kequakhich
Con chim biết nói
BÒ ĐỎ NÓ HUNG HĂNG LẮM,PHÁP VỚI MỸ VÀO VN LẦN NỮA CHỈ CÓ MẤT XÁC
Đụ má, lúc Hồ Thơm đem phỉ quân ra kinh, thì đám quan văn tự nhận thanh cao, trí thức tinh hoa, bày đặt dè miệng bỉ bôi hắn là "Cuồng Chiêm Hắc Tử". Đến khi thiên hạ chia 3 cho ae nhà hắn (ko được xem là thống nhất bờ cõi non sông) đám nịnh thần này lại xúi hắn nên tự xưng là "Đế" - quá cao ngạo
Để ý Sài Gòn rộng lớn, chỉ có duy nhất 1 tượng size medium của Hồ Thơm mà thôi, lại đặt ở khu người Hoa, chứ không đặt ở các khu vực quan trọng khác, có lẽ sợ bị thần Hoàng quở
Tại nó đéo phổ cập giáo dục bạn ạ.Gần 100 năm mà dân vẹm lại ít biết tiếng Pháp thế nhỉ
thằng này nói đúng nè,Biết tại sao lại hạ dk ko? Tại vì nó đéo phải là một cái thành như bọn mày đang tưởng tượng![]()
Lúc nào cũng nói rất đúng trọng tâmhạ bọn bake thôi
cuối cùng cũng tìm đc đó mày, Lê Nin.Bake toàn lính đánh thuê cờ đen thôi, Pháp đánh đến đâu, tàu+ chạy rẽ đất đến đó. Thực chất khi mất nguồn lực từ Nam Kỳ là nhà Nguyễn mất luôn khả năng kiểm soát hầu hết BK từ lâu rồi. Đám sĩ phu Bắc Hà thì sáng tối tìm bố họ Lê, quay tay sóc lọ kiệt sức.![]()
Thể nào cũng có thằng con cháu nhà Nguyễn sẽ nhảy vào sủa 8keo dùng lính trung quốc, Nguyễn Huệ ác thế này thế nọ thế chai, văn 100% là vậy, tuyên nhiên không có nổi văn các vua Nguyễn anh dũng chống ngoại xâm, xây dựng quốc gia giàu mạnh thế nào.Suy nghĩ về một bài ca dao và thái độ của người dân trước thời cuộc
Hồi còn nhỏ tôi được học một bài ca dao:

Báo vnamnet đưa tin biết ơn 300k lính tàu+ cả năm nay rồi, mày mới đẻ hôm qua àThể nào cũng có thằng con cháu nhà Nguyễn sẽ nhảy vào sủa 8keo dùng lính trung quốc, Nguyễn Huệ ác thế này thế nọ thế chai, văn 100% là vậy, tuyên nhiên không có nổi văn các vua Nguyễn anh dũng chống ngoại xâm, xây dựng quốc gia giàu mạnh thế nào.
![]()
Ý tao là topic về vua Nguyễn và Quang Trung thể nào cũng bị tụi nó bắc cầu qua những thứ không liên quan để bao biện cho lý lẽ của chúng nó. 300k lính, 30 lính hay 1 lính là truyện của 8keo, của 1 topic khác chúng ta bàn sau.Báo vnamnet đưa tin biết ơn 300k lính tàu+ cả năm nay rồi, mày mới đẻ hôm qua à![]()
Nhà Nguyễn vốn đi đầu trong việc áp dụng thành phương Tây vào phòng thủ rồi. Lúc đó công trình pháo đài thành quách của VN mạnh hơn nhà Thanh vài bậc.thằng này nói đúng nè,
Tụi mày nhìn TQ rồi nghĩ thành quách của VN cũng có tường cao, trên thành có lính giữ thành.
Sai hết nhé.
Thành của VN nó chỉ là hàng rào gồm các cọc tre trộn với đất và rơm sau đó trộn lại bao xung quanh khu dân cư, xung quanh là các kênh rạch, chỉ chừa 1 lối đi duy nhất vào thành là họ xây cổng bằng đá và gạch nhưng cũng cao 2 bậc chỉ tầm 3, 4m. Cổng không có cốt thép và xi măng kết dính nên cũng rất dễ ngã đỗ.
Cái cổng này để kiểm soát dòng người qua lại giữa các địa phương là chính, người Việt mình đào kênh rạch xung quanh làm tường thủ thành.
Bọn Pháp đi tới trước cổng bắn vài phát thôi thì cổng thành nó cũng sập.
t kỷ luật quân đội chứ sao nữa.Suy nghĩ về một bài ca dao và thái độ của người dân trước thời cuộc
Hồi còn nhỏ tôi được học một bài ca dao:
” Con cò đậu ở bờ tre/
Thằng Tây nó bắn cò què một chân/
Mai cò ra chợ Đồng Xuân/
Chú khách mới hỏi sao chân cò què/
Cò rằng tôi đứng bờ tre/
Thằng tây nó bắn tôi què một chân”
Bài ca dao này cứ ám ảnh tôi mãi, không phải vì nó có nội dung hay nghệ thuật đặc sắc gì mà vì thông điệp không rõ ràng của nó đối với người đọc. Tôi nhớ sách giáo khoa (không nhớ rõ lớp nào và năm nào) có giải thích: – qua nhân vật con cò tố cáo tội ác của giặc Pháp!
Tuy nhiên, ”con cò” ở đây không hề có thái độ thù hằn gì “Thằng tây” cả, thậm chí, cũng không thực sự đau buồn hay giận dữ!. Đổi lại, thái độ của ”cò” hoàn toàn dửng dưng: ”- cò rằng tôi đứng bờ tre/ thằng tây nó bắn tôi què một chân”! Hết!
Thái độ dửng dưng này là một dấu hỏi lớn trong tâm trí tôi suốt thời đi học. Sau này được tiếp cận một khối lượng lớn thông tin và qua suy xét của bản thân tôi dần dần nghiệm ra ý tứ sâu xa mà tác giả vô danh muốn gửi tới người đọc.
Bài ca dao trên gắn với một giai đoạn đau buồn trong lịch sử dân tộc, đó là khi thực dân Pháp xâm lược nước ta vào cuối thế kỷ XIX.
Xem lại lịch sử giai đoạn này, ngoài quyết tâm đánh pháp của Trương Công Định và các văn thân, sỹ phu với nhưng tấm gương hy sinh anh dũng (thực ra cả Triều đình Nhà Nguyễn cũng quyết tâm đánh Pháp) còn có các sự kiện khác mà người Việt Nam có lương tri nào khi xem lại cũng cảm thấy xấu hổ.
Chỉ có 120 binh lính Pháp do một đại úy chỉ huy cộng với vài chục lính mộ người Việt và người một số nước Châu Á khác đi theo hỗ trợ(10 người âu, 30 người châu á, 150 lính mộ Vân Nam) cùng với 08 khẩu pháo mà hạ thành Hà Nội do một vị đại tướng của Việt Nam chỉ huy với 7 ngàn quân, chỉ trong nháy mắt! (chưa đến 1 tiếng đồng hồ trong ngày 20/11/1873)
Đại úy Garnier yêu cầu nộp thành, ta không theo. Y ra lệnh công thành. Nên nhớ, quân ta đông gấp vài chục lần quân Pháp, lại là một dân tộc văn minh chứ không còn ở giai đoạn bán khai như người da đen ở châu Phi hay còn dùng công cụ đồ đá như người Azteca ở Mexico. Nếu xáp chiến thì chỉ cần dùng quả đấm cũng có thể đè bẹp quân Pháp. Nên nhớ vũ khí thời đó của quân Pháp cũng khá thô sơ. Tiếc thay, chỉ vài loạt đạn của quân Pháp quân ta vứt súng chạy như vịt còn trơ lại vị Tổng đốc bị thương. Con trai Cụ là Nguyễn Lân cũng bị bắn chết.
Các sự khiện tiếp theo còn bi thảm hơn. Ngày 05/12/1873, chỉ có 7 lính Pháp và 2 lính mộ đi ca nô đến thành Ninh Bình bắt quan tuần phủ và hạ thành; lúc đó trong thành có 1700 quân trấn giữ.
Chỉ có 50 lính pháp và một số lính mộ tấn công thành Nam Định có hàng ngàn quân. Việc quân Pháp dùng ngay các thanh chướng ngại làm thang leo lên mặt thành cũng đủ thấy sức kháng cự của quân ta không đáng kể. Thành Hải Dương còn thất thủ một cách khôi hài hơn. Chỉ có hơn hai chục lính pháp tấn công thành; táo tợn đến mức đu người lên cánh cửa để nhòm vào trong thành. Sau vài loạt đạn, lãnh binh Vi Văn Đông vội vàng bỏ trốn, quan binh thấy thế cũng trốn sạch. Quân Pháp phá cổng vào thành, thành mất.
3
Hạ thành Nam Định
Tại sao một dân tộc đã từng đánh thắng hàng vạn quân Tống, Nguyên, Minh, Thanh lại bạc nhược như vậy. Cũng vẫn dân tộc ấy thôi 80 năm sau, bằng vũ khí cũng kém hơn đã đánh bại chính đế quốc pháp trang bị tối tân hơn nhiều?!
Nhiều người cho rằng ta thua Pháp vì súng đạn ta không bằng Pháp. Điều đó không sai nhưng thực ra không hoàn toàn đúng. Súng đạn của quân Nhà Nguyễn cũng được nhập từ phương Tây và chỉ thua súng đạn của pháp một thế hệ. Thậm chí bằng lò rèn thủ công mà ông Cao Thắng ở núi rừng Vụ Quang còn chế tạo được gần giống súng của Pháp.
Ta thua pháp về tổ chức chiến tranh nhưng điều này có thể học hỏi và thay đổi được vì cuộc chiến tranh pháp – việt kéo dài 30 năm (1859 – 1888).
Nguyên nhân lớn nhất dẫn đến thất bại của người Việt Nam chính là sự thờ ơ của đa số người dân trước thời cuộc, trước vận mệnh của đất nước.
Trở lại bài ca dao, người dân ở đây được hình tượng hoá ở hình ảnh con cò. Cò ta đứng ở bờ tre để xem quan quân triều đình đánh nhau với Tây. Cò dửng dưng như người ngoài cuộc đứng xem một việc không liên quan đến mình. Không may ”thằng Tây” nó bắn phải ”cò”, thế thôi!
Người dân dửng dưng trước thời cuộc, trước nguy cơ mất nước vì xã hội Việt Nam đã chia rẽ sâu sắc. Nguyễn Hàn Ninh có bài thơ vịnh đèn kéo quân rất hay nói lên thực trạng của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ là:
” Một lũ ăn mày, một lũ quan/
Quanh đi quẩn lại chỉ một đoàn”
Thân phận người lính cũng vậy:
”Ngày thì canh điếm, tối dồn việc quan/
đẽo tre đẵn gỗ trên ngàn…”.
Các quan chỉ coi lính như lũ người hầu, làm việc không công: ”nước sông công lính”. Ngay các quan cũng chẳng quan tâm gì đến việc luyện tập, võ bị. Lực lượng vũ trang bị coi thường:
”Văn thì thất phẩm đã sang/
võ thì tứ phẩm còn mang gươm hầu”.
Tựu trung, quan lại là lũ người chỉ nghĩ đến mình, ra tay vơ vét, chiếm đoạt. Người dân đã nhìn rõ thực trạng này về hàng ngũ công chức bất tài, vô hạnh này:
”Khi bình làm hại dân ta/
Túi tham vơ vét chẳng tha thứ gì/
Đến khi hoạn nạn lâm nguy/
Mặt trông lơ láo, chân đi tập tềnh!”
Rồi:
” Đồn rằng quan tướng có danh/
Cưỡi ngựa một mình chẳng phải vịn ai”
Ông Ích Khiêm phải kêu lên:
” Áo chúa cơm vua hưởng bấy lâu/ Đến khi đánh giặc phải nhờ Tầu…”
Trong tình hình quan chức như vậy, người dân vừa khinh vừa ghét. ”Cò” không nói ra nhưng có khi còn hả hê trưóc cảnh quan quân bị Tây bắn, chạy như vịt:
”- Cho chúng mày chết!”
Một dân tộc đã chia rẽ như vậy thì mất nước là tất yếu!
Khác hẳn 600 năm trước khi giặc mạnh phương Bắc lăm le cướp nước, chính quyền đã mở hội nghị Diên Hồng để tạo sự đồng thuận toàn dân; mở hội nghị Bình Than để thống nhất ý chí của quý tộc.
Điều đó cho thấy, đối diện với nguy cơ mất nước càng cần đối thoại để thống nhấ ý chí. Muốn có đối thoại cần có sự tôn trọng lẫn nhau giữa các chủ thể trong xã hội. Điều này Nhà Nguyễn đã không làm được. Những vị vua dốt nát, yếu đuối và đội ngũ quan lại tham nhũng, bất tài, mua quan bán tước của nhà Nguyễn không thể nào trở thành hạt nhân đoàn kết dân tộc được nữa. Họ không làm được điều các quý tộc nhà Trần đã làm. Quý tộc Nhà Trần là những anh hùng, hào kiệt, con cháu của những người bình dân chài lưới mới chiếm được chính quyền từ tay Nhà Lý rệu rã bằng võ công và trí tuệ.
Giữa những trang hào kiệt:
” Một gánh càn khôn quẩy xuống ngàn/
Hỏi rằng chi đó bảo rằng than!”
Và lũ công chức tham nhũng, bạc nhược là khoảng cách rất xa về chất người.
Chúng ta vẫn có thể thua Pháp vì trình độ phát triển của họ lúc bấy giờ hơn hẳn ta nhưng thua như kiểu vua quan nhà Nguyễn là một nỗi nhục lớn lao mà không nên quên. Bởi vì nếu quên, nếu cố tình không sòng phẳng với lịch sử có thể dân tộc Việt Nam lại lặp lại sai lầm tương tự trong tương lai./.
Mày lấy bằng chứng cho tao xem?Nhà Nguyễn vốn đi đầu trong việc áp dụng thành phương Tây vào phòng thủ rồi. Lúc đó công trình pháo đài thành quách của VN mạnh hơn nhà Thanh vài bậc.
Thành Vauban. Mày tự tìm hiểu đi.Mày lấy bằng chứng cho tao xem?
Cả nước VN khi đó chỉ có Hà Nội, Huế, Gia Định là xây cổng thành đúng nghĩa nhưng so với nhà Thanh còn rất kém xa về công trình.
So với nhà Hán chưa chắc đã hơn. Còn các khu vực địa phương tỉnh lỵ còn lại thì mơ đi.
Tao nói thẳng ra VN thời xưa không có kỹ thuật xây dựng công trình nên xây dựng đơn giản, chiều cao công trình cũng rất khiêm tốn, không cao quá 15m.
Mày nhìn cái thành nhà Hồ là dễ thấy nhất.
Đừng đổ lỗi do chiến tranh nên không còn giữ di sản.
Tao gửi mày xem các cổng thành của bên TQ nó được xây trước đây từ 3000 đến 2000, 1000 năm để thấy VN đi sau TQ bao lâu:
![]()
Thành cổ Tương Dương có tuổi đời 2000 năm, giờ vẫn còn.
![]()
Tường thành cổ Tây An cách đây 1000 năm, giờ vẫn còn.
![]()
Thành cổ Bình Dao xây cách đây 3000 năm, giờ vẫn còn.
Trong sách sử VN ghi nhận chỉ có cổng Ngọ Môn ở Huế là đạt chiều cao tốt nhất từ trước đến nay thôi:
![]()
Tào lao. Pháp mạnh hơn VN gấp trăm lần về KHKT mà lại đi nói bào chữa VN chỉ thua Pháp một thế hệ. Với lại thời xưa vua là ý trời người dân chỉ là kẻ hầu người hạ thôi thì người dân làm gì phải quyết tâm bỏ mạng khi chưa hề nghĩ đến quốc gia là sở hữu của mình hay con cháu mình. Các từ quốc gia độc lập tự do sau này là các khái niệm của Tây chứ thời phong kiến Nho Giáo làm gì có những thứ này. Bài viết của bọn bôi nhọ nhà Nguyễn bằng cách dùng nhản quan hiện tại để đánh giá là rất ngây ngô và cố ý hạ thấp vai trò chống Pháp của nhà Nguyễn.Suy nghĩ về một bài ca dao và thái độ của người dân trước thời cuộc
Hồi còn nhỏ tôi được học một bài ca dao:
” Con cò đậu ở bờ tre/
Thằng Tây nó bắn cò què một chân/
Mai cò ra chợ Đồng Xuân/
Chú khách mới hỏi sao chân cò què/
Cò rằng tôi đứng bờ tre/
Thằng tây nó bắn tôi què một chân”
Bài ca dao này cứ ám ảnh tôi mãi, không phải vì nó có nội dung hay nghệ thuật đặc sắc gì mà vì thông điệp không rõ ràng của nó đối với người đọc. Tôi nhớ sách giáo khoa (không nhớ rõ lớp nào và năm nào) có giải thích: – qua nhân vật con cò tố cáo tội ác của giặc Pháp!
Tuy nhiên, ”con cò” ở đây không hề có thái độ thù hằn gì “Thằng tây” cả, thậm chí, cũng không thực sự đau buồn hay giận dữ!. Đổi lại, thái độ của ”cò” hoàn toàn dửng dưng: ”- cò rằng tôi đứng bờ tre/ thằng tây nó bắn tôi què một chân”! Hết!
Thái độ dửng dưng này là một dấu hỏi lớn trong tâm trí tôi suốt thời đi học. Sau này được tiếp cận một khối lượng lớn thông tin và qua suy xét của bản thân tôi dần dần nghiệm ra ý tứ sâu xa mà tác giả vô danh muốn gửi tới người đọc.
Bài ca dao trên gắn với một giai đoạn đau buồn trong lịch sử dân tộc, đó là khi thực dân Pháp xâm lược nước ta vào cuối thế kỷ XIX.
Xem lại lịch sử giai đoạn này, ngoài quyết tâm đánh pháp của Trương Công Định và các văn thân, sỹ phu với nhưng tấm gương hy sinh anh dũng (thực ra cả Triều đình Nhà Nguyễn cũng quyết tâm đánh Pháp) còn có các sự kiện khác mà người Việt Nam có lương tri nào khi xem lại cũng cảm thấy xấu hổ.
Chỉ có 120 binh lính Pháp do một đại úy chỉ huy cộng với vài chục lính mộ người Việt và người một số nước Châu Á khác đi theo hỗ trợ(10 người âu, 30 người châu á, 150 lính mộ Vân Nam) cùng với 08 khẩu pháo mà hạ thành Hà Nội do một vị đại tướng của Việt Nam chỉ huy với 7 ngàn quân, chỉ trong nháy mắt! (chưa đến 1 tiếng đồng hồ trong ngày 20/11/1873)
Đại úy Garnier yêu cầu nộp thành, ta không theo. Y ra lệnh công thành. Nên nhớ, quân ta đông gấp vài chục lần quân Pháp, lại là một dân tộc văn minh chứ không còn ở giai đoạn bán khai như người da đen ở châu Phi hay còn dùng công cụ đồ đá như người Azteca ở Mexico. Nếu xáp chiến thì chỉ cần dùng quả đấm cũng có thể đè bẹp quân Pháp. Nên nhớ vũ khí thời đó của quân Pháp cũng khá thô sơ. Tiếc thay, chỉ vài loạt đạn của quân Pháp quân ta vứt súng chạy như vịt còn trơ lại vị Tổng đốc bị thương. Con trai Cụ là Nguyễn Lân cũng bị bắn chết.
Các sự khiện tiếp theo còn bi thảm hơn. Ngày 05/12/1873, chỉ có 7 lính Pháp và 2 lính mộ đi ca nô đến thành Ninh Bình bắt quan tuần phủ và hạ thành; lúc đó trong thành có 1700 quân trấn giữ.
Chỉ có 50 lính pháp và một số lính mộ tấn công thành Nam Định có hàng ngàn quân. Việc quân Pháp dùng ngay các thanh chướng ngại làm thang leo lên mặt thành cũng đủ thấy sức kháng cự của quân ta không đáng kể. Thành Hải Dương còn thất thủ một cách khôi hài hơn. Chỉ có hơn hai chục lính pháp tấn công thành; táo tợn đến mức đu người lên cánh cửa để nhòm vào trong thành. Sau vài loạt đạn, lãnh binh Vi Văn Đông vội vàng bỏ trốn, quan binh thấy thế cũng trốn sạch. Quân Pháp phá cổng vào thành, thành mất.
3
Hạ thành Nam Định
Tại sao một dân tộc đã từng đánh thắng hàng vạn quân Tống, Nguyên, Minh, Thanh lại bạc nhược như vậy. Cũng vẫn dân tộc ấy thôi 80 năm sau, bằng vũ khí cũng kém hơn đã đánh bại chính đế quốc pháp trang bị tối tân hơn nhiều?!
Nhiều người cho rằng ta thua Pháp vì súng đạn ta không bằng Pháp. Điều đó không sai nhưng thực ra không hoàn toàn đúng. Súng đạn của quân Nhà Nguyễn cũng được nhập từ phương Tây và chỉ thua súng đạn của pháp một thế hệ. Thậm chí bằng lò rèn thủ công mà ông Cao Thắng ở núi rừng Vụ Quang còn chế tạo được gần giống súng của Pháp.
Ta thua pháp về tổ chức chiến tranh nhưng điều này có thể học hỏi và thay đổi được vì cuộc chiến tranh pháp – việt kéo dài 30 năm (1859 – 1888).
Nguyên nhân lớn nhất dẫn đến thất bại của người Việt Nam chính là sự thờ ơ của đa số người dân trước thời cuộc, trước vận mệnh của đất nước.
Trở lại bài ca dao, người dân ở đây được hình tượng hoá ở hình ảnh con cò. Cò ta đứng ở bờ tre để xem quan quân triều đình đánh nhau với Tây. Cò dửng dưng như người ngoài cuộc đứng xem một việc không liên quan đến mình. Không may ”thằng Tây” nó bắn phải ”cò”, thế thôi!
Người dân dửng dưng trước thời cuộc, trước nguy cơ mất nước vì xã hội Việt Nam đã chia rẽ sâu sắc. Nguyễn Hàn Ninh có bài thơ vịnh đèn kéo quân rất hay nói lên thực trạng của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ là:
” Một lũ ăn mày, một lũ quan/
Quanh đi quẩn lại chỉ một đoàn”
Thân phận người lính cũng vậy:
”Ngày thì canh điếm, tối dồn việc quan/
đẽo tre đẵn gỗ trên ngàn…”.
Các quan chỉ coi lính như lũ người hầu, làm việc không công: ”nước sông công lính”. Ngay các quan cũng chẳng quan tâm gì đến việc luyện tập, võ bị. Lực lượng vũ trang bị coi thường:
”Văn thì thất phẩm đã sang/
võ thì tứ phẩm còn mang gươm hầu”.
Tựu trung, quan lại là lũ người chỉ nghĩ đến mình, ra tay vơ vét, chiếm đoạt. Người dân đã nhìn rõ thực trạng này về hàng ngũ công chức bất tài, vô hạnh này:
”Khi bình làm hại dân ta/
Túi tham vơ vét chẳng tha thứ gì/
Đến khi hoạn nạn lâm nguy/
Mặt trông lơ láo, chân đi tập tềnh!”
Rồi:
” Đồn rằng quan tướng có danh/
Cưỡi ngựa một mình chẳng phải vịn ai”
Ông Ích Khiêm phải kêu lên:
” Áo chúa cơm vua hưởng bấy lâu/ Đến khi đánh giặc phải nhờ Tầu…”
Trong tình hình quan chức như vậy, người dân vừa khinh vừa ghét. ”Cò” không nói ra nhưng có khi còn hả hê trưóc cảnh quan quân bị Tây bắn, chạy như vịt:
”- Cho chúng mày chết!”
Một dân tộc đã chia rẽ như vậy thì mất nước là tất yếu!
Khác hẳn 600 năm trước khi giặc mạnh phương Bắc lăm le cướp nước, chính quyền đã mở hội nghị Diên Hồng để tạo sự đồng thuận toàn dân; mở hội nghị Bình Than để thống nhất ý chí của quý tộc.
Điều đó cho thấy, đối diện với nguy cơ mất nước càng cần đối thoại để thống nhấ ý chí. Muốn có đối thoại cần có sự tôn trọng lẫn nhau giữa các chủ thể trong xã hội. Điều này Nhà Nguyễn đã không làm được. Những vị vua dốt nát, yếu đuối và đội ngũ quan lại tham nhũng, bất tài, mua quan bán tước của nhà Nguyễn không thể nào trở thành hạt nhân đoàn kết dân tộc được nữa. Họ không làm được điều các quý tộc nhà Trần đã làm. Quý tộc Nhà Trần là những anh hùng, hào kiệt, con cháu của những người bình dân chài lưới mới chiếm được chính quyền từ tay Nhà Lý rệu rã bằng võ công và trí tuệ.
Giữa những trang hào kiệt:
” Một gánh càn khôn quẩy xuống ngàn/
Hỏi rằng chi đó bảo rằng than!”
Và lũ công chức tham nhũng, bạc nhược là khoảng cách rất xa về chất người.
Chúng ta vẫn có thể thua Pháp vì trình độ phát triển của họ lúc bấy giờ hơn hẳn ta nhưng thua như kiểu vua quan nhà Nguyễn là một nỗi nhục lớn lao mà không nên quên. Bởi vì nếu quên, nếu cố tình không sòng phẳng với lịch sử có thể dân tộc Việt Nam lại lặp lại sai lầm tương tự trong tương lai./.
Thời nhà Nguyễn kiến trúc thành Vauban mới là đỉnh cao quân sự, hầu hết mọi tp quan trọng ở Vnam đều còn dấu tích. Chứ thành quách tàu cộng to lớn dực dỡ nhưng kiểu ktruc vuông 4 cổng thời đồ đá, đại bác tây dương nó bắt sập trong 1 buổi.Mày lấy bằng chứng cho tao xem?
Cả nước VN khi đó chỉ có Hà Nội, Huế, Gia Định là xây cổng thành đúng nghĩa nhưng so với nhà Thanh còn rất kém xa về công trình.
So với nhà Hán chưa chắc đã hơn. Còn các khu vực địa phương tỉnh lỵ còn lại thì mơ đi.
Tao nói thẳng ra VN thời xưa không có kỹ thuật xây dựng công trình nên xây dựng đơn giản, chiều cao công trình cũng rất khiêm tốn, không cao quá 15m.
Mày nhìn cái thành nhà Hồ là dễ thấy nhất.
Đừng đổ lỗi do chiến tranh nên không còn giữ di sản.
Tao gửi mày xem các cổng thành của bên TQ nó được xây trước đây từ 3000 đến 2000, 1000 năm để thấy VN đi sau TQ bao lâu:
![]()
Thành cổ Tương Dương có tuổi đời 2000 năm, giờ vẫn còn.
![]()
Tường thành cổ Tây An cách đây 1000 năm, giờ vẫn còn.
![]()
Thành cổ Bình Dao xây cách đây 3000 năm, giờ vẫn còn.
Trong sách sử VN ghi nhận chỉ có cổng Ngọ Môn ở Huế là đạt chiều cao tốt nhất từ trước đến nay thôi:
![]()
