) cứ thế bị đôt không thương tiếc.
Baichi (tên nhân vật đã được thay đổi) 1 kỹ sư mẫu mực trách nhiệm người Nhật, ông thuộc hế hệ người Nhật già, năm đó ông đã ngoài 80 tuổi. Sống tình cảm, trách nhiệm và làm việc miệt mài, nhưng nguyên tắc chặt chẽ. Ông là trưởng 1 team trong dự án, team của ông quản lý 1 số thầu phụ trong đó có thầu phụ đến từ nhóm cầm cái. Sản phẩm nộp lên cẩu thả, chất lượng thấp ông vẫn cần mẫm rà soát từng li từng tí 1, những nhận xét hướng dẫn của ông hết sức tỉ nẩm và chi tiết, nhưng thầu phụ vẫn không sửa, ông cần mẫn ghi chép lại từng nội dung, từng buổi họp, từng chi tiết yêu cầu mỗi lần họp với nhà thầu và lưu cẩn thận làm bằng chứng. Sau bao lần nhưng chất lượng vẫn cẩu thả vẫn thấp họ gây sức ép với ông rằng nếu ông không đồng ý nghiệm thu họ sẽ cho ông mất việc (sa thải) họ ngắt man moths của ông dưới tác động từ Ban.
Chuyện gì đến đã đến và một ngày đẹp trời ông nhận được quyết định Demobilization từ Ban, đồng nghĩa vói ông buộc phải dời dự án, rời VN tươi đẹp về Nhật. Ông có thể nói được tiếng Anh khá trôi chảy ông điện cho tôi và đòi đến tận cơ quan gặp tôi...
Một ngày mùa đông lạnh giá, một ông già Nhật lững thững đến tìm tôi, ông bê 1 bọc lớn được gói gém cẩn thận trong những lớp nylon, ông trao tận tay tôi và nói rằng trong đó là tất cả các chứng cứ, bằng chứng được ông ghi chép cẩn thận về quá trình ông nghiệm thu kiểm soát các lỗi của nhà thầu, ông cúi rạp người chào tôi lần cuối trước khi về lại Nhật.
Như em đã nói, dự án được phân chia thị phần bằng man moths và Demobilization hay mobilization là quyền ở các quan chức VN do đó họ dùng những cái này để gây sức ép lại người Nhật nó khác hoàn toàn với khi bạn làm cho Công ty của Nhật nhé!
Ông với tôi vẫn thường xuyên liên lạc qua email sau đó, và chính ông là người báo cho tôi biết sự vụ các quan chức Việt Nam nhận hối lộ đầu tiên khi mà các thông tin ở VN vẫn còn đang bưng bít.
Vì không phải là không làm được mà là tiền rất đắt, cực đắt thì sẽ làm được, cộng với việc giữ đất khu ga HN và đó là mục đích của quan chức đường sắt.
Nếu dự án vẫn tiếp tục để cho người Nhật làm thì vẫn làm được nhưng sau này các quan chức đi tù hết, Nhật rút hết phía Việt Nam mình chỉ đạo chỉnh sửa độ chế lung tung sản phẩm của họ nên mới thành ra vứt đi và đốt số tiền nghìn tỏi như chúng ta đã thấy.
Quay lại chuyện chém nát mặt, anh ấy là kỹ sư có năng lực, có vị trí nhất định, có mối quan hệ và anh ấy thuộc nhóm cầm cái nhưng cũng chỉ là con tốt trên bàn cờ để các quan chơi. Có thông tin cho rằng anh ấy nhận tiền của thầu phụ rồi nhưng nhiều biến cố dẫn đến chưa lo được, nên vụ chém nát mặt đã được ai đó thực thi như chúng ta đã thấy.
“Bộ GTVT muốn trả dự án đường sắt: Dễ làm, khó bỏ?
Theo chuyên gia, không thể có chuyện thích thì làm, không thích thì trả. Bộ GTVT phải có trách nhiệm xử lý những vấn đề liên quan đến dự án này.
Bộ GTVT vừa kiến nghị Chính phủ chuyển dự án đường sắt đô thị tuyến số 1 Hà Nội (Yên Viên-Ngọc Hồi) cho UBND TP Hà Nội làm chủ đầu tư.
Dự án này đã bị chậm tiến độ nhiều năm, chưa thể triển khai thi công nhưng đã đội vốn gấp 9 lần so với ban đầu, lại dính tai tiếng hối lộ.
Theo Bộ GTVT, dự án đường sắt Yên Viên-Ngọc Hồi giai đoạn 1 đang trong giai đoạn cập nhật hồ sơ thiết kế, hồ sơ mời thầu. Tuy nhiên, do khó khăn về nguồn vốn đối ứng để giải phóng mặt bằng khu tổ hợp Ngọc Hồi nên khó hoàn thành giai đoạn 1 vào năm 2024.
Trao đổi với Đất Việt, một số chuyên gia chia sẻ họ thấy "lạ", "khó hiểu" trước kiến nghị của Bộ GTVT bởi một dự án do Bộ GTVT làm chủ đầu tư bị chậm tiến độ đến hơn chục năm, bị đội vốn, mà giờ Bộ muốn trả là trả, đồng thời thẳng thắn gọi đây chính là hiện tượng "dễ làm, khó bỏ".
Khẳng định việc Bộ GTVT có trả được dự án hay không phải do Chính phủ quyết định, PGS.TS Nguyễn Đình Thám, nguyên Chủ nhiệm Bộ môn Công nghệ và Quản lý xây dựng, Khoa Xây dựng Dân dụng và Công nghiệp (Đại học Xây dựng Hà Nội)
cũng giải thích: dự án đường sắt Yên Viên-Ngọc Hồi mười mấy năm chưa triển khai được gì, mới xong giai đoạn tiền khả thi, chưa triển khai được giai đoạn khả thi cho nên chưa kết luận được để chuyển sang giai đoạn thực hiện.
"Điều này có thể coi dự án vẫn chưa hình thành, việc đội vốn lên bao nhiêu lần cũng không có ý nghĩa gì. Bây giờ chỉ có cách lập lại dự án từ đầu (dự án khả thi), và tổng mức đầu tư đương nhiên sẽ đội lên bởi sau mười mấy năm, mọi thứ biến động, đặc biệt là trượt giá", PGS.TS Nguyễn Đình Thám nói.
Việc xem xét trách nhiệm của Bộ GTVT khi để dự án chậm tiến độ, đội vốn... nhiều năm, theo vị chuyên gia, là khó bởi ai đã giao cho Bộ thực hiện, ai là người theo dõi, giám sát, đôn đốc Bộ?
"Hiện tượng phổ biến ở Việt Nam là dễ làm, khó bỏ, pháp lệnh chưa nghiêm thì phải xử lý. Một mặt phải tiến hành cải tổ lại chính sách, quy định của pháp luật, một mặt đối với riêng dự án này, lập lại dự án từ đầu xem ra là cách hợp lý nhất", PGS.TS Nguyễn Đình Thám cho biết.
Trong khi đó, GS.TS Đặng Đình Đào, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và Phát triển (Đại học Kinh tế Quốc dân) tỏ ra gay gắt, không thể có chuyện một dự án kéo dài hơn chục năm rồi giờ cảm thấy không thể triển khai được lại muốn giao cho người khác và cho rằng lý do không có vốn đối ứng để giải phóng mặt bằng mà Bộ GTVT đưa ra chưa thuyết phục.
Ông đề nghị Bộ GTVT phải giải quyết tất cả những vấn đề liên quan đến dự án đường sắt Yên Viên-Ngọc Hồi: phải làm cho rõ vì sao dự án chậm trễ kéo dài, vì sao đội vốn lên như vậy?
"Không thể thuần túy cho rằng không có vốn đối ứng, trượt giá... Khi làm bất kỳ dự án nào cũng phải có định mức kinh tế - kỹ thuật, không thể tùy tiện được", nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và Phát triển nhấn mạnh.
GS.TS Đặng Đình Đào chia sẻ quan điểm với PGS.TS Nguyễn Đình Thám rằng, câu chuyện trên không chỉ mình dự án Yên Viên-Ngọc Hồi vấp phải. Hiện tượng ôm đồm dự án rồi không làm được, thấy khó, bị dư luận lên án, đòi hỏi phải minh bạch hơn, quản lý chặt chẽ hơn nên muốn đá quả bóng sang cho người khác
.....