Tam Minh (3), Lục Thông (6) => Tam Minh nằm trong Lục Thông (3 <6)
Gọi là Minh (Vijjā) để nhấn mạnh về khía cạnh trí tuệ
Gọi là Thông (Abhiññā) để nhấn mạnh về yếu tố siêu nhiên, thần thông
Cái quan trọng nhất của cả 2 là Lậu Tận Minh và Lậu Tận Thông => tức là chỉ bậc A La Hán.
Theo tao được biết
Tam minh chỉ có thể là bậc vô thượng chánh đẳng giác mới đắc được tức là chỉ có Phật mới đắc được
Đây là mô tả quá trình đắc tam minh của Phật Thích Ca
Khi thái tử Siddhattha đã làm cho tâm ngài (citta) trở thành định tĩnh và thanh tịnh như vậy, là không còn cấu uế, thoát ly mọi lậu hoặc, nhu nhuyến, dễ sử dụng, kiên cố, bất động, (MN 36,26) ngài hướng tâm hồi tưởng các tiền kiếp (túc mạng trí).
“Ta nhớ lại nhiều kiếp quá khứ mà ta đã trải qua: một đời, hai đời, ba, bốn, năm, hai mươi, ba mươi, bốn mươi, một trăm, một ngàn, một vạn trong nhiều thành kiếp hoại kiếp của thế giới ... Ta biết: Ta đã ở nơi kia, tên họ như vậy, gia tộc như vậy, đẳng cấp như vậy, lối sống như vậy. Ta đã trải qua các sự rủi may của số phận như vậy và mệnh chung như vậy. Sau khi thân hoại, ta lại tái sanh nơi khác, với tên họ như vậy ... và rồi mệnh chung như vậy. Bằng cách này, ta nhớ lại các đời sống quá khứ với nhiều đặc điểm trong nhiều hoàn cảnh. Ta đạt được minh trí (vijjà) này trong canh đầu đêm”. (Khoảng 9 giờ tối đến nửa đêm) (MN 36.26)
Vào canh giữa, Sa-môn Siddhattha đạt được minh trí thứ hai: là luật nhân quả về nghiệp (karma) theo đó thiện nghiệp đưa đến tái sanh cõi thiện và ác nghiệp đưa đến tái sanh cõi ác:
“Với thiên nhãn thanh tịnh, siêu nhân, vượt tri kiến phàm tục, ta thấy cách chúng hữu tình sanh tử như thế nào. Ta thấy rõ cao sang hay hạ liệt, thông minh hay ngu đần, mỗi người đều được tái sanh cõi lành hay cõi dữ tùy theo hạnh nghiệp của mình và ta biết rõ: “Những kẻ nào đã tạo ác nghiệp về thân, khẩu, ý, sau khi thân hoại mạng chung sẽ tái sanh vào khổ cảnh, chúng sẽ vào đọa xứ, địa ngục. Song những kẻ nào tạo thiện nghiệp về thân, khẩu, ý sẽ được tái sanh cõi lành, sẽ lên thiên giới”. (MN 36.27)
Sau cùng, vào canh cuối, khi chân trời đã bắt đầu hiện rõ ở phương đông thành một làn ánh sáng trắng, Sa-môn Siddhattha đột nhập vào tri kiến thứ ba, đó là tri kiến về “Khổ” và “Tứ Thánh Đế”, tạo thành căn bản giáo lý của ngài:
“Ta hướng tâm đến Lậu Tận Trí, đoạn tận lậu hoặc(àsavà) và biết như thật: “Đây là Khổ (Dukkha), đây là Khổ tập, đây là Khổ diệt và đây là con đường đưa đến Khổ diệt” và khi ta nhận chân điều này, trí ta được giải thoát khỏi dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu. Rồi tri kiến khởi sanh trong ta: “Sanh đã đoạn tận trong ta. Ta đã hoàn thành đời Phạm hạnh, những gì cần làm đã được làm xong, ta không còn tái sanh nữa”. (MN 36.28)
Ngài liền cất tiếng reo vang bày tỏ niềm cực lạc:
“Giải thoát đạt vẹn toàn
Đây là đời cuối cùng,
Không còn tái sanh nữa”. (MN 36.21)
Túc mạng minh tức là biết toàn bộ tiền kiếp nhân quả của toàn bộ chúng sinh từ vô thủy
Thiên Nhãn Minh là thấy được tương lai vạn vật kết nối với túc mạng minh là thấu suốt nhân quả của bản thân và toàn bộ chúng sinh
Cuối cùng lậu tận minh là đoạn tuyệt tất cả mọi sinh diệt và tìm ra con đường thoát khỏi luân hồi sinh tử của chúng sinh
Tức là tứ diệu đế và bát chánh đạo
Còn lục thông là 6 thần thông của a la hán tức bậc giác ngộ thoát khỏi luân hồi
Trong đó 5 thông đầu người tu hành có thể đắc được còn lậu tận thông chỉ có bậc giác ngộ mới được.
Sự khác biệt giữa túc mạng thông và túc mạng minh
Túc mạng thông biết được tiền kiếp của mình và người khác nhưng chỉ hữu hạn
Hình như trong vòng 1000 kiếp
Còn túc mạng minh sẽ biết mọi tiền kiếp của chúng sinh từ đầu cho đến hiện tại không giới hạn
Thiên nhãn thông chỉ thấy tương lai hữu hạn còn thiên nhãn minh thấy đến vô hạn
Cho nên chỉ có phật mới là thiên nhân sư tức thầy của mọi chúng sinh từ trời đến người nhờ 2 minh này thấu suốt được nhân quả.
Còn lậu tận thông là thoát khỏi luân hồi sinh tử của bản thân còn lậu tận minh tìm thấy con đường thoát khỏi luân hồi sinh tử và có thể hướng dẫn cho toàn bộ chúng sinh thoát khỏi luân hồi sinh tử
Sự khác biệt là như vậy