Ở đây đứa nào rành về kiến thức Phật giáo có thể biết sự khác biệt giữa tam minh và lục thông nghĩa là gì không?

Trong bài Kinh này có nói về Lục Thông nè :
Đoạn kinh này có nói về các thần thông của Phật trong đó có nói về lục thông
Vì lục thông là sản phẩm phụ của tam minh
Người đắc tam minh sẽ đắc được lục thông
Còn người đắc lục thông không hẳn đã đắc được tam minh
Kinh điển chỉ mô tả duy nhất Phật Thích Ca đắc tam minh trong quá trình giác ngộ
 
Đoạn kinh này có nói về các thần thông của Phật trong đó có nói về lục thông
Vì lục thông là sản phẩm phụ của tam minh
Người đắc tam minh sẽ đắc được lục thông
Còn người đắc lục thông không hẳn đã đắc được tam minh
Kinh điển chỉ mô tả duy nhất Phật Thích Ca đắc tam minh trong quá trình giác ngộ
Mấy cái thần thông t cũng ít quan tâm lắm. Cái này mày đọc trong Kinh điển Pali nhiều là sẽ hiểu.
 
Mấy cái thần thông t cũng ít quan tâm lắm. Cái này mày đọc trong Kinh điển Pali nhiều là sẽ hiểu.
Tao đọc kinh điển pali nó chỉ mô tả Phật Thích Ca đắc tam minh trong quá trình giác ngộ
Quá trình đắc tam minh ghi rõ tuần tự chi tiết và mô tả rất kỹ lưỡng
Và tao chưa thấy kinh điển pali nào mô tả một vị a la hán khác cũng đắc được tam minh
 
Tao đọc kinh điển pali nó chỉ mô tả Phật Thích Ca đắc tam minh trong quá trình giác ngộ
Quá trình đắc tam minh ghi rõ tuần tự chi tiết và mô tả rất kỹ lưỡng
Và tao chưa thấy kinh điển pali nào mô tả một vị a la hán khác cũng đắc được tam minh
M đọc 1 vài bài Kinh nên không thấy là đúng rồi, vì các bài Kinh (sutta) nó là pháp thoại, tùy thuộc trình độ người đối diện tới đâu mà Phật nói theo 1 cách khác nhau. Nhưng tổng quan là đều nói về 4 đế.

Nếu mà muốn đọc Kinh Pali theo hệ thống thì phải nghiên cứu thêm mấy cuốn sớ giải, luận giải đời sau hay đọc A tỳ đàm (Abhidhamma) thì nó mới hệ thống theo kiểu SGK từ lớp 1 -> lớp 12 hiện đại ngày nay. Cách đọc này nó hợp với người hiện đại bây giờ hơn.

Về A La Hán cũng phân ra nhiều loại, 6 thông, 3 minh, 4 trí vô ngại, thuần quán (chỉ giải thoát chứ không có thần thông). Thì trong đó hạng mà có 4 trí vô ngại được xem như là "xịn nhất".

Các hạng A–la–hán:​


1. A–la–hán thuần tuệ quán (Sukkhavipassako)
  • Chứng quả Lậu tận nhờ thuần tuệ quán.
  • Không có thần thông hay năng lực đặc biệt.
2. A–la–hán Tam minh (Tevijjo)
  • Thành tựu ba minh:
    Túc mạng minh (Pubbenivāsānussatiñāṇa) – biết các đời sống quá khứ.
    Sanh tử minh (Cutūpapātañāṇa/Dibbacakkhuñāṇa) – biết sự sinh tử của chúng sanh theo nghiệp.
    Lậu tận minh (Āsavakkhayañāṇa) – đoạn tận lậu hoặc, chứng quả A–la–hán.
  • Nguồn: D.III.220, 275; A.V.211
3. A–la–hán Lục thông (Chaḷabhiññā)
  • Thành tựu đủ sáu thắng trí:
    Biến hóa thông (Iddhividhi)
    Thiên nhĩ thông (Dibbasota)
    Tha tâm thông (Cetopariyañāṇa)
    Túc mạng thông (Pubbenivāsānussati)
    Thiên nhãn thông (Dibbacakkhu/Cutūpapātañāṇa)
    Lậu tận thông (Āsavakkhayañāṇa)
  • 5 thông đầu: thế gian, thông thứ 6: siêu thế.
  • Nguồn: D.III.281; A.III.280

4. A–la–hán đắc Tuệ phân tích (Paṭisambhidappatto)
  • Thành tựu bốn tuệ phân tích ngay khi chứng quả:
    Nghĩa đạt thông (Atthapaṭisambhidā)
    Pháp đạt thông (Dhammapaṭisambhidā)
    Ngữ đạt thông (Niruttipaṭisambhidā)
    Biện đạt thông (Paṭibhānapaṭisambhidā)
  • Nguồn: A.II.160; Ps. I.119; Vbh. 294; Vism. 710
Đức Phật có tất cả những gì mà 1 vị A La Hán bình thường có được và năng lực còn hơn vậy. Ngoài ra Đức Phật còn có thêm cả 6 biệt trí.



257] Bốn hạng A-la-hán (Arahanta):


1. A-la-hán can quán (Sukkhavipassako), tức là bậc Lậu Tận mà chỉ khô sạch phiền não bằng tuệ quán thôi, vị này không có thiền thông hay có năng lực đặc biệt gì khác.

2. A-la-hán tam minh (Tevijjo) tức là bậc Lậu Tận mà đắc được ba minh: Túc mạng minh, sanh tử minh và lậu tận minh. Xem ba minh [81].

3. A-la-hán lục thông (Chaḷabhiññā), tức là bậc Lậu Tận đắc luôn cả thiền nhập hiệp thế, có được sáu thần thông: biến hóa thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, túc mạng thông, thiên nhĩ thông, lậu tận thông. Xem sáu thắng trí [347].

4. A-la-hán đắc tuệ phân tích (Paṭisambhidappatto), tức là bậc Lậu Tận mà vừa khi đắc tứ quả cũng đồng thời đắc bốn tuệ phân tích, hay tuệ đạt thông là: pháp đạt thông, nghĩa đạt thông, ngữ đạt thông, biện đạt thông. Xem bốn tuệ đạt thông [217].
 
M đọc 1 vài bài Kinh nên không thấy là đúng rồi, vì các bài Kinh (sutta) nó là pháp thoại, tùy thuộc trình độ người đối diện tới đâu mà Phật nói theo 1 cách khác nhau. Nhưng tổng quan là đều nói về 4 đế.

Nếu mà muốn đọc Kinh Pali theo hệ thống thì phải nghiên cứu thêm mấy cuốn sớ giải, luận giải đời sau hay đọc A tỳ đàm (Abhidhamma) thì nó mới hệ thống theo kiểu SGK từ lớp 1 -> lớp 12 hiện đại ngày nay. Cách đọc này nó hợp với người hiện đại bây giờ hơn.

Về A La Hán cũng phân ra nhiều loại, 6 thông, 3 minh, 4 trí vô ngại, thuần quán (chỉ giải thoát chứ không có thần thông). Thì trong đó hạng mà có 4 trí vô ngại được xem như là "xịn nhất".

Các hạng A–la–hán:​


1. A–la–hán thuần tuệ quán (Sukkhavipassako)
  • Chứng quả Lậu tận nhờ thuần tuệ quán.
  • Không có thần thông hay năng lực đặc biệt.
2. A–la–hán Tam minh (Tevijjo)
  • Thành tựu ba minh:
    Túc mạng minh (Pubbenivāsānussatiñāṇa) – biết các đời sống quá khứ.
    Sanh tử minh (Cutūpapātañāṇa/Dibbacakkhuñāṇa) – biết sự sinh tử của chúng sanh theo nghiệp.
    Lậu tận minh (Āsavakkhayañāṇa) – đoạn tận lậu hoặc, chứng quả A–la–hán.
  • Nguồn: D.III.220, 275; A.V.211
3. A–la–hán Lục thông (Chaḷabhiññā)
  • Thành tựu đủ sáu thắng trí:
    Biến hóa thông (Iddhividhi)
    Thiên nhĩ thông (Dibbasota)
    Tha tâm thông (Cetopariyañāṇa)
    Túc mạng thông (Pubbenivāsānussati)
    Thiên nhãn thông (Dibbacakkhu/Cutūpapātañāṇa)
    Lậu tận thông (Āsavakkhayañāṇa)
  • 5 thông đầu: thế gian, thông thứ 6: siêu thế.
  • Nguồn: D.III.281; A.III.280

4. A–la–hán đắc Tuệ phân tích (Paṭisambhidappatto)
  • Thành tựu bốn tuệ phân tích ngay khi chứng quả:
    Nghĩa đạt thông (Atthapaṭisambhidā)
    Pháp đạt thông (Dhammapaṭisambhidā)
    Ngữ đạt thông (Niruttipaṭisambhidā)
    Biện đạt thông (Paṭibhānapaṭisambhidā)
  • Nguồn: A.II.160; Ps. I.119; Vbh. 294; Vism. 710
Đức Phật có tất cả những gì mà 1 vị A La Hán bình thường có được và năng lực còn hơn vậy. Ngoài ra Đức Phật còn có thêm cả 6 biệt trí.




Tao chỉ hỏi là có vị A la hán cụ thể nào đắc được tam minh được kinh điển pali mô tả chưa?
 
Tao chỉ hỏi là có vị A la hán cụ thể nào đắc được tam minh được kinh điển pali mô tả chưa?
Kinh Pali cũng không có nói vị nào đắc thuần quán, lục thông, tứ phân tích cả. Chỉ mô tả theo dạng công thức như mấy bài Kinh tao nói ở trên chứ không nêu tên từng cá nhân. Không có bài Kinh nào nói người nào, tên gì đắc cụ thể là cái gì hết.

Như A La Hán bốn vô ngại giải (paṭisambhidā) cụ thể còn không có, nhưng chẳng lẽ là không có. Mày phải hiểu Kinh điển Pali nó là cô động lại lời dạy của Phật chứ không phải là dạng kể chuyện người này đắc cái này, người kia đắc cái kia.

Nhưng mà nãy giờ mày đọc 3-4 bài Kinh tao trích dẫn vẫn không thấy Tam Minh (túc mạng, thiên nhãn, lậu tận) đều là ba thành phần cuối trong Lục Thông hả ?
 
Kinh Pali cũng không có nói vị nào đắc thuần quán, lục thông, tứ phân tích cả. Chỉ mô tả theo dạng công thức như mấy bài Kinh tao nói ở trên chứ không nêu tên từng cá nhân. Không có bài Kinh nào nói người nào, tên gì đắc cụ thể là cái gì hết.

Như A La Hán bốn vô ngại giải (paṭisambhidā) cụ thể còn không có, nhưng chẳng lẽ là không có. Mày phải hiểu Kinh điển Pali nó là cô động lại lời dạy của Phật chứ không phải là dạng kể chuyện người này đắc cái này, người kia đắc cái kia.

Nhưng mà nãy giờ mày đọc 3-4 bài Kinh tao trích dẫn vẫn không thấy Tam Minh (túc mạng, thiên nhãn, lậu tận) đều là ba thành phần cuối trong Lục Thông hả ?
Như vậy tóm lại kinh điển pali không mô tả một a la hán cụ thể nào đắc được tam minh ngoài Phật Thích Ca
 
Kinh Pali cũng không có nói vị nào đắc thuần quán, lục thông, tứ phân tích cả. Chỉ mô tả theo dạng công thức như mấy bài Kinh tao nói ở trên chứ không nêu tên từng cá nhân. Không có bài Kinh nào nói người nào, tên gì đắc cụ thể là cái gì hết.

Như A La Hán bốn vô ngại giải (paṭisambhidā) cụ thể còn không có, nhưng chẳng lẽ là không có. Mày phải hiểu Kinh điển Pali nó là cô động lại lời dạy của Phật chứ không phải là dạng kể chuyện người này đắc cái này, người kia đắc cái kia.

Nhưng mà nãy giờ mày đọc 3-4 bài Kinh tao trích dẫn vẫn không thấy Tam Minh (túc mạng, thiên nhãn, lậu tận) đều là ba thành phần cuối trong Lục Thông hả ?
Trong thập hiệu 10 danh hiệu của Như Lai có Minh Hạnh Túc
Tức nghĩa là "Người có đủ trí huệ và đức hạnh", tức là có đầy đủ tam minh (Túc Mạng Minh, Thiên Nhãn Minh, Lậu Tận Minh) và ngũ hạnh (Thánh Hạnh, Phạm Hạnh, Thiên Hạnh, Anh Nhi Hạnh, Bệnh Hạnh).
Chỉ có Phật Thích Ca mới có tam minh
Không có A la hán nào khác hay ai khác đắc tam minh cả.
Đúng chứ
 
Trong thập hiệu 10 danh hiệu của Như Lai có Minh Hạnh Túc
Tức nghĩa là "Người có đủ trí huệ và đức hạnh", tức là có đầy đủ tam minh (Túc Mạng Minh, Thiên Nhãn Minh, Lậu Tận Minh) và ngũ hạnh (Thánh Hạnh, Phạm Hạnh, Thiên Hạnh, Anh Nhi Hạnh, Bệnh Hạnh).
Chỉ có Phật Thích Ca mới có tam minh
Không có A la hán nào khác hay ai khác đắc tam minh cả.
Đúng chứ
Minh Hạnh Túc = Minh + Hạnh

Về Minh hay còn gọi là Giác:

1. Ba cái giác (trong Bhayabhevara Sutta, Majjhima Nikāya):


  1. Túc mạng minh (pubbe nivāsānussati vijjā): Biết rõ tiền kiếp của Ngài và của mọi chúng sanh, từng chi tiết về thân, tên, dòng giống, tuổi thọ, cảnh giới tái sinh.
  2. Thiên Nhãn minh (cutūpapāta vijjā):
    • Sanh tử minh: Nhìn thấy luân hồi sanh tử do nghiệp, biết chúng sanh sẽ tái sinh ở đâu tùy nghiệp tốt/xấu.
    • Thiên nhãn thông: Nhìn thấy tất cả chư thiên, nhân loại, vật chất hữu hình và vô hình, gần và xa.
  3. Lậu tận minh (āsavakkhaya vijjā): Biết rõ các pháp trầm luân (āsava) – ái dục, tam giới, tà kiến, vô minh – và con đường diệt tận chúng.

2. Năm cái giác khác (trong Ambaṭṭha Sutta, Dīgha Nikāya):

  1. Minh sát minh (vipassanā vijjā): Quán chiếu danh sắc (nāma-rūpa) theo 10 pháp minh sát, thấy vô thường, khổ, vô ngã. Giúp Đức Phật hiểu Tứ Diệu Đế, đoạn trừ các sử (samyojana), tiến đến A-la-hán đạo.
  2. Hóa tâm minh (manomayiddhi vijjā): Biến hóa thân hình theo ý muốn.
  3. Thần thông minh (idhividhi vijjā): Thực hiện các thần thông như biến hóa người, vật, đi trên nước, xuyên vật chất, bay trên hư không.
  4. Thiên nhĩ minh (dibbasota vijjā): Nghe được mọi thứ tiếng, gần và xa, đặc biệt là tiếng loài người và chư thiên.
  5. Tha tâm thông (cetopariya vijjā): Biết rõ tâm ý của người khác, nhận biết thiện ác và tâm trạng của họ.

=> Kết hợp 3 + 5 cái giác này, Đức Phật đạt tổng cộng 8 giác, là cơ sở để Ngài được gọi là Minh Hạnh Túc (Vijjācaraṇasampanno).

Đức Phật
là bậc duy nhất đạt đầy đủ Minh Hạnh Túc:
  • Biết trọn vẹn sanh tử, tiền kiếp, pháp trầm luân.
  • Thực hành hoàn hảo 15 hạnh.
  • Sở hữu 5 giác thần thông: Hóa tâm minh, Thần thông minh, Thiên nhĩ minh, Tha tâm thông, Minh sát minh.
Chư Thinh Văn: Chỉ đạt lậu tận minh và một số thần thông hạn chế tùy theo sự tu tập (thường là Thiên nhĩ minh, Tha tâm thông, Hóa thân giới hạn, không đầy đủ như Phật). không đạt Tam Minh hoặc Minh Hạnh Túc trọn vẹn như Đức Phật.

=> Về phần Tam Minh là có, nhưng không đầy đủ, trọn vẹn như Đức Phật.
 
@atlas05 theo mày thì A La Hán có đủ 15 cái Hạnh giống Đức Phật không. Chắc chắn là sẽ không bằng nhưng theo mày là có hay không :

  1. Hạnh (hoặc hành) (carana) là phương pháp mà bậc phạm hạnh phải hành theo để đi đến nơi giải thoát là Niết-bàn.
Pháp hành có 15:

  • Thu thúc theo giới hạnh (sīla samvara) là giữ tứ thanh tịnh giới (patimokkha) cho trọn vẹn tinh nghiêm.
  • Thu thúc lục căn (indriya samvara) cho thanh tịnh là giữ tâm cho bình thản không vui, không buồn, không cho cảnh trần chi phối khi lục căn tiếp xúc với lục trần.
  • Có sự tiết độ (bhojane mattaññutā) trong vật thực là không độ nhiều quá hoặc ít quá, chỉ độ một buổi ngọ thôi.
  • Luôn luôn giữ tâm thần tỉnh táo không uể oải (jāgariyānuyogo) là hằng thức tỉnh, không mê ngủ.
  • Có đức tin chân chánh (saddhā) là tin lý nhân quả (tin nghiệp và tin quả), tin nơi sự giác ngộ của đức Thế Tôn và tin nơi 37 phần pháp Bồ đề.
  • Có sự ghi nhớ chân chánh và biết mình (sati sampajañña) là ghi nhớ theo tứ niệm xứ (niệm thân, niệm thọ, niệm tâm, niệm pháp) và biết rõ những hành vi của mình về thân, khẩu, ý.
  • Hổ thẹn tội lỗi (hiri) đã làm.
  • Ghê sợ tội lỗi (ottappa), không dám tái phạm.
  • Nghe nhiều, học rộng (bāhusacca) (về kinh, luật, luận và về các pháp giải thoát).
  • Có sự tinh tấn (viriya) đúng theo tứ chánh cần.
  • Có trí tuệ (paññā) hiểu thấy chân chánh, là hiểu thấy theo 3 thật tướng của vũ trụ (vô thường, khổ não, vô ngã) theo lý Tứ diệu đế.
  • Hành theo sơ thiền (pathama jhāna).
  • Hành nhị thiền (dutiya jhāna).
  • Hành cho đắc tam thiền (tatiya jhāna).
  • Hành cho đắc tứ thiền (catuttha jhāna).
 
Minh Hạnh Túc = Minh + Hạnh

Về Minh hay còn gọi là Giác:

1. Ba cái giác (trong Bhayabhevara Sutta, Majjhima Nikāya):


  1. Túc mạng minh (pubbe nivāsānussati vijjā): Biết rõ tiền kiếp của Ngài và của mọi chúng sanh, từng chi tiết về thân, tên, dòng giống, tuổi thọ, cảnh giới tái sinh.
  2. Thiên Nhãn minh (cutūpapāta vijjā):
    • Sanh tử minh: Nhìn thấy luân hồi sanh tử do nghiệp, biết chúng sanh sẽ tái sinh ở đâu tùy nghiệp tốt/xấu.
    • Thiên nhãn thông: Nhìn thấy tất cả chư thiên, nhân loại, vật chất hữu hình và vô hình, gần và xa.
  3. Lậu tận minh (āsavakkhaya vijjā): Biết rõ các pháp trầm luân (āsava) – ái dục, tam giới, tà kiến, vô minh – và con đường diệt tận chúng.

2. Năm cái giác khác (trong Ambaṭṭha Sutta, Dīgha Nikāya):

  1. Minh sát minh (vipassanā vijjā): Quán chiếu danh sắc (nāma-rūpa) theo 10 pháp minh sát, thấy vô thường, khổ, vô ngã. Giúp Đức Phật hiểu Tứ Diệu Đế, đoạn trừ các sử (samyojana), tiến đến A-la-hán đạo.
  2. Hóa tâm minh (manomayiddhi vijjā): Biến hóa thân hình theo ý muốn.
  3. Thần thông minh (idhividhi vijjā): Thực hiện các thần thông như biến hóa người, vật, đi trên nước, xuyên vật chất, bay trên hư không.
  4. Thiên nhĩ minh (dibbasota vijjā): Nghe được mọi thứ tiếng, gần và xa, đặc biệt là tiếng loài người và chư thiên.
  5. Tha tâm thông (cetopariya vijjā): Biết rõ tâm ý của người khác, nhận biết thiện ác và tâm trạng của họ.

=> Kết hợp 3 + 5 cái giác này, Đức Phật đạt tổng cộng 8 giác, là cơ sở để Ngài được gọi là Minh Hạnh Túc (Vijjācaraṇasampanno).

Đức Phật
là bậc duy nhất đạt đầy đủ Minh Hạnh Túc:
  • Biết trọn vẹn sanh tử, tiền kiếp, pháp trầm luân.
  • Thực hành hoàn hảo 15 hạnh.
  • Sở hữu 5 giác thần thông: Hóa tâm minh, Thần thông minh, Thiên nhĩ minh, Tha tâm thông, Minh sát minh.
Chư Thinh Văn: Chỉ đạt lậu tận minh và một số thần thông hạn chế tùy theo sự tu tập (thường là Thiên nhĩ minh, Tha tâm thông, Hóa thân giới hạn, không đầy đủ như Phật). không đạt Tam Minh hoặc Minh Hạnh Túc trọn vẹn như Đức Phật.

=> Về phần Tam Minh là có, nhưng không đầy đủ, trọn vẹn như Đức Phật.
Tao hiểu rồi
Tam minh của A la hán là 3 thông cuối của lục thông
Còn tam minh của Phật Thích Ca thêm chữ túc là trọn vẹn đầy đủ viên mãn hoàn hảo nên có danh hiệu là Minh Hạnh Túc
 
@atlas05 theo mày thì A La Hán có đủ 15 cái Hạnh giống Đức Phật không. Chắc chắn là sẽ không bằng nhưng theo mày là có hay không :

  1. Hạnh (hoặc hành) (carana) là phương pháp mà bậc phạm hạnh phải hành theo để đi đến nơi giải thoát là Niết-bàn.
Pháp hành có 15:

  • Thu thúc theo giới hạnh (sīla samvara) là giữ tứ thanh tịnh giới (patimokkha) cho trọn vẹn tinh nghiêm.
  • Thu thúc lục căn (indriya samvara) cho thanh tịnh là giữ tâm cho bình thản không vui, không buồn, không cho cảnh trần chi phối khi lục căn tiếp xúc với lục trần.
  • Có sự tiết độ (bhojane mattaññutā) trong vật thực là không độ nhiều quá hoặc ít quá, chỉ độ một buổi ngọ thôi.
  • Luôn luôn giữ tâm thần tỉnh táo không uể oải (jāgariyānuyogo) là hằng thức tỉnh, không mê ngủ.
  • Có đức tin chân chánh (saddhā) là tin lý nhân quả (tin nghiệp và tin quả), tin nơi sự giác ngộ của đức Thế Tôn và tin nơi 37 phần pháp Bồ đề.
  • Có sự ghi nhớ chân chánh và biết mình (sati sampajañña) là ghi nhớ theo tứ niệm xứ (niệm thân, niệm thọ, niệm tâm, niệm pháp) và biết rõ những hành vi của mình về thân, khẩu, ý.
  • Hổ thẹn tội lỗi (hiri) đã làm.
  • Ghê sợ tội lỗi (ottappa), không dám tái phạm.
  • Nghe nhiều, học rộng (bāhusacca) (về kinh, luật, luận và về các pháp giải thoát).
  • Có sự tinh tấn (viriya) đúng theo tứ chánh cần.
  • Có trí tuệ (paññā) hiểu thấy chân chánh, là hiểu thấy theo 3 thật tướng của vũ trụ (vô thường, khổ não, vô ngã) theo lý Tứ diệu đế.
  • Hành theo sơ thiền (pathama jhāna).
  • Hành nhị thiền (dutiya jhāna).
  • Hành cho đắc tam thiền (tatiya jhāna).
  • Hành cho đắc tứ thiền (catuttha jhāna).
Có nhưng không hoàn hảo trọn vẹn nên không thể được xưng là túc
Một a la hán có thể có minh hạnh nhưng không túc được
 
Tao hiểu rồi
Tam minh của A la hán là 3 thông cuối của lục thông
Còn tam minh của Phật Thích Ca thêm chữ túc là trọn vẹn đầy đủ viên mãn hoàn hảo nên có danh hiệu là Minh Hạnh Túc
Có nhưng không hoàn hảo trọn vẹn nên không thể được xưng là túc
Một a la hán có thể có minh hạnh nhưng không túc được
Đúng rồi, A La Hán không thể gọi là có Minh Hạnh Túc vì không đầy đủ, toàn vẹn và hoàn hảo như Phật.
Như Túc Mạng Minh thì A La Hán có hạn chế, Phật không.
Thiên Nhãn Minh A La Hán cũng hạn chế, Phật không
Lậu Tận Minh thì Phật và A La Hán là như nhau

= > Xét về Tam Minh thì A La Hán có, nhưng hạn chế
=> Xét về Minh Hạnh Túc là A La Hán không thể gọi là có như Phật được.
 
Đúng rồi, A La Hán không thể gọi là có Minh Hạnh Túc vì không đầy đủ, toàn vẹn và hoàn hảo như Phật.
Như Túc Mạng Minh thì A La Hán có hạn chế, Phật không.
Thiên Nhãn Minh A La Hán cũng hạn chế, Phật không
Lậu Tận Minh thì Phật và A La Hán là như nhau

= > Xét về Tam Minh thì A La Hán có, nhưng hạn chế
=> Xét về Minh Hạnh Túc là A La Hán không thể gọi là có như Phật được.
Tao nghĩ tam minh của a la hán là 3 thông cuối trong lục thông thôi
 

Có thể bạn quan tâm

Top