Ở đây đứa nào rành về kiến thức Phật giáo có thể biết sự khác biệt giữa tam minh và lục thông nghĩa là gì không?

Tam minh: túc mạng minh, thiên nhãn minh, lậu tận minh
Lục thông: tha tâm thông, túc mạng thông, thần túc thông, thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông và lậu tận thông
Tam Minh (3), Lục Thông (6) => Tam Minh nằm trong Lục Thông (3 <6)

Gọi là Minh (Vijjā) để nhấn mạnh về khía cạnh trí tuệ
Gọi là Thông (Abhiññā) để nhấn mạnh về yếu tố siêu nhiên, thần thông

Cái quan trọng nhất của cả 2 là Lậu Tận Minh và Lậu Tận Thông => tức là chỉ bậc A La Hán.
 
Tam Minh là nhớ chuyện kiếp trước (Túc mạng minh), Thấy rõ sinh tử, nhân quả chúng sinh (Thiên nhãn minh). Diệt sạch tham, sân, si – giải thoát hoàn toàn (Lậu tận minh), Là trí tuệ đưa đến giải thoát, chỉ có bậc Thánh mới chứng được trọn vẹn.
Còn Lục Thông là Bay đi, biến hóa - (Thần túc), Nghe xa - (Thiên nhĩ), Thấy xa, thấy sinh tử - (Thiên nhãn), Biết ý nghĩ người khác - (Tha tâm), Nhớ kiếp trước - (Túc mạng), Diệt phiền não, giải thoát - (Lậu tận). Đây là thần thông cmnr, năm cái đầu thì ngoại đạo cũng có thể đạt, chỉ lậu tận mới đưa đến giải thoát.
Khác biệt ở đây thì Tam Minh là Trí tuệ giải thoát còn Lục Thông là Thần thông, năng lực đặc biệt
Nếu là người tu Phật trọng thì Tam Minh, không chạy theo trò huyền bí của Lục Thông.
bạn chồn lùi đã tiết lộ quá nhiều thiên cơ nhưng đau buồn tộc vượn người vô thần sẽ khó cảm hóa, súc tinh tộc ta thật may mắn khi có nhiều trí tài @Kod112 @veconlonton @AmieD @Trâu Lái Xe @Vua Chó @Kangaroo @votdien @.Mèo
 
@Thích Vét Máng
TdyIlUXg.jpeg
 
Tam minh: túc mạng minh, thiên nhãn minh, lậu tận minh
Lục thông: tha tâm thông, túc mạng thông, thần túc thông, thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông và lậu tận thông
Cái địt con mẹ 3 cái định nghĩa xạo Lồn này có tác dụng con củ cặc gì không. Rồi nó có tồn tại thật không. Có cái đâù buồi. Ngu dốt thật sự
 
Tam Minh (3), Lục Thông (6) => Tam Minh nằm trong Lục Thông (3 <6)

Gọi là Minh (Vijjā) để nhấn mạnh về khía cạnh trí tuệ
Gọi là Thông (Abhiññā) để nhấn mạnh về yếu tố siêu nhiên, thần thông

Cái quan trọng nhất của cả 2 là Lậu Tận Minh và Lậu Tận Thông => tức là chỉ bậc A La Hán.
Theo tao được biết
Tam minh chỉ có thể là bậc vô thượng chánh đẳng giác mới đắc được tức là chỉ có Phật mới đắc được
Đây là mô tả quá trình đắc tam minh của Phật Thích Ca
Khi thái tử Siddhattha đã làm cho tâm ngài (citta) trở thành định tĩnh và thanh tịnh như vậy, là không còn cấu uế, thoát ly mọi lậu hoặc, nhu nhuyến, dễ sử dụng, kiên cố, bất động, (MN 36,26) ngài hướng tâm hồi tưởng các tiền kiếp (túc mạng trí).

“Ta nhớ lại nhiều kiếp quá khứ mà ta đã trải qua: một đời, hai đời, ba, bốn, năm, hai mươi, ba mươi, bốn mươi, một trăm, một ngàn, một vạn trong nhiều thành kiếp hoại kiếp của thế giới ... Ta biết: Ta đã ở nơi kia, tên họ như vậy, gia tộc như vậy, đẳng cấp như vậy, lối sống như vậy. Ta đã trải qua các sự rủi may của số phận như vậy và mệnh chung như vậy. Sau khi thân hoại, ta lại tái sanh nơi khác, với tên họ như vậy ... và rồi mệnh chung như vậy. Bằng cách này, ta nhớ lại các đời sống quá khứ với nhiều đặc điểm trong nhiều hoàn cảnh. Ta đạt được minh trí (vijjà) này trong canh đầu đêm”. (Khoảng 9 giờ tối đến nửa đêm) (MN 36.26)

Vào canh giữa, Sa-môn Siddhattha đạt được minh trí thứ hai: là luật nhân quả về nghiệp (karma) theo đó thiện nghiệp đưa đến tái sanh cõi thiện và ác nghiệp đưa đến tái sanh cõi ác:

“Với thiên nhãn thanh tịnh, siêu nhân, vượt tri kiến phàm tục, ta thấy cách chúng hữu tình sanh tử như thế nào. Ta thấy rõ cao sang hay hạ liệt, thông minh hay ngu đần, mỗi người đều được tái sanh cõi lành hay cõi dữ tùy theo hạnh nghiệp của mình và ta biết rõ: “Những kẻ nào đã tạo ác nghiệp về thân, khẩu, ý, sau khi thân hoại mạng chung sẽ tái sanh vào khổ cảnh, chúng sẽ vào đọa xứ, địa ngục. Song những kẻ nào tạo thiện nghiệp về thân, khẩu, ý sẽ được tái sanh cõi lành, sẽ lên thiên giới”. (MN 36.27)

Sau cùng, vào canh cuối, khi chân trời đã bắt đầu hiện rõ ở phương đông thành một làn ánh sáng trắng, Sa-môn Siddhattha đột nhập vào tri kiến thứ ba, đó là tri kiến về “Khổ” và “Tứ Thánh Đế”, tạo thành căn bản giáo lý của ngài:

“Ta hướng tâm đến Lậu Tận Trí, đoạn tận lậu hoặc(àsavà) và biết như thật: “Đây là Khổ (Dukkha), đây là Khổ tập, đây là Khổ diệt và đây là con đường đưa đến Khổ diệt” và khi ta nhận chân điều này, trí ta được giải thoát khỏi dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu. Rồi tri kiến khởi sanh trong ta: “Sanh đã đoạn tận trong ta. Ta đã hoàn thành đời Phạm hạnh, những gì cần làm đã được làm xong, ta không còn tái sanh nữa”. (MN 36.28)

Ngài liền cất tiếng reo vang bày tỏ niềm cực lạc:

“Giải thoát đạt vẹn toàn
Đây là đời cuối cùng,
Không còn tái sanh nữa”. (MN 36.21)
Túc mạng minh tức là biết toàn bộ tiền kiếp nhân quả của toàn bộ chúng sinh từ vô thủy
Thiên Nhãn Minh là thấy được tương lai vạn vật kết nối với túc mạng minh là thấu suốt nhân quả của bản thân và toàn bộ chúng sinh
Cuối cùng lậu tận minh là đoạn tuyệt tất cả mọi sinh diệt và tìm ra con đường thoát khỏi luân hồi sinh tử của chúng sinh
Tức là tứ diệu đế và bát chánh đạo
Còn lục thông là 6 thần thông của a la hán tức bậc giác ngộ thoát khỏi luân hồi
Trong đó 5 thông đầu người tu hành có thể đắc được còn lậu tận thông chỉ có bậc giác ngộ mới được.
Sự khác biệt giữa túc mạng thông và túc mạng minh
Túc mạng thông biết được tiền kiếp của mình và người khác nhưng chỉ hữu hạn
Hình như trong vòng 1000 kiếp
Còn túc mạng minh sẽ biết mọi tiền kiếp của chúng sinh từ đầu cho đến hiện tại không giới hạn
Thiên nhãn thông chỉ thấy tương lai hữu hạn còn thiên nhãn minh thấy đến vô hạn
Cho nên chỉ có phật mới là thiên nhân sư tức thầy của mọi chúng sinh từ trời đến người nhờ 2 minh này thấu suốt được nhân quả.
Còn lậu tận thông là thoát khỏi luân hồi sinh tử của bản thân còn lậu tận minh tìm thấy con đường thoát khỏi luân hồi sinh tử và có thể hướng dẫn cho toàn bộ chúng sinh thoát khỏi luân hồi sinh tử
Sự khác biệt là như vậy
 
Theo tao được biết
Tam minh chỉ có thể là bậc vô thượng chánh đẳng giác mới đắc được tức là chỉ có Phật mới đắc được
Đây là mô tả quá trình đắc tam minh của Phật Thích Ca
Khi thái tử Siddhattha đã làm cho tâm ngài (citta) trở thành định tĩnh và thanh tịnh như vậy, là không còn cấu uế, thoát ly mọi lậu hoặc, nhu nhuyến, dễ sử dụng, kiên cố, bất động, (MN 36,26) ngài hướng tâm hồi tưởng các tiền kiếp (túc mạng trí).

“Ta nhớ lại nhiều kiếp quá khứ mà ta đã trải qua: một đời, hai đời, ba, bốn, năm, hai mươi, ba mươi, bốn mươi, một trăm, một ngàn, một vạn trong nhiều thành kiếp hoại kiếp của thế giới ... Ta biết: Ta đã ở nơi kia, tên họ như vậy, gia tộc như vậy, đẳng cấp như vậy, lối sống như vậy. Ta đã trải qua các sự rủi may của số phận như vậy và mệnh chung như vậy. Sau khi thân hoại, ta lại tái sanh nơi khác, với tên họ như vậy ... và rồi mệnh chung như vậy. Bằng cách này, ta nhớ lại các đời sống quá khứ với nhiều đặc điểm trong nhiều hoàn cảnh. Ta đạt được minh trí (vijjà) này trong canh đầu đêm”. (Khoảng 9 giờ tối đến nửa đêm) (MN 36.26)

Vào canh giữa, Sa-môn Siddhattha đạt được minh trí thứ hai: là luật nhân quả về nghiệp (karma) theo đó thiện nghiệp đưa đến tái sanh cõi thiện và ác nghiệp đưa đến tái sanh cõi ác:

“Với thiên nhãn thanh tịnh, siêu nhân, vượt tri kiến phàm tục, ta thấy cách chúng hữu tình sanh tử như thế nào. Ta thấy rõ cao sang hay hạ liệt, thông minh hay ngu đần, mỗi người đều được tái sanh cõi lành hay cõi dữ tùy theo hạnh nghiệp của mình và ta biết rõ: “Những kẻ nào đã tạo ác nghiệp về thân, khẩu, ý, sau khi thân hoại mạng chung sẽ tái sanh vào khổ cảnh, chúng sẽ vào đọa xứ, địa ngục. Song những kẻ nào tạo thiện nghiệp về thân, khẩu, ý sẽ được tái sanh cõi lành, sẽ lên thiên giới”. (MN 36.27)

Sau cùng, vào canh cuối, khi chân trời đã bắt đầu hiện rõ ở phương đông thành một làn ánh sáng trắng, Sa-môn Siddhattha đột nhập vào tri kiến thứ ba, đó là tri kiến về “Khổ” và “Tứ Thánh Đế”, tạo thành căn bản giáo lý của ngài:

“Ta hướng tâm đến Lậu Tận Trí, đoạn tận lậu hoặc(àsavà) và biết như thật: “Đây là Khổ (Dukkha), đây là Khổ tập, đây là Khổ diệt và đây là con đường đưa đến Khổ diệt” và khi ta nhận chân điều này, trí ta được giải thoát khỏi dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu. Rồi tri kiến khởi sanh trong ta: “Sanh đã đoạn tận trong ta. Ta đã hoàn thành đời Phạm hạnh, những gì cần làm đã được làm xong, ta không còn tái sanh nữa”. (MN 36.28)

Ngài liền cất tiếng reo vang bày tỏ niềm cực lạc:

“Giải thoát đạt vẹn toàn
Đây là đời cuối cùng,
Không còn tái sanh nữa”. (MN 36.21)
Túc mạng minh tức là biết toàn bộ tiền kiếp nhân quả của toàn bộ chúng sinh từ vô thủy
Thiên Nhãn Minh là thấy được tương lai vạn vật kết nối với túc mạng minh là thấu suốt nhân quả của bản thân và toàn bộ chúng sinh
Cuối cùng lậu tận minh là đoạn tuyệt tất cả mọi sinh diệt và tìm ra con đường thoát khỏi luân hồi sinh tử của chúng sinh
Tức là tứ diệu đế và bát chánh đạo
Còn lục thông là 6 thần thông của a la hán tức bậc giác ngộ thoát khỏi luân hồi
Trong đó 5 thông đầu người tu hành có thể đắc được còn lậu tận thông chỉ có bậc giác ngộ mới được.
Sự khác biệt giữa túc mạng thông và túc mạng minh
Túc mạng thông biết được tiền kiếp của mình và người khác nhưng chỉ hữu hạn
Hình như trong vòng 1000 kiếp
Còn túc mạng minh sẽ biết mọi tiền kiếp của chúng sinh từ đầu cho đến hiện tại không giới hạn
Thiên nhãn thông chỉ thấy tương lai hữu hạn còn thiên nhãn minh thấy đến vô hạn
Cho nên chỉ có phật mới là thiên nhân sư tức thầy của mọi chúng sinh từ trời đến người nhờ 2 minh này thấu suốt được nhân quả.
Còn lậu tận thông là thoát khỏi luân hồi sinh tử của bản thân còn lậu tận minh tìm thấy con đường thoát khỏi luân hồi sinh tử và có thể hướng dẫn cho toàn bộ chúng sinh thoát khỏi luân hồi sinh tử
Sự khác biệt là như vậy
Tam Minh hay Lục Thông thì Phật hay A La Hán đều có thể đạt được.
Và bản thân Phật cũng là một vị A La Hán.
Gọi là A La Hán Tam Minh cũng được, A La Hán Lục Thông cũng được. Vậy nên Phật( Buddhā) hay Thánh đệ tử (Ariyasāvakā) đều có Lục Thông và Tam Minh.

"Tam minh chỉ có thể là bậc vô thượng chánh đẳng giác mới đắc được tức là chỉ có Phật mới đắc được"

Để tao phân tích theo từ ngữ có trích dẫn Pali cho dễ hiểu.

Bây giờ sẽ giải nghĩa ngắn:

- Phật (Buddha) - hay còn gọi là người đã giác ngộ. Khía cạnh này thì Phật và Thánh đệ tử đều có.
- A la hán (Arahant) - gọi là bậc đã đoạn tận lậu hoặc, không còn phiền não. Khía cạnh này thì Phật và Thánh đệ tử đều có.

Điểm khác nhau của Phật và Thánh đệ tử :
- Phật gọi là Sammāsambuddha (Toàn giác Phật)
=> Vị Phật tự mình giác ngộ

Còn đệ tử gọi là Sāvaka-Buddha (Phật Thinh Văn). (sāvaka = đệ tử, thính giả; Buddha = giác ngộ).
=> Vị Phật do nghe pháp mà giác ngộ

Và cái mà Phật toàn giác có mà Phật thinh văn không có là 6 biệt trí (tao tạm quên chữ pali này rồi):

1. Indriyaparopariyattañāṇa: Trí biết được khả năng của người khác về các quyền (indriya: tín, tấn, niệm, định, tuệ). Đây là khả năng biết người khác mạnh yếu ra sao trong việc tu tập.
2. Āsayānusayañāṇa: Trí biết thiên hướng (āsaya) và xu hướng tiềm ẩn (anusaya) trong tâm người khác.
3. Yamakapāṭihīrañāṇa: Trí song thông: thần thông kỳ diệu theo cặp (ví dụ phóng ra lửa và nước cùng lúc).
4. Mahākaruṇāsamāpattiñāṇa: Trí thể nhập vào Đại Bi (mahākaruṇā): chư Phật nhập đại định trong tâm đại bi vì chúng sinh.
5. Sabbaññutañāṇa: Trí Toàn Giác, biết tất cả pháp cần biết (omniscient knowledge).
6. Anāvaraṇañāṇa: Trí không bị ngăn che, không có chướng ngại.


Nếu muốn nghiên cứu sâu hơn về chủ đề này thì đọc ở bộ này:

 
Tam Minh hay Lục Thông thì Phật hay A La Hán đều có thể đạt được.
Và bản thân Phật cũng là một vị A La Hán.
Gọi là A La Hán Tam Minh cũng được, A La Hán Lục Thông cũng được. Vậy nên Phật( Buddhā) hay Thánh đệ tử (Ariyasāvakā) đều có Lục Thông và Tam Minh.

"Tam minh chỉ có thể là bậc vô thượng chánh đẳng giác mới đắc được tức là chỉ có Phật mới đắc được"

Để tao phân tích theo từ ngữ có trích dẫn Pali cho dễ hiểu.

Bây giờ sẽ giải nghĩa ngắn:

- Phật (Buddha) - hay còn gọi là người đã giác ngộ. Khía cạnh này thì Phật và Thánh đệ tử đều có.
- A la hán (Arahant) - gọi là bậc đã đoạn tận lậu hoặc, không còn phiền não. Khía cạnh này thì Phật và Thánh đệ tử đều có.

Điểm khác nhau của Phật và Thánh đệ tử :
- Phật gọi là Sammāsambuddha (Toàn giác Phật)
=> Vị Phật tự mình giác ngộ

Còn đệ tử gọi là Sāvaka-Buddha (Phật Thinh Văn). (sāvaka = đệ tử, thính giả; Buddha = giác ngộ).
=> Vị Phật do nghe pháp mà giác ngộ

Và cái mà Phật toàn giác có mà Phật thinh văn không có là 6 biệt trí (tao tạm quên chữ pali này rồi):

1. Indriyaparopariyattañāṇa: Trí biết được khả năng của người khác về các quyền (indriya: tín, tấn, niệm, định, tuệ). Đây là khả năng biết người khác mạnh yếu ra sao trong việc tu tập.
2. Āsayānusayañāṇa: Trí biết thiên hướng (āsaya) và xu hướng tiềm ẩn (anusaya) trong tâm người khác.
3. Yamakapāṭihīrañāṇa: Trí song thông: thần thông kỳ diệu theo cặp (ví dụ phóng ra lửa và nước cùng lúc).
4. Mahākaruṇāsamāpattiñāṇa: Trí thể nhập vào Đại Bi (mahākaruṇā): chư Phật nhập đại định trong tâm đại bi vì chúng sinh.
5. Sabbaññutañāṇa: Trí Toàn Giác, biết tất cả pháp cần biết (omniscient knowledge).
6. Anāvaraṇañāṇa: Trí không bị ngăn che, không có chướng ngại.


Nếu muốn nghiên cứu sâu hơn về chủ đề này thì đọc ở bộ này:

Đây là sự khác biệt giữa tam minh và lục thông

Một hôm nọ, vào thời đức Phật Thích Ca Mâu Ni ở tại kỳ viên Tinh Xá, có một con chim bồ câu bay từ nơi khác đến, bị con chim ưng rượt nên nó sợ quá, hốt hoảng bay đến núp dưới bóng của Phật. Do ở dưới bóng của Phật nên con chim bồ câu cảm thấy an lạc nhẹ nhàng và con chim ưng kia không đuổi nữa, sau đó con chim bồ câu được hoan hỷ vui vẻ. Lúc đó ngài Xá Lợi Phất đi đến, bóng của ngài phủ lên con chim bồ câu. Con chim bồ câu hốt hoảng sợ hãi giống như khi nãy bị con chim ưng đuổi vậy. Ngài Xá Lợi Phất mới hỏi rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Tại sao bóng của Ngài che xuống thì con chim bồ câu hoan hỷ vui vẻ, không sợ sệt. Mà bóng của con đi đến phủ lên con chim bồ câu này thì nó sợ sệt như thế”. Đức Phật nói rằng: “Bởi vì phiền não của ông là ba độc tham sân si tuy đã hết rồi, nhưng tập khí vẫn còn (vì mới chứng quả A-la-hán thôi) nên khiến cho con chim bồ câu cảm nhận được”. Nói như ngôn ngữ ngày nay gọi là từ trường đó vẫn khiến cho người ta khó chịu.



Giống như quý vị tu hành tuy khá, có thể đoạn được phiền não nhưng tập khí phiền não quý vị chưa đoạn. Người khác vẫn cảm thấy dường như quý vị vẫn phiền não, vẫn còn tham sân si. Cho nên con chim bồ câu cảm thấy không bình an. Đức Phật nói: “Ta đã đoạn hết tập khí hữu lậu vô lậu rồi”. Tức là Ngài đã hoàn toàn sạch hết phiền não tập khí, Ngài thành Phật rồi cho nên con chim bồ câu mới cảm thấy như thế. Lúc đó đức Phật nói rằng: “Ông hãy quan sát xem con chim bồ câu này là bồ câu bao đời rồi?”. Đức Phật bảo như vậy thì ngài Xá Lợi Phất mới nhập định quan sát, vì A-la-hán phải nhập định mới quan sát được; còn Bồ-tát thì định trong tất cả thời “Na già thường tại định, vô hữu bất định thời”, tức là lúc nào cũng trong định giống như con rồng, con voi, không có lúc nào chẳng định. Bồ-tát các ngài sống thật, ví dụ như các ngài không cần nhập định, các ngài vẫn thấy biết được chuyện ngày mai, chuyện đời trước, chuyện quá khứ, chuyện tương lai, v.v… còn A-la-hán phải nhập định mới quan sát được.



Lúc đó ngài Xá Lợi Phất nhập định xong nói rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Con quan sát được tám vạn đại kiếp qua nó vẫn là bồ câu, và khả năng của con chỉ có bấy nhiêu đó, con không biết rằng bao nhiêu kiếp trước nó làm gì”. Quý vị nghe cho kỹ tám vạn đại kiếp tức là 80.000 đại kiếp rồi. Một Đại kiếp chúng ta nói đơn giản là từ khi Trái đất này sanh ra đến khi Trái đất này tan hoại, rồi lập lại Trái đất một lần nữa. Vậy mà tám vạn tức là 80.000 lần Trái đất này sanh ra lại tan hoại rồi lập lại như vậy, mà vẫn là bồ câu.



Lúc đó đức Phật mới nói rằng: “Ông hãy quan sát xem con bồ câu ấy làm bồ câu bao nhiêu đời nữa”. Ngài Xá Lợi Phất tiếp tục nhập định để xem thử coi con bồ câu đó bao nhiêu đời làm bồ câu nữa. Nhập định xong, ngài ra và nói: “Bạch Đức Thế Tôn! Con cũng quan sát về vị lai (tức là về tương lai) tám vạn đại kiếp sau nó vẫn là bồ câu, và quá hơn tám vạn đại kiếp thì khả năng của con không quan sát được”.



Quý vị thấy đáng sợ như thế nào! Như vậy là sơ sơ 16 vạn đại kiếp bồ câu vẫn là bồ câu. Vì chúng sanh vào trong đường Súc sanh chấp thân, thân nó là Bồ câu cho nên không thoát ra được.

Đức Phật nói rằng: “Về vị lai, sau khi trải qua Hằng hà sa số kiếp, tức là số kiếp nhiều như số cát sông Hằng, con bồ câu đó mới thoát được thân bồ câu”. Quý vị mà đi Ấn Độ tới sông Hằng đếm thử coi sông Hằng có bao nhiêu cát, thì con chim bồ câu đó trải qua bấy nhiêu lần số cát đó bằng đại kiếp, tức là số lần mà Trái đất sanh ra rồi diệt đi, cứ thế biết bao giờ mới thoát khỏi thân bồ câu. Sau đó Đức Phật nói rằng: Sau khi thoát được thân bồ câu, (tức là trải qua Hằng hà sa số kiếp làm thân bồ câu), thì con bồ câu đó mới được trở lại trong năm đường (năm đường tức là Trời, Người, Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh). Sau đó trải qua 500 đời nữa mới được làm thân người. Khi đó có một đức Phật ra đời, Ngài giáo hóa độ vô lượng chúng sanh được nhập Niết-Bàn. Sau khi đức Phật ấy nhập Niết-Bàn thì có một vị Ưu-bà-tắc gặp được giáo pháp của Phật (giống như chúng ta ngày nay), vị Ưu-bà-tắc đó chính là con bồ câu. Tức là sau khi trải qua vô số vô số kiếp như thế mới được làm thân người, mới được gặp Phật pháp.
 
Tam Minh hay Lục Thông thì Phật hay A La Hán đều có thể đạt được.
Và bản thân Phật cũng là một vị A La Hán.
Gọi là A La Hán Tam Minh cũng được, A La Hán Lục Thông cũng được. Vậy nên Phật( Buddhā) hay Thánh đệ tử (Ariyasāvakā) đều có Lục Thông và Tam Minh.

"Tam minh chỉ có thể là bậc vô thượng chánh đẳng giác mới đắc được tức là chỉ có Phật mới đắc được"

Để tao phân tích theo từ ngữ có trích dẫn Pali cho dễ hiểu.

Bây giờ sẽ giải nghĩa ngắn:

- Phật (Buddha) - hay còn gọi là người đã giác ngộ. Khía cạnh này thì Phật và Thánh đệ tử đều có.
- A la hán (Arahant) - gọi là bậc đã đoạn tận lậu hoặc, không còn phiền não. Khía cạnh này thì Phật và Thánh đệ tử đều có.

Điểm khác nhau của Phật và Thánh đệ tử :
- Phật gọi là Sammāsambuddha (Toàn giác Phật)
=> Vị Phật tự mình giác ngộ

Còn đệ tử gọi là Sāvaka-Buddha (Phật Thinh Văn). (sāvaka = đệ tử, thính giả; Buddha = giác ngộ).
=> Vị Phật do nghe pháp mà giác ngộ

Và cái mà Phật toàn giác có mà Phật thinh văn không có là 6 biệt trí (tao tạm quên chữ pali này rồi):

1. Indriyaparopariyattañāṇa: Trí biết được khả năng của người khác về các quyền (indriya: tín, tấn, niệm, định, tuệ). Đây là khả năng biết người khác mạnh yếu ra sao trong việc tu tập.
2. Āsayānusayañāṇa: Trí biết thiên hướng (āsaya) và xu hướng tiềm ẩn (anusaya) trong tâm người khác.
3. Yamakapāṭihīrañāṇa: Trí song thông: thần thông kỳ diệu theo cặp (ví dụ phóng ra lửa và nước cùng lúc).
4. Mahākaruṇāsamāpattiñāṇa: Trí thể nhập vào Đại Bi (mahākaruṇā): chư Phật nhập đại định trong tâm đại bi vì chúng sinh.
5. Sabbaññutañāṇa: Trí Toàn Giác, biết tất cả pháp cần biết (omniscient knowledge).
6. Anāvaraṇañāṇa: Trí không bị ngăn che, không có chướng ngại.


Nếu muốn nghiên cứu sâu hơn về chủ đề này thì đọc ở bộ này:

Mày thấy có kinh điển nào nhắc một vị A la hán nào chứng được tam minh chưa?
 
Đây là sự khác biệt giữa tam minh và lục thông

Một hôm nọ, vào thời đức Phật Thích Ca Mâu Ni ở tại kỳ viên Tinh Xá, có một con chim bồ câu bay từ nơi khác đến, bị con chim ưng rượt nên nó sợ quá, hốt hoảng bay đến núp dưới bóng của Phật. Do ở dưới bóng của Phật nên con chim bồ câu cảm thấy an lạc nhẹ nhàng và con chim ưng kia không đuổi nữa, sau đó con chim bồ câu được hoan hỷ vui vẻ. Lúc đó ngài Xá Lợi Phất đi đến, bóng của ngài phủ lên con chim bồ câu. Con chim bồ câu hốt hoảng sợ hãi giống như khi nãy bị con chim ưng đuổi vậy. Ngài Xá Lợi Phất mới hỏi rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Tại sao bóng của Ngài che xuống thì con chim bồ câu hoan hỷ vui vẻ, không sợ sệt. Mà bóng của con đi đến phủ lên con chim bồ câu này thì nó sợ sệt như thế”. Đức Phật nói rằng: “Bởi vì phiền não của ông là ba độc tham sân si tuy đã hết rồi, nhưng tập khí vẫn còn (vì mới chứng quả A-la-hán thôi) nên khiến cho con chim bồ câu cảm nhận được”. Nói như ngôn ngữ ngày nay gọi là từ trường đó vẫn khiến cho người ta khó chịu.



Giống như quý vị tu hành tuy khá, có thể đoạn được phiền não nhưng tập khí phiền não quý vị chưa đoạn. Người khác vẫn cảm thấy dường như quý vị vẫn phiền não, vẫn còn tham sân si. Cho nên con chim bồ câu cảm thấy không bình an. Đức Phật nói: “Ta đã đoạn hết tập khí hữu lậu vô lậu rồi”. Tức là Ngài đã hoàn toàn sạch hết phiền não tập khí, Ngài thành Phật rồi cho nên con chim bồ câu mới cảm thấy như thế. Lúc đó đức Phật nói rằng: “Ông hãy quan sát xem con chim bồ câu này là bồ câu bao đời rồi?”. Đức Phật bảo như vậy thì ngài Xá Lợi Phất mới nhập định quan sát, vì A-la-hán phải nhập định mới quan sát được; còn Bồ-tát thì định trong tất cả thời “Na già thường tại định, vô hữu bất định thời”, tức là lúc nào cũng trong định giống như con rồng, con voi, không có lúc nào chẳng định. Bồ-tát các ngài sống thật, ví dụ như các ngài không cần nhập định, các ngài vẫn thấy biết được chuyện ngày mai, chuyện đời trước, chuyện quá khứ, chuyện tương lai, v.v… còn A-la-hán phải nhập định mới quan sát được.



Lúc đó ngài Xá Lợi Phất nhập định xong nói rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Con quan sát được tám vạn đại kiếp qua nó vẫn là bồ câu, và khả năng của con chỉ có bấy nhiêu đó, con không biết rằng bao nhiêu kiếp trước nó làm gì”. Quý vị nghe cho kỹ tám vạn đại kiếp tức là 80.000 đại kiếp rồi. Một Đại kiếp chúng ta nói đơn giản là từ khi Trái đất này sanh ra đến khi Trái đất này tan hoại, rồi lập lại Trái đất một lần nữa. Vậy mà tám vạn tức là 80.000 lần Trái đất này sanh ra lại tan hoại rồi lập lại như vậy, mà vẫn là bồ câu.



Lúc đó đức Phật mới nói rằng: “Ông hãy quan sát xem con bồ câu ấy làm bồ câu bao nhiêu đời nữa”. Ngài Xá Lợi Phất tiếp tục nhập định để xem thử coi con bồ câu đó bao nhiêu đời làm bồ câu nữa. Nhập định xong, ngài ra và nói: “Bạch Đức Thế Tôn! Con cũng quan sát về vị lai (tức là về tương lai) tám vạn đại kiếp sau nó vẫn là bồ câu, và quá hơn tám vạn đại kiếp thì khả năng của con không quan sát được”.



Quý vị thấy đáng sợ như thế nào! Như vậy là sơ sơ 16 vạn đại kiếp bồ câu vẫn là bồ câu. Vì chúng sanh vào trong đường Súc sanh chấp thân, thân nó là Bồ câu cho nên không thoát ra được.

Đức Phật nói rằng: “Về vị lai, sau khi trải qua Hằng hà sa số kiếp, tức là số kiếp nhiều như số cát sông Hằng, con bồ câu đó mới thoát được thân bồ câu”. Quý vị mà đi Ấn Độ tới sông Hằng đếm thử coi sông Hằng có bao nhiêu cát, thì con chim bồ câu đó trải qua bấy nhiêu lần số cát đó bằng đại kiếp, tức là số lần mà Trái đất sanh ra rồi diệt đi, cứ thế biết bao giờ mới thoát khỏi thân bồ câu. Sau đó Đức Phật nói rằng: Sau khi thoát được thân bồ câu, (tức là trải qua Hằng hà sa số kiếp làm thân bồ câu), thì con bồ câu đó mới được trở lại trong năm đường (năm đường tức là Trời, Người, Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh). Sau đó trải qua 500 đời nữa mới được làm thân người. Khi đó có một đức Phật ra đời, Ngài giáo hóa độ vô lượng chúng sanh được nhập Niết-Bàn. Sau khi đức Phật ấy nhập Niết-Bàn thì có một vị Ưu-bà-tắc gặp được giáo pháp của Phật (giống như chúng ta ngày nay), vị Ưu-bà-tắc đó chính là con bồ câu. Tức là sau khi trải qua vô số vô số kiếp như thế mới được làm thân người, mới được gặp Phật pháp.
À cái này là văn bản hậu tác của đời sau người ta viết. Câu chuyện chỉ có tính giáo huấn minh họa, chứ không thể lấy làm chuẩn xác về Tam Minh và Lục Thông. Đây là loại truyện mang tính ngụ ngôn, hậu tác, nhằm nhấn mạnh sự khác biệt giữa Phật Toàn Giác (Sammāsambuddha) và Thánh đệ tử Arahant để khuyến khích tinh thần "Tất cả chúng sinh đều sẽ thành Phật" theo tinh thần Đại thừa về sau này.

Cái đoạn này không có nằm trong kinh điển Pali, nội dung gần gần tương tự thì có. Ngài Xá Lợi Phất (Sāriputta Thera) được tôn xưng là Thượng thủ Trí tuệ bậc nhất trong hàng Thanh văn và có khả năng nhớ lên đến 2 asaṅkheyya + 100.000 đại kiếp (hai a tăng kỳ và một trăm ngàn đại kiếp). Do đó, việc nói “Xá Lợi Phất chỉ thấy được 80.000 đại kiếp” là không phù hợp với giáo lý gốc. Đây chỉ là cách diễn đạt trong truyện dân gian để minh họa giới hạn của A-la-hán so với Đức Phật.

Tóm lại thì theo kiến thức của t đọc ở nhiều nguồn thì: Tam Minh nằm trong Lục Thông.
- Nhưng khi gọi là Minh (Vijjā) thì nhấn mạnh khía cạnh trí tuệ siêu việt.
- Còn khi gọi là Thông (Abhiññā) thì nhấn mạnh khía cạnh thần thông.
 
À cái này là văn bản hậu tác của đời sau người ta viết. Câu chuyện chỉ có tính giáo huấn minh họa, chứ không thể lấy làm chuẩn xác về Tam Minh và Lục Thông. Đây là loại truyện mang tính ngụ ngôn, hậu tác, nhằm nhấn mạnh sự khác biệt giữa Phật Toàn Giác (Sammāsambuddha) và Thánh đệ tử Arahant để khuyến khích tinh thần "Tất cả chúng sinh đều sẽ thành Phật" theo tinh thần Đại thừa về sau này.

Cái đoạn này không có nằm trong kinh điển Pali, nội dung gần gần tương tự thì có. Ngài Xá Lợi Phất (Sāriputta Thera) được tôn xưng là Thượng thủ Trí tuệ bậc nhất trong hàng Thanh văn và có khả năng nhớ lên đến 2 asaṅkheyya + 100.000 đại kiếp (hai a tăng kỳ và một trăm ngàn đại kiếp). Do đó, việc nói “Xá Lợi Phất chỉ thấy được 80.000 đại kiếp” là không phù hợp với giáo lý gốc. Đây chỉ là cách diễn đạt trong truyện dân gian để minh họa giới hạn của A-la-hán so với Đức Phật.

Tóm lại thì theo kiến thức của t đọc ở nhiều nguồn thì: Tam Minh nằm trong Lục Thông.
- Nhưng khi gọi là Minh (Vijjā) thì nhấn mạnh khía cạnh trí tuệ siêu việt.
- Còn khi gọi là Thông (Abhiññā) thì nhấn mạnh khía cạnh thần thông.
Cứ cho là Xá lợi phất biết được 2 a tăng kỳ và 100.000 đại kiếp đi
Thì túc mạng thông và thiên nhãn thông vẫn là hữu hạn
Còn túc mạng minh thiên nhãn minh khi Thích Ca đắc là vô hạn có thể thấy được mọi tiền kiếp của mọi chúng sinh từ khởi đầu cho đến tương lai vô tận sau này như kinh điển đã đề cập.
Và lậu tận minh đến khi ông ấy tìm ra thế nào là khổ và thoát khỏi khổ
Tức là tứ đế và bát chánh đạo
Lậu tận thông đâu thể tìm ra được con đường này
 
Mày đọc Kinh Sa Môn quả hay Tiểu kinh Dụ dấu chân voi sẽ thấy một vị A La Hán có thể chứng đắc Tam Minh trong đó.


Thế Tôn là bậc Chánh Ðẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, Chúng Tăng khéo hành trì".

Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến Túc mạng minh. Vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, hai trăm đời, một ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp. Vị ấy nhớ rằng: "Tại chỗ kia, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, ta được sanh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây". Như vậy, vị ấy nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi tiết. Này Bà-la-môn, như vậy gọi là dấu chân của Như Lai, dấu cọ xát của Như Lai, dấu cắt chém của Như Lai. Nhưng vị Thánh đệ tử không đi đến kết luận: "Thế Tôn là bậc Chánh Ðẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, Chúng Tăng khéo hành trì".

Tam minh là thế tôn đắc chứ la hán nào đắc
 
Cứ cho là Xá lợi phất biết được 2 a tăng kỳ và 100.000 đại kiếp đi
Thì túc mạng thông và thiên nhãn thông vẫn là hữu hạn
Còn túc mạng minh thiên nhãn minh khi Thích Ca đắc là vô hạn có thể thấy được mọi tiền kiếp của mọi chúng sinh từ khởi đầu cho đến tương lai vô tận sau này như kinh điển đã đề cập.
Và lậu tận minh đến khi ông ấy tìm ra thế nào là khổ và thoát khỏi khổ
Tức là tứ đế và bát chánh đạo
Lậu tận thông đâu thể tìm ra được con đường này
Vô hạn hay hữu hạn nó tùy thuộc và mức độ tu tập parami và hạnh nguyện của mỗi người.

Ví dụ mày có 1 tỉ trong tài khoản hay 100tr trong tài khoản thì nó cũng đều gọi là tiền.
Nhưng mà số lượng nó khác nhau. Cũng vậy 3 Minh và 6 Thông đều gọi là thông, là trí. Nhưng mà mức độ nó khác nhau.

3 Minh hay 6 thông của Phật gọi là vô hạn (ananta).
6 thông của Phật và đệ tử chỉ giống nhau cái Lậu Tận Thông, còn 5 cái kia thì khác nhau mỗi người mỗi khác.
3 minh cũng vậy, chỉ giống cái Lậu Tận Minh, còn 2 cái Túc Mạng Minh và Sanh Tử Minh nó cũng khác.
 
Vô hạn hay hữu hạn nó tùy thuộc và mức độ tu tập parami và hạnh nguyện của mỗi người.

Ví dụ mày có 1 tỉ trong tài khoản hay 100tr trong tài khoản thì nó cũng đều gọi là tiền.
Nhưng mà số lượng nó khác nhau. Cũng vậy 3 Minh và 6 Thông đều gọi là thông, là trí. Nhưng mà mức độ nó khác nhau.

3 Minh hay 6 thông của Phật gọi là vô hạn (ananta).
6 thông của Phật và đệ tử chỉ giống nhau cái Lậu Tận Thông, còn 5 cái kia thì khác nhau mỗi người mỗi khác.
3 minh cũng vậy, chỉ giống cái Lậu Tận Minh, còn 2 cái Túc Mạng Minh và Sanh Tử Minh nó cũng khác.
Vậy mày thấy kinh điển nào nói một vị a la hán nào đắc tam minh chưa?
 
Thế Tôn là bậc Chánh Ðẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, Chúng Tăng khéo hành trì".

Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến Túc mạng minh. Vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, hai trăm đời, một ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp. Vị ấy nhớ rằng: "Tại chỗ kia, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, ta được sanh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây". Như vậy, vị ấy nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi tiết. Này Bà-la-môn, như vậy gọi là dấu chân của Như Lai, dấu cọ xát của Như Lai, dấu cắt chém của Như Lai. Nhưng vị Thánh đệ tử không đi đến kết luận: "Thế Tôn là bậc Chánh Ðẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, Chúng Tăng khéo hành trì".

Tam minh là thế tôn đắc chứ la hán nào đắc
"Vị ấy" là nói vị đệ tử. Mày phải đọc hết bài Kinh thì mới hiểu là đang nói gì chứ.
Đoạn này nói là vị đệ tử dù có chứng Sanh Tử Minh hay Thiên Nhãn Minh gì ấy cũng không kết luận :"Thế Tôn là bậc Chánh Ðẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, Chúng Tăng khéo hành trì".

Mày phải đọc đoạn cuối nữa. Có nói rõ là sau khi nhập dòng thánh, thấy Niết Bàn thì mới gọi Phật là Phật. Ý nghĩa của đoạn Kinh này là vậy :

Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến Lậu tận trí. Vị ấy biết như thật: "Ðây là Khổ", biết như thật: "Ðây là Nguyên nhân của khổ", biết như thật: "Ðây là Khổ diệt", biết như thật: "Ðây là Con đường đưa đến khổ diệt", biết như thật: "Ðây là những lậu hoặc", biết như thật: "Ðây là nguyên nhân của lậu hoặc", biết như thật: "Ðây là các lậu hoặc diệt", biết như thật: "Ðây là con đường đưa đến các lậu hoặc diệt".

Này Bà-la-môn, như vậy gọi là dấu chân của Như Lai, dấu cọ xát của Như Lai, dấu cắt chém của Như Lai. Nhưng vị Thánh đệ tử không đi đến kết luận: "Thế Tôn là bậc Chánh Ðẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, Chúng Tăng khéo hành trì".
 
"Vị ấy" là nói vị đệ tử. Mày phải đọc hết bài Kinh thì mới hiểu là đang nói gì chứ.
Đoạn này nói là vị đệ tử dù có chứng Sanh Tử Minh hay Thiên Nhãn Minh gì ấy cũng không kết luận :"Thế Tôn là bậc Chánh Ðẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, Chúng Tăng khéo hành trì".

Mày phải đọc đoạn cuối nữa. Có nói rõ là sau khi nhập dòng thánh, thấy Niết Bàn thì mới gọi Phật là Phật. Ý nghĩa của đoạn Kinh này là vậy :

Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến Lậu tận trí. Vị ấy biết như thật: "Ðây là Khổ", biết như thật: "Ðây là Nguyên nhân của khổ", biết như thật: "Ðây là Khổ diệt", biết như thật: "Ðây là Con đường đưa đến khổ diệt", biết như thật: "Ðây là những lậu hoặc", biết như thật: "Ðây là nguyên nhân của lậu hoặc", biết như thật: "Ðây là các lậu hoặc diệt", biết như thật: "Ðây là con đường đưa đến các lậu hoặc diệt".

Này Bà-la-môn, như vậy gọi là dấu chân của Như Lai, dấu cọ xát của Như Lai, dấu cắt chém của Như Lai. Nhưng vị Thánh đệ tử không đi đến kết luận: "Thế Tôn là bậc Chánh Ðẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, Chúng Tăng khéo hành trì".
Vị ấy chính là Như Lai chứ vị nào
Tam minh là quá trình giác ngộ của Phật Thích Ca tao đã nêu ở trên.
Dấu chân voi chính là nói về dấu chân Như Lai
 
Vậy mày thấy kinh điển nào nói một vị a la hán nào đắc tam minh chưa?
Kinh nhắc nhiều về A La Hán Lục Thông hơn vì Lục Thông là nói rộng hơn của Tam Minh. Lục Thông nó là sự chứng đạt nhiều option hơn Tam Minh.
Giống như là lớp học nhiều học sinh giỏi quá thì nhắc học sinh khá làm gì. Tao không có ý coi thường Tam Minh nhưng nói đại khái cho dễ hiểu là vậy.

Vị ấy chính là Như Lai chứ vị nào
Tam minh là quá trình giác ngộ của Phật Thích Ca tao đã nêu ở trên.
Dấu chân voi chính là nói về dấu chân Như Lai
Ok tao thua, sao cũng được mệt quá 😂😂😂
 
Kinh nhắc nhiều về A La Hán Lục Thông hơn vì Lục Thông là nói rộng hơn của Tam Minh. Lục Thông nó là sự chứng đạt nhiều option hơn Tam Minh.
Giống như là lớp học nhiều học sinh giỏi quá thì nhắc học sinh khá làm gì. Tao không có ý coi thường Tam Minh nhưng nói đại khái cho dễ hiểu là vậy.


Ok tao thua, sao cũng được mệt quá 😂😂😂
Vậy mày đã nghe kinh điển nào nhắc một vị a la hán cụ thể nào đó chứng đắc được tam minh chưa?
 
Kinh nhắc nhiều về A La Hán Lục Thông hơn vì Lục Thông là nói rộng hơn của Tam Minh. Lục Thông nó là sự chứng đạt nhiều option hơn Tam Minh.
Giống như là lớp học nhiều học sinh giỏi quá thì nhắc học sinh khá làm gì. Tao không có ý coi thường Tam Minh nhưng nói đại khái cho dễ hiểu là vậy.


Ok tao thua, sao cũng được mệt quá 😂😂😂
thua thì nính :feel_good:
 
Kinh nhắc nhiều về A La Hán Lục Thông hơn vì Lục Thông là nói rộng hơn của Tam Minh. Lục Thông nó là sự chứng đạt nhiều option hơn Tam Minh.
Giống như là lớp học nhiều học sinh giỏi quá thì nhắc học sinh khá làm gì. Tao không có ý coi thường Tam Minh nhưng nói đại khái cho dễ hiểu là vậy.


Ok tao thua, sao cũng được mệt quá 😂😂😂
Mày đã bao giờ nghe kinh điển mô tả Phật Thích Ca đắc lục thông chưa?
Chưa từng nghe đúng không
Chỉ có kinh điển mô tả Phật Thích Ca đắc tam minh sau khi chứng tứ thiền đêm 49 khi ngồi bên cây bồ đề.
Quá trình đắc tam minh được mô tả tuần tự chi tiết rõ ràng
 
Đm tu mà Tam Minh - Lục quái qq j đủ thứ . T cứ tưởng nếu giác ngộ được Ngộ của Đức Phật thì Phần con sẽ biến gần như khỏi hoàn toàn khỏi cơ thể. Tâm hồn nhẹ nhàng phiêu bổng để ứng biến vs cuộc sống. Sống sẽ bớt xô bồ này nọ . K hơn thua tranh giành nhau
 
Mày đã bao giờ nghe kinh điển mô tả Phật Thích Ca đắc lục thông chưa?
Chưa từng nghe đúng không
Chỉ có kinh điển mô tả Phật Thích Ca đắc tam minh sau khi chứng tứ thiền đêm 49 khi ngồi bên cây bồ đề.
Quá trình đắc tam minh được mô tả tuần tự chi tiết rõ ràng
Trong bài Kinh này có nói về Lục Thông nè :
 

Có thể bạn quan tâm

Top