Cùng nhau gìn giữ tiếng nam kì

Kiloph

Già làng
Vatican-City
Lâu lâu lên face đọc bài hay thì tha về cho chúng mày cùng đọc.

Tiệm cơm trong văn hoá, Tiếng Nói Miền Nam

Ngày nay một số người Miền Nam đề bảng "Quán Cơm Sườn", "Quán Cơm Chay" , "Quán Hủ Tiếu" là sai. Người Miền Nam phải ghi "Tiệm Cơm Sườn", "Tiệm Cơm Chay", "Tiệm Hủ Tíu" mới trúng

Chữ tiệm là chữ của Miền Nam

Thường nghe nói là "Tới giờ tui đóng cửa tiệm nhen!". Rồi tiệm nước, tiệm ăn, tiệm may, tiệm sửa xe Honda

Người Miền Nam kêu những người không ăn cơm nhà nấu, hay ăn cơm dĩa ở lề đường là "ăn cơm tiệm". Thí dụ hỏi "Về Sài Gòn học mày ăn cơm ở đâu con?" thì trả lời :"Dạ! con ăn cơm tiệm thím bảy ơi!"

Từ trước 1975 tới những năm 1995 Sài Gòn có nhiều "tiệm hủ tíu", "tiệm phở", "tiệm nước", "tiệm chạp phô". Nhưng gần đây thì truyền thông cứ quán cafe, quán phở, quán hủ tíu , quán cơm sinh viên miết

Cái chữ "tiệm" chẳng biết từ đâu, nhưng không tìm ra nó có bà con với tiếng Quảng Đông

Thí dụ chữ 飯店 mà âm Quảng Đông đọc là fàn diàn là tiệm cơm. Chữ 粉店 đọc là fěn diàn (phảnh tim) là tiệm phở. Chữ 雜貨舖 đọc là zá huò pù là tiệm tạp hóa

Trong đó chữ diàn 店 (điếm) nghĩa là cái tiệm, cái quán, còn chữ 舖 (phô hoặc phố) cũng có nghĩa là cái tiệm. Từ chữ diàn 店 (điếm) đọc thành chữ tiệm cũng có thể không ta?

Những cái tiệm ở Miền Nam nổi tiếng xin kể ra:

- Tiệm chạp phô

Tiệm chạp phô hay tiệm tạp hóa là một cửa hàng nhỏ trong làng xóm của người Nam Kỳ có từ xưa lơ xưa lắc rồi

Đọc là "chạp phô" là theo âm của người Quảng Đông, chạp là đồ hằm bà lằng, đồ tạp nhạp, là tạp hóa, nghĩa là cửa hàng bán những thứ vặt vãnh, lẫn lộn, nhiều cái góp lại

Qủa thiệt, tiệm chạp phô bán đủ món, từ bánh, kẹo, đường, đậu, sữa, nước mắm, nước tương, nhang đèn, bóng đèn hột vịt,d ầu hôi, dầu phộng, dầu mè, kim chỉ ….tới băng vệ sinh, bao cao su. Người dân cần gì tiệm có bán cái đó. Số lượng mặt hàng đa chủng loại của nó nhiều gấp mấy trăm lần cái siêu thị

Những tiệm chạp phô trên đất Sài Gòn Gia Định đầu tiên là của người Quảng Đông

Ra đời và phát triển rầm rộ cũng cỡ những năm 1940 trở lại thôi,vì truyện Hồ Biểu Chánh không hề nhắc tới tiệm chạp phô

Hồi mới ra đời, mấy chú Tàu Quảng Đông mở tiệm chạp phô để bán các thứ thực phẩm khô như hột vịt, hột gà, tôm khô, cá khô, lạp xưởng, xì pỉn. Sau dần dà thêm vô đủ thứ món khác

Chạp phô bán tạp nhạp,hằm bà lằng món trong xóm,vì chứa quá nhiều nên tiệm chạp phô không bao giờ sạch sẽ, nhìn nó dơ dáy , ẩm thấp, nghe mùi hăng hắc, bụi bặm

Ngày nay chạp phô ít ai còn kêu, nó là tiệm tạp hóa, người Việt tham gia nhiều hơn

Ai dè có vài người Miền Nam mất gốc bắt chước đề tên tiệm tạp hoa mình là "bách hoá" coi bực ghê chưa!

-Tiệm may

Trước 1975 thợ may rất có giá. Vì nghề may sống khá lắm,có của dư dã

Mấy cô học trò học hành lươn ươn, thi rớt thì cha mẹ cho nghĩ học chữ xách đít đi học may, xong về mở tiệm, chừng sạch sạch ngộ ngộ là có trai tới cưới liền

Có bốn loại tiệm may, một là tiệm may áo dài, hai là may áo bà ba, đồ kiểu của nữ, ba là may quần tây áo sơ mi, bốn là may đồ lớn (veston)

Ông bà ta có câu:

“Thợ may ăn giẻ
Thợ vẽ ăn hồ
Thợ bồ ăn nan
Thợ hàn ăn thiếc”

Mấy cái tiệm may trong xóm trong làng rất đắt, lúc nào cũng có khách ,gần tết may ngày may đêm

Một cái tiệm may bày trí như vầy: Trước cửa là cái tủ kiếng lớn đựng đồ mẫu, hai bên hông là hai dãy máy may của mấy anh chị đi học nghề, giữa nhà là cái bàn cắt, trong nhà là bàn máy của bà chủ tiệm

Tiệm may lúc nào cũng đông khách, nhứt là mấy anh trai ấp đi vô dê mấy cô học may

“Tay cầm cây kéo cây kim
Vai mang đồ lụa đi tìm thợ may
Thợ may anh đây không kiếm
Nhất định rồi anh chỉ kiếm mình em”

Muốn học may phải tốn ít nhứt là 4 chỉ vàng và tiền mua cái bàn máy may.

Sau 1975 nghề may vẫn còn ăn ngon lành. Tới những năm 1995 thì thợ may chết ngắc vì đồ vựa, đồ may sẳn rẻ rề bán đầy đường đầy chợ,đầy siêu thị. Ngày nay muốn kiếm một tiệm may đặng may quần tây cũng hơi khó

-Tiệm cafe và tiệm nước

Tiệm cafe và tiệm nước đôi khi bán những món cũng giống nhau thôi. Có cafe đen, cafe sữa, pạc sỉu, trà ngon...Cái khác là tiệm nước có chủ là người Tàu phần nhiều

-Tiệm cơm

Tiệm cơm là tiệm bán cơm, món ăn ngày ngày của người Việt. Ban đầu là bán cơm bình dân kiểu gia đình, tức là thịt kho hột vịt,cá chiên, cá kho, canh này nọ cho công chức và thợ thuyền, dân lao động ở bến xe, bến cảng

Nhìn chung tới những năm 1945 Sài Gòn vẫn chưa xuất hiện trò ăn cơm dĩa ngoài lề đường. Trong nhà hàng Tàu,cơm chiên Dương Châu, cơm chiên Hải Nam vẫn bỏ trong dĩa hột xoài và người ta xài muỗng múc ra chén nhỏ ăn

Trong dân gian Nam Kỳ xưa thì cơm tấm nhuyễn nhuyễn là món ăn của người bình dân, lao động, vác banh, thợ hồ, bạn chèo ghe mướn

Thập niên 1950 thì xuất hiện cơm tấm dĩa sườn bì chả nổi tiếng sài Gòn,thí dụ kiểu cơm tấm Thuận Kiều

Cơm tấm xài dĩa là để bày ra trước nhứt,nó có cơm,có đồ chua,một miếng sườn nướng vàng ngon,một miếng chả thịt trộn bún Tàu với hột vịt,rồi bì heo xá xíu heo trộn đậu phộng,thêm miếng mỡ hành xanh tươi và một chén nước mắm màu cánh gián pha ớt đỏ

Nhưng cơm dĩa lề đường,cơm dĩa quán tiệm chỉ là ăn cho qua ngày tháng,ăn qua quýt cho nhanh, cho hết đói chứ nó không phải là văn hóa gia đình Việt Nam. Mỹ có tiệm bán đồ ăn nhanh thì Sài Gòn có quán cơm tấm,cơm bình dân

Cơm tiệm chỉ là cơm cho lữ khách dọc đường,cho kẻ xa nhà tha phương phải cầu thực,cho những em học sinh,sinh viên ăn nhanh còn vô học,cho dân văn phòng

-Tiệm hủ tíu

Nói về hủ tíu tới khuya chưa hết vì đây là món vô địch ở Miền Nam xưa.Hủ tíu là văn minh Nam Kỳ Lục Tỉnh của chúng ta

-Tiệm vàng

Người Nam Kỳ thích vàng lắm,thành ra tiệm vàng mở ra rất nhiều.Tiệm vàng bán đồ nữ trang.Người Nam Kỳ không gọi là đồ tế nhuyễn như Bắc Kỳ,kêu vàng là đồ nữ trang

Vàng Nam Kỳ chủ yếu có hai loại là vàng y tức vàng ròng 24 K (vàng mười) và vàng Tây 18 K

“Thông ngôn ký lục bạc chục không màng
Lấy chồng thợ bạc đeo vàng đỏ tay”

-Tiệm thuốc bắc

Thời xưa ,xa lắc xa lơ,cái thời mà người Nam Kỳ mình còn chưa có khái niệm ”Thuốc Tây” và "Nhà thương" thì bị bịnh toàn uống thuốc bắc,thuốc nam

Thuốc bắc là thuốc từ Tàu đưa qua.Thuốc nam là của Việt Nam ,tất nhiên toàn cây cỏ mà thôi. Các bạn trẻ có chạy ngang Lương Nhữ Học nghe mùi thuốc bắc hăng hắc muốn banh lổ mũi sẽ biết

“Cha con thầy thuốc về làng
Hồi hương ,phụ tử, thì chàng đối chi?
Con vua đi sứ cửa trời
Thiên môn, quân tử, đã tỏ lời chưa em?”

Thuốc bắc thường bán trong tiệm mà cái tên bắt đầu bằng chữ”đường”,ví như :Bạch Ngọc Đường,Nhơn Ngãi Đường

Thuốc bắc hồi xưa là cái nghề làm giàu không thua tiệm vàng.Nghề mua giạ bán phân bán ly ,bán lượng kiểu cân tiểu ly

Lúc này Tây y chưa rộng khắp,người dân Nam Kỳ bịnh là vô tiệm hốt thuốc về uống. Chủ tiệm thuốc bắc phần đông là người Tàu ,miệng xí xồ ,tay cân thuốc mà mình trần trùng trục

Người Nam Kỳ xưa ít kêu tiệm thuốc Tây mà kêu thẳng là “Pharmacie”,bịnh là đi phòng mạch đốc tờ docteur (bác sĩ),mua thuốc vô pharmacie .Cái chữ tiệm thuốc tây cũng thông dụng.Sau có nhà thuốc tây

-Tiệm nhảy

Người Miền Nam kêu vũ trường là tiệm nhảy .Vô nhảy nhót cho vui mà

Sài Gòn ban đêm có rạp chớp bóng và tiệm nhảy sáng đèn

Sài Gòn ban đêm thì không có xứ nào qua được.Sài Gòn đèn đỏ đèn xanh,Sài Gòn gió lộng từ sông Sài Gòn thổi vào và Sài Gòn của những phòng trà vũ trường

Sài Gòn by night ngọc ngà kiêu sa khiến lữ khách khó quên được vì những dạ vũ kéo dài thâu đêm suốt sáng

“Anh sinh ra làm lính chiến
Em trọn kiếp đến vũ trường
Những băn khoăn của lòng anh
Những chua cay của đời em
Chôn vùi vào trong câu hát
Lãng quên theo từng nhịp chân
Thôi thì vì chút tuổi xuân chóng tàn”

Vũ trường ,phòng trà Tự Do góc Tự Do-Thái Lập Thành (Đồng Khởi – Đông Du) giai đoạn 1971 có hai giọng ca thượng hạng Khánh Ly và Lệ Thu

Vậy mà đêm 16 tháng 9 năm 1971 vũ trường này bị VC đặt bom khiến ít nhứt có 4 người chết.

Từ fb Nguyễn Gia Việt.
Sưu tầm.
 
Từ tiệm này thì là bắt nguồn từ tiếng Tàu 店 âm Hán Việt là Điếm. Từ này khá đa nghĩa : Tiệm, xóm, điếm ,điệm, đám, đêm. Không chỉ Miền nam Việt Nam mà cả ở miền Bắc cũng dùng từ tiệm nghĩa là hàng quán này. Trước đây người Hoa ở VN khá nhiều và họ giỏi làm ăn buôn bán nên nắm gần như nắm toàn bộ nền kinh tế của đất nước.
 
Từ tiệm này thì là bắt nguồn từ tiếng Tàu 店 âm Hán Việt là Điếm. Từ này khá đa nghĩa : Tiệm, xóm, điếm ,điệm, đám, đêm. Không chỉ Miền nam Việt Nam mà cả ở miền Bắc cũng dùng từ tiệm nghĩa là hàng quán này. Trước đây người Hoa ở VN khá nhiều và họ giỏi làm ăn buôn bán nên nắm gần như nắm toàn bộ nền kinh tế của đất nước.
Hình như là âm Tiều, triều châu.
 
Đúng rồi, cơ mà tao cũng nake đây. T bán buôn chat với khách, thì ạ ạ ạ ạ bắt buộc rồi m. Không thì nói chuyện với khách nó trịnh thượng, và giống bề trên của khách, nếu không ạ ạ ạ ạ
Bề trên con mẹ gì ,vài cái cơ bản thêm chữ ơi ở đâu và rồi cuối câu. Ví dụ như bạn ơi món đó mình còn,mình bán giá xyz. Bạn ơi mình nhận được tiền rồi,mình ship hàng cho bạn rồi/rồi đó. Tao chat cả lớn cả nhỏ chưa bao giờ bị ai phàn nàn.
 
Bề trên con mẹ gì ,vài cái cơ bản thêm chữ ơi ở đâu và rồi cuối câu. Ví dụ như bạn ơi món đó mình còn,mình bán giá xyz. Bạn ơi mình nhận được tiền rồi,mình ship hàng cho bạn rồi/rồi đó. Tao chat cả lớn cả nhỏ chưa bao giờ bị ai phàn nàn.
Tùy mày thôi. Tùy sản phẩm và tệp khách mày bán buôn. T hướng đến sự chuyên nghiệp hơn 1 tí. Khách là anh là cha, không phải bạn như bắc kỳ hay kêu khách là bạn xưng mình.
 
Lâu lâu lên face đọc bài hay thì tha về cho chúng mày cùng đọc.

Tiệm cơm trong văn hoá, Tiếng Nói Miền Nam

Ngày nay một số người Miền Nam đề bảng "Quán Cơm Sườn", "Quán Cơm Chay" , "Quán Hủ Tiếu" là sai. Người Miền Nam phải ghi "Tiệm Cơm Sườn", "Tiệm Cơm Chay", "Tiệm Hủ Tíu" mới trúng

Chữ tiệm là chữ của Miền Nam

Thường nghe nói là "Tới giờ tui đóng cửa tiệm nhen!". Rồi tiệm nước, tiệm ăn, tiệm may, tiệm sửa xe Honda

Người Miền Nam kêu những người không ăn cơm nhà nấu, hay ăn cơm dĩa ở lề đường là "ăn cơm tiệm". Thí dụ hỏi "Về Sài Gòn học mày ăn cơm ở đâu con?" thì trả lời :"Dạ! con ăn cơm tiệm thím bảy ơi!"

Từ trước 1975 tới những năm 1995 Sài Gòn có nhiều "tiệm hủ tíu", "tiệm phở", "tiệm nước", "tiệm chạp phô". Nhưng gần đây thì truyền thông cứ quán cafe, quán phở, quán hủ tíu , quán cơm sinh viên miết

Cái chữ "tiệm" chẳng biết từ đâu, nhưng không tìm ra nó có bà con với tiếng Quảng Đông

Thí dụ chữ 飯店 mà âm Quảng Đông đọc là fàn diàn là tiệm cơm. Chữ 粉店 đọc là fěn diàn (phảnh tim) là tiệm phở. Chữ 雜貨舖 đọc là zá huò pù là tiệm tạp hóa

Trong đó chữ diàn 店 (điếm) nghĩa là cái tiệm, cái quán, còn chữ 舖 (phô hoặc phố) cũng có nghĩa là cái tiệm. Từ chữ diàn 店 (điếm) đọc thành chữ tiệm cũng có thể không ta?

Những cái tiệm ở Miền Nam nổi tiếng xin kể ra:

- Tiệm chạp phô

Tiệm chạp phô hay tiệm tạp hóa là một cửa hàng nhỏ trong làng xóm của người Nam Kỳ có từ xưa lơ xưa lắc rồi

Đọc là "chạp phô" là theo âm của người Quảng Đông, chạp là đồ hằm bà lằng, đồ tạp nhạp, là tạp hóa, nghĩa là cửa hàng bán những thứ vặt vãnh, lẫn lộn, nhiều cái góp lại

Qủa thiệt, tiệm chạp phô bán đủ món, từ bánh, kẹo, đường, đậu, sữa, nước mắm, nước tương, nhang đèn, bóng đèn hột vịt,d ầu hôi, dầu phộng, dầu mè, kim chỉ ….tới băng vệ sinh, bao cao su. Người dân cần gì tiệm có bán cái đó. Số lượng mặt hàng đa chủng loại của nó nhiều gấp mấy trăm lần cái siêu thị

Những tiệm chạp phô trên đất Sài Gòn Gia Định đầu tiên là của người Quảng Đông

Ra đời và phát triển rầm rộ cũng cỡ những năm 1940 trở lại thôi,vì truyện Hồ Biểu Chánh không hề nhắc tới tiệm chạp phô

Hồi mới ra đời, mấy chú Tàu Quảng Đông mở tiệm chạp phô để bán các thứ thực phẩm khô như hột vịt, hột gà, tôm khô, cá khô, lạp xưởng, xì pỉn. Sau dần dà thêm vô đủ thứ món khác

Chạp phô bán tạp nhạp,hằm bà lằng món trong xóm,vì chứa quá nhiều nên tiệm chạp phô không bao giờ sạch sẽ, nhìn nó dơ dáy , ẩm thấp, nghe mùi hăng hắc, bụi bặm

Ngày nay chạp phô ít ai còn kêu, nó là tiệm tạp hóa, người Việt tham gia nhiều hơn

Ai dè có vài người Miền Nam mất gốc bắt chước đề tên tiệm tạp hoa mình là "bách hoá" coi bực ghê chưa!

-Tiệm may

Trước 1975 thợ may rất có giá. Vì nghề may sống khá lắm,có của dư dã

Mấy cô học trò học hành lươn ươn, thi rớt thì cha mẹ cho nghĩ học chữ xách đít đi học may, xong về mở tiệm, chừng sạch sạch ngộ ngộ là có trai tới cưới liền

Có bốn loại tiệm may, một là tiệm may áo dài, hai là may áo bà ba, đồ kiểu của nữ, ba là may quần tây áo sơ mi, bốn là may đồ lớn (veston)

Ông bà ta có câu:

“Thợ may ăn giẻ
Thợ vẽ ăn hồ
Thợ bồ ăn nan
Thợ hàn ăn thiếc”

Mấy cái tiệm may trong xóm trong làng rất đắt, lúc nào cũng có khách ,gần tết may ngày may đêm

Một cái tiệm may bày trí như vầy: Trước cửa là cái tủ kiếng lớn đựng đồ mẫu, hai bên hông là hai dãy máy may của mấy anh chị đi học nghề, giữa nhà là cái bàn cắt, trong nhà là bàn máy của bà chủ tiệm

Tiệm may lúc nào cũng đông khách, nhứt là mấy anh trai ấp đi vô dê mấy cô học may

“Tay cầm cây kéo cây kim
Vai mang đồ lụa đi tìm thợ may
Thợ may anh đây không kiếm
Nhất định rồi anh chỉ kiếm mình em”

Muốn học may phải tốn ít nhứt là 4 chỉ vàng và tiền mua cái bàn máy may.

Sau 1975 nghề may vẫn còn ăn ngon lành. Tới những năm 1995 thì thợ may chết ngắc vì đồ vựa, đồ may sẳn rẻ rề bán đầy đường đầy chợ,đầy siêu thị. Ngày nay muốn kiếm một tiệm may đặng may quần tây cũng hơi khó

-Tiệm cafe và tiệm nước

Tiệm cafe và tiệm nước đôi khi bán những món cũng giống nhau thôi. Có cafe đen, cafe sữa, pạc sỉu, trà ngon...Cái khác là tiệm nước có chủ là người Tàu phần nhiều

-Tiệm cơm

Tiệm cơm là tiệm bán cơm, món ăn ngày ngày của người Việt. Ban đầu là bán cơm bình dân kiểu gia đình, tức là thịt kho hột vịt,cá chiên, cá kho, canh này nọ cho công chức và thợ thuyền, dân lao động ở bến xe, bến cảng

Nhìn chung tới những năm 1945 Sài Gòn vẫn chưa xuất hiện trò ăn cơm dĩa ngoài lề đường. Trong nhà hàng Tàu,cơm chiên Dương Châu, cơm chiên Hải Nam vẫn bỏ trong dĩa hột xoài và người ta xài muỗng múc ra chén nhỏ ăn

Trong dân gian Nam Kỳ xưa thì cơm tấm nhuyễn nhuyễn là món ăn của người bình dân, lao động, vác banh, thợ hồ, bạn chèo ghe mướn

Thập niên 1950 thì xuất hiện cơm tấm dĩa sườn bì chả nổi tiếng sài Gòn,thí dụ kiểu cơm tấm Thuận Kiều

Cơm tấm xài dĩa là để bày ra trước nhứt,nó có cơm,có đồ chua,một miếng sườn nướng vàng ngon,một miếng chả thịt trộn bún Tàu với hột vịt,rồi bì heo xá xíu heo trộn đậu phộng,thêm miếng mỡ hành xanh tươi và một chén nước mắm màu cánh gián pha ớt đỏ

Nhưng cơm dĩa lề đường,cơm dĩa quán tiệm chỉ là ăn cho qua ngày tháng,ăn qua quýt cho nhanh, cho hết đói chứ nó không phải là văn hóa gia đình Việt Nam. Mỹ có tiệm bán đồ ăn nhanh thì Sài Gòn có quán cơm tấm,cơm bình dân

Cơm tiệm chỉ là cơm cho lữ khách dọc đường,cho kẻ xa nhà tha phương phải cầu thực,cho những em học sinh,sinh viên ăn nhanh còn vô học,cho dân văn phòng

-Tiệm hủ tíu

Nói về hủ tíu tới khuya chưa hết vì đây là món vô địch ở Miền Nam xưa.Hủ tíu là văn minh Nam Kỳ Lục Tỉnh của chúng ta

-Tiệm vàng

Người Nam Kỳ thích vàng lắm,thành ra tiệm vàng mở ra rất nhiều.Tiệm vàng bán đồ nữ trang.Người Nam Kỳ không gọi là đồ tế nhuyễn như Bắc Kỳ,kêu vàng là đồ nữ trang

Vàng Nam Kỳ chủ yếu có hai loại là vàng y tức vàng ròng 24 K (vàng mười) và vàng Tây 18 K

“Thông ngôn ký lục bạc chục không màng
Lấy chồng thợ bạc đeo vàng đỏ tay”

-Tiệm thuốc bắc

Thời xưa ,xa lắc xa lơ,cái thời mà người Nam Kỳ mình còn chưa có khái niệm ”Thuốc Tây” và "Nhà thương" thì bị bịnh toàn uống thuốc bắc,thuốc nam

Thuốc bắc là thuốc từ Tàu đưa qua.Thuốc nam là của Việt Nam ,tất nhiên toàn cây cỏ mà thôi. Các bạn trẻ có chạy ngang Lương Nhữ Học nghe mùi thuốc bắc hăng hắc muốn banh lổ mũi sẽ biết

“Cha con thầy thuốc về làng
Hồi hương ,phụ tử, thì chàng đối chi?
Con vua đi sứ cửa trời
Thiên môn, quân tử, đã tỏ lời chưa em?”

Thuốc bắc thường bán trong tiệm mà cái tên bắt đầu bằng chữ”đường”,ví như :Bạch Ngọc Đường,Nhơn Ngãi Đường

Thuốc bắc hồi xưa là cái nghề làm giàu không thua tiệm vàng.Nghề mua giạ bán phân bán ly ,bán lượng kiểu cân tiểu ly

Lúc này Tây y chưa rộng khắp,người dân Nam Kỳ bịnh là vô tiệm hốt thuốc về uống. Chủ tiệm thuốc bắc phần đông là người Tàu ,miệng xí xồ ,tay cân thuốc mà mình trần trùng trục

Người Nam Kỳ xưa ít kêu tiệm thuốc Tây mà kêu thẳng là “Pharmacie”,bịnh là đi phòng mạch đốc tờ docteur (bác sĩ),mua thuốc vô pharmacie .Cái chữ tiệm thuốc tây cũng thông dụng.Sau có nhà thuốc tây

-Tiệm nhảy

Người Miền Nam kêu vũ trường là tiệm nhảy .Vô nhảy nhót cho vui mà

Sài Gòn ban đêm có rạp chớp bóng và tiệm nhảy sáng đèn

Sài Gòn ban đêm thì không có xứ nào qua được.Sài Gòn đèn đỏ đèn xanh,Sài Gòn gió lộng từ sông Sài Gòn thổi vào và Sài Gòn của những phòng trà vũ trường

Sài Gòn by night ngọc ngà kiêu sa khiến lữ khách khó quên được vì những dạ vũ kéo dài thâu đêm suốt sáng

“Anh sinh ra làm lính chiến
Em trọn kiếp đến vũ trường
Những băn khoăn của lòng anh
Những chua cay của đời em
Chôn vùi vào trong câu hát
Lãng quên theo từng nhịp chân
Thôi thì vì chút tuổi xuân chóng tàn”

Vũ trường ,phòng trà Tự Do góc Tự Do-Thái Lập Thành (Đồng Khởi – Đông Du) giai đoạn 1971 có hai giọng ca thượng hạng Khánh Ly và Lệ Thu

Vậy mà đêm 16 tháng 9 năm 1971 vũ trường này bị VC đặt bom khiến ít nhứt có 4 người chết.

Từ fb Nguyễn Gia Việt.
Sưu tầm.
xàm Lồn
 
Bắc kỳ xâm lược nam kỳ. Giờ xâm lược luôn văn hoá nam kỳ. Sau này đất nước chúng ta toàn là bắc kỳ. Lúc đó đất nước chỉ có 1 miền bắc kỳ mà thôi. Sẽ ko còn phân biệt vùng miền nữa. Bắc kỳ làm culi cho bắc kỳ :vozvn (20):
cộng hoà xhcn việt bắc kỳ
mồ côi - culi - ngạo nghễ
 

Có thể bạn quan tâm

Top