Đạo lý Tất cả các trường phái triết học/ hệ tư tưởng tiêu biểu trên thế giới

Triết học và Trí tuệ (Philosophy and Wisdom)

I. Triết học là gì?

1) Khái quát :


Từ "triết học" (philosophy) theo nghĩa đen là "tình yêu" (philo trong tiếng Hy Lạp) của "hiền triết" (sophia).
Vì vậy, một triết gia là người yêu thích triết học.

Điều này, tất nhiên, để lại cho chúng ta 2 câu hỏi quan trọng:

1) Triết học là gì?
2) Và yêu thích triết học nghĩa là gì?

Ý tưởng về triết học bắt nguồn từ Hy Lạp cổ đại. Người ta nói rằng nhà triết học Pythagoras vào thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên là người đầu tiên tự gọi mình là một triết gia - một philosophos hoặc "người yêu thích triết học". Bằng cách tự gọi mình như vậy, ông không tuyên bố mình là người khôn ngoan. Thay vào đó, ông chỉ đơn giản nói rằng ông là người coi trọng hoặc yêu quý triết học.

Sau đó, nhà triết học Plato, sống vào thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên, đã khám phá sâu hơn những ý tưởng này. Trong một văn bản gọi là Symposium, Plato tuyên bố rằng một triết gia là người "nằm giữa người khôn ngoan và kẻ ngu dốt". Nói cách khác, một triết gia quan tâm đến triết học nhưng cũng biết rằng họ không biết (chúng ta sẽ thấy ngày mai Plato đã bị ảnh hưởng bởi Socrates, thầy của ông như thế nào).

Một cách chính xác, thuật ngữ "philosophy" có nghĩa là "tình yêu với sự khôn ngoan" (love of wisdom).

Theo nghĩa rộng, triết học là một hoạt động mà con người thực hiện khi họ tìm cách hiểu các chân lý cơ bản về chính mình, thế giới mà họ đang sống, và mối quan hệ của họ với thế giới và với những người khác.

2) Tư duy khôn ngoan, sống khôn ngoan

Các triết gia mà chúng ta sẽ khám phá trong những ngày tới có những cách tiếp cận khác nhau đối với câu hỏi triết học là gì và làm thế nào để chúng ta có thể trở nên khôn ngoan.

Một số triết gia thực tế hơn, tập trung nhiều hơn vào những gì chúng ta làm.

Những người khác mang tính lý thuyết hơn và vật lộn với những câu hỏi về những gì chúng ta biết.

Trong khóa học này, chúng ta sẽ khám phá cả hai loại câu hỏi. Chúng ta sẽ xem xét làm thế nào chúng ta có thể tư duy khôn ngoan hơn và làm thế nào chúng ta có thể sống khôn ngoan hơn.

Ở khía cạnh học thuật, triết học cũng tương tự như vậy. Những người nghiên cứu triết học thường xuyên đặt ra, trả lời và tranh luận cho các câu trả lời về những câu hỏi cơ bản nhất của cuộc sống. Để làm cho sự theo đuổi này trở nên có hệ thống hơn, triết học học thuật thường được chia thành các lĩnh vực nghiên cứu chính.

II. Các lĩnh vực nghiên cứu chính.

1)Siêu hình học

Ở cốt lõi, nghiên cứu siêu hình học là nghiên cứu về bản chất của thực tại, những gì tồn tại trong thế giới, bản chất của chúng, và cách chúng được sắp xếp. Trong siêu hình học, các triết gia đặt ra các câu hỏi như:

  • Có Thượng đế hay không?
  • Sự thật là gì?
  • Con người là gì? Điều gì làm cho một người vẫn là họ qua thời gian?
  • Thế giới chỉ bao gồm vật chất hay không?
  • Con người có tâm trí không? Nếu có, tâm trí liên quan đến cơ thể như thế nào?
  • Con người có ý chí tự do không?
  • Điều gì làm cho một sự kiện gây ra một sự kiện khác?

2) Nhận thức luận

Nhận thức luận là ngành nghiên cứu về tri thức. Nó chủ yếu quan tâm đến việc chúng ta có thể biết gì về thế giới và làm thế nào để biết điều đó. Những câu hỏi thường gặp trong nhận thức luận bao gồm:

  • Tri thức là gì?
  • Chúng ta có biết điều gì không?
  • Làm thế nào chúng ta biết những gì mình biết?
  • Chúng ta có thể biện minh khi khẳng định biết một số điều hay không?

3) Đạo đức học

Nghiên cứu đạo đức thường liên quan đến những gì chúng ta nên làm và những gì là tốt nhất để làm. Khi đối mặt với những vấn đề này, các câu hỏi lớn hơn về điều gì là tốt và đúng sẽ nảy sinh. Các nhà đạo đức học cố gắng trả lời những câu hỏi như:

  • Điều gì là tốt? Điều gì làm cho hành động hay con người trở nên tốt?
  • Điều gì là đúng? Điều gì làm cho một hành động đúng đắn?
  • Đạo đức là khách quan hay chủ quan?
  • Tôi nên đối xử với người khác như thế nào?

4) Logic học

Một khía cạnh quan trọng khác của triết học là các lập luận hoặc lý do được đưa ra cho các câu trả lời đối với những câu hỏi này. Để làm điều đó, các triết gia sử dụng logic để nghiên cứu bản chất và cấu trúc của lập luận. Các nhà logic học đặt ra các câu hỏi như:

  • Điều gì tạo nên lập luận "tốt" hoặc "xấu"?
  • Làm thế nào để chúng ta xác định xem một lập luận cụ thể là tốt hay xấu?

III. Lịch sử triết học


Việc nghiên cứu triết học không chỉ liên quan đến việc hình thành câu trả lời của riêng mình mà còn tìm hiểu cách những người khác trong quá khứ đã trả lời các câu hỏi tương tự. Do đó, một phần quan trọng của triết học là lịch sử của nó, lịch sử của các câu trả lời và lập luận về những câu hỏi này.

Khi nghiên cứu lịch sử triết học, chúng ta khám phá các ý tưởng của những nhân vật nổi tiếng như:


  • Plato
  • Aristotle
  • Aquinas
  • Descartes
  • Locke
  • Hume
  • Kant
  • Nietzsche
  • Marx
  • Mill
  • Wittgenstein
  • Sartre

IV. Các lĩnh vực triết học liên ngành

Điều thường thúc đẩy nghiên cứu triết học không chỉ là các câu trả lời hay lập luận, mà còn là việc xem liệu lập luận có tốt và câu trả lời có đúng không. Ngoài ra, nhiều câu hỏi và vấn đề trong các lĩnh vực triết học khác nhau thường giao nhau và thậm chí hội tụ. Vì vậy, các câu hỏi triết học có thể xuất hiện trong hầu hết mọi ngành học.

Đây là lý do tại sao triết học còn bao gồm các lĩnh vực như:

  • Triết học luật
  • Triết học nữ quyền
  • Triết học tôn giáo
  • Triết học khoa học
  • Triết học tâm trí
  • Triết học văn học
  • Triết học chính trị
  • Triết học nghệ thuật
  • Triết học lịch sử
  • Triết học ngôn ngữ


V. Tóm lại :

Triết học là một cách suy nghĩ về những chủ đề nhất định như đạo đức, tư duy, sự tồn tại, thời gian, ý nghĩa và giá trị. “Cách suy nghĩ” này bao gồm 4 yếu tố: phản ứng, phản chiếu, lý trí và đánh giá lại. Mục đích là làm sâu sắc sự hiểu biết. Hy vọng là thông qua việc làm triết học, chúng ta học cách suy nghĩ tốt hơn, hành động khôn ngoan hơn, và từ đó góp phần cải thiện chất lượng cuộc sống của tất cả chúng ta.
 
Có thể mày sẽ đúng :-" Vì thời đại này cũng chỉ vừa mới bước ra khỏi ww2 tầm vài chục năm thôi :-"
Cái kí ức về thời thiếu ăn thiếu ỉa vẫn còn, nên đâu đó dân vẫn còn khoái ăn, khoái nếm, khoái thịt thà bánh trái
Còn nếu tầm 50, 100 năm sau, tao tin rằng, thế hệ 10x, 11x, sẽ ăn đầy đủ các loại thực phẩm thơm ngon trên đời dù là ở tầng lớp nghèo, tới mức ngán ngẩm, mã Gene của bọn này sẽ ghi nhớ và truyền sang mấy thằng con của thế hệ 12x, 13x


Khi được sịnh ra, các cháu bé 12,13x sẽ cảm thấy đéo ham muốn gì việc ăn uống nữa, ăn lúc đó chỉ là để duy trì cuộc sống => ko quá tham ăn=> sẽ tạo ra 1 thế hệ fitness, thích tập thể dục, ko bị mập địt, tiến dần tới 1 thế giới toàn người thanh cao, đẹp trai cặc to, đẹp gái eo thon => và vì xinh đẹp nên ai nấy cũng sẽ văn minh, ko muốn ai đụng chạm hay ganh đua ai, khi ấy cái đẹp sẽ là giá trị đo sự đạo đức, chứ ko phải tiền bạc :-"


Và tất cả sẽ hòa bình ko hề có chiến tranh nữa, và vì thế ko cần phải đổ hết tiền vào để mua đạn dược nữa, công việc sẽ bớt lại, giá cả của mọi goods sẽ rẻ đi, cứ thế, 1 thế giới thiên đường sẽ mở ra, mỗi ngày làm 4h/ ngày, thành phố chỗ nào cũng sạch đẹp, ko còn ai tham lam, ko còn ai sân si, vì ai cũng đẹp =)) Mày thấy chủ nghĩa của tao lí tưởng ko
Cháu nhà em nó bỏ ăn cơm luôn toàn uống trà sữa ăn snack thôi nói nó không nghe hzza
 
Chủ nghĩa tiêu dùng... cái mà tao coi là mạnh vcl.
Hơn nữa, nếu xếp chủ nghĩa Marx thì sao không liệt kê chủ nghĩa tư bản. Marx, theo Karl Popper, thuộc về chủ nghĩa lịch sử.
Nếu nói về hiện tượng học thì nên thêm chủ nghĩa duy vật và duy tâm.
 
Hai nhà tư tưởng lớn giải thích tư tưởng của Khổng Tử là Mạnh Tử (372-289 TCN) và Tuân Tử (310-220 TCN).

Mạnh Tử cho rằng bản chất con người là tốt (nhân chi sơ tính bản thiện).

Trong khi Tuân Tử cho rằng con người sinh ra là xấu (nhân chi sơ tính bản á
c) và cần được giáo dục để cải thiện.
 
Sẽ thực sự quan trọng khi nhấn mạnh rằng các luồng tư tưởng và chủ nghĩa ấy không phải là riêng biệt. Sẽ rất thú vị nếu phân tích xem cách các tư tưởng ấy tương tác với nhau. Nhắc nhẹ đạo hữu về phạm võng kinh. @dungdamchemnhau
Riêng Phạm Võng là đã giải quyết xong phần II ở #1
 
Bộ môn này cao siêu quá, t mới chỉ biết đc tí chút
Với bò đỏ thì kiến thức nhân loại và những người đáng tôn trọng chỉ nhiêu đây :

7vBpp2aL.jpeg
 
7. Phật giáo
(Buddhism)

1. Giới thiệu về Phật giáo

Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài, trở thành các tu sĩ nam và nữ hoặc các đệ tử cư sĩ. Trong một thời gian dài như thế và với rất nhiều đệ tử có nhiều nguồn gốc khác nhau, Ngài đã để lại một kho tàng các lời giảng quý báu với nhiều chủ đề, công dụng khác nhau. Tuy nhiên, cốt tủy của các lời giảng đó lúc nào cũng giống nhau:

--"Nầy chư Tỳ kheo, bây giờ cũng như trước đây, Như Lai chỉ dạy về Khổ và Con đường Diệt khổ".


2. Đức Phật

a) Khái niệm Đức Phật (Buddha) :


Danh từ "Buddhism" là một danh từ phương Tây dùng để gọi tập hợp các lời dạy của Đức Phật, để gọi một tôn giáo xây dựng trên nền tảng của các lời dạy đó. Tuy nhiên, tại các quốc gia Nam Á và Đông Nam Á, danh từ nguyên thủy thường dùng là "Buddha-Sasana", có nghĩa là lời dạy của Đức Phật, hay Phật Giáo.

"Buddha", Phật-đà, không phải là tên riêng. Đó là một quả vị, có nghĩa là người Giác ngộ (Giác giả), người Tỉnh thức, hoặc là người Biết như thật. Tên riêng của Đức Phật là Sĩ-đạt-đa Cồ-đàm (Siddhattha Gotama).

Tuy nhiên, ngày nay có rất ít người dùng tên gọi nầy. Chúng ta thường gọi Ngài là Đức Phật, hoặc Đức Phật Cồ-đàm.

b) Sơ lược cuộc đời Đức Phật :

Trước khi xuất gia :
Đức Phật sống vào khoảng 25 thế kỷ trước tại vùng Bắc Ấn độ. Ngài sinh ra là một vị hoàng tử của vương quốc Thích-ca (Sakya) tại vùng chân núi Hy mã lạp sơn, ngày nay thuộc nước Nepal. Ngài sống trong nhung lụa, có một thời niên thiếu cao sang, kết hôn với công chúa Da-du-đà-la (Yasodhara), và có một người con trai tên là La-hầu-la (Rahula).

Đời sống nhung lụa đó không che được mắt của một người hiền triết và thông minh như Ngài. Mặc dù vị vua cha đã gắng công tạo các thú vui giải trí để Ngài đắm say vào các cảnh vui sướng trong hoàng cung, Ngài Sĩ-đạt-đa cũng bắt đầu nhận thức được bề mặt đen tối của cuộc đời, nỗi khổ đau của đồng loại và tính chất vô thường của mọi sự việc.

Một lần nọ, khi Ngài đánh xe ngựa dạo chơi trên đường phố, Ngài thấy được bốn cảnh vật làm thay đổi các tư duy của Ngài. Ngài thấy một cụ già run rẩy, một người bệnh rên siết, và một tử thi sình thối. Ba cảnh nầy khiến Ngài suy nghĩ rất nhiều và quyết tâm tìm một phương cách để giúp nhân loại và để tìm một ý nghĩa chân thật của đời sống. Cảnh vật thứ tư là cảnh của một vị du tăng bình an tĩnh lặng đã khiến cho Ngài có một niềm hy vọng là đó có thể là một con đường để tìm ra Chân Lý, thoát khỏi hoạn khổ.

Sau khi xuất gia :

Vào lúc 29 tuổi, thái tử Sĩ-đạt-đa rời hoàng cung, rời gia đình vợ con, gia nhập đời sống của một đạo sĩ khất thực trong 6 năm, đi tìm con đường diệt khổ. Vào đêm trăng rằm tháng Tư, khi ngồi thiền dưới cội cây Bồ đề ở Gaya, Ngài tìm được lời giải đáp và giác ngộ. Lúc đó, Ngài được 35 tuổi. Đấng Giác Ngộ giờ đây được gọi là Đức Phật. Ngài đi đến Sa-nặc ( Sarnath) gần thành phố Ba-na-lại (Benares) và thuyết giảng bài pháp đầu tiên - Chuyển Pháp Luân - tại khu vườn nai (Lộc Uyển). Trong 45 năm tiếp theo, Ngài du hành từ nơi nầy sang nơi khác, giảng dạy về con đường giác ngộ cho những ai hữu duyên và sẵn sàng tu học, và Ngài thành lập một giáo đoàn các vị tỳ kheo (nam tu sĩ) và tỳ kheo ni (nữ tu sĩ) thường được gọi là Tăng đoàn (Sangha).

Trong suốt cuộc đời hoằng hóa, dù phải đối phó với nhiều trở ngại, Đức Phật lúc nào cũng giữ một phong thái an nhiên tự tại, và ngay cả trong giờ phút lâm chung, Ngài vẫn bình thản cho dù thân xác đã suy yếu. Ngay trong giờ phút cuối cùng đó, Ngài vẫn tiếp tục giảng dạy và khuyên bảo các đệ tử để họ tiếp tục tu tập theo giáo pháp của Ngài: --"Nầy các tỳ kheo, Như Lai khuyên quý vị rằng mọi pháp hữu vi đều vô thường, quý vị hãy tinh tấn với chánh niệm". Đó là những lời cuối cùng của đức Phật, và Ngài nhập diệt vào năm 80 tuổi, trong năm 543 trước Công Nguyên.

Mặc dù giờ đây đã hơn 2 500 năm từ khi Đức Phật nhập Đại Niết bàn, lời dạy của Ngài, hay là Phật Pháp (Dhamma), vẫn còn hữu ích cho chúng ta và Giáo Pháp đó chính là vị Thầy của chúng ta. Tăng đoàn là cộng đồng những người quyết tâm học hỏi, thực hành và truyền dạy Chánh Pháp, đã nhận ngọn đuốc từ vị Thầy khai sáng và tiếp tục truyền giữ ngọn đuốc đó qua nhiều quốc độ và nhiều thế kỷ.


c) Tam Bảo là gì :

- Đức Phật, người khai sáng đạo

- Pháp, lời dạy của Ngài;

- Tăng, cộng đồng các tu sĩ

Cả 3 được gọi là Tam Bảo mà các Phật tử tôn kính, và cũng là Ba Nơi Nương Tựa (Tam Quy Y) để hướng dẫn người con Phật trên Con đường đưa đến hạnh phúc và an lành tối hậu.

Mỗi năm, vào ngày rằm tháng Tư âm lịch (ngày Vesakha), hằng triệu tín đồ Phật giáo -- trong truyền thống Nguyên thủy -- trên toàn thế giới cùng nhau cử hành đại lễ Tam Hợp, kỷ niệm ngày sinh (Phật Đản), ngày Thành Đạo, và ngày Đại Niết Bàn của người Cha Lành kính yêu.

3. Căn bản đạo Phật

Các ý tưởng chính yếu của đạo Phật được thu gồm trong Bốn Sự Thật Cao Quý (Tứ Diệu Đế) và Con Đường Trung Dung (Trung Đạo) mà Đức Phật đã giảng trong bài pháp đầu tiên tại vườn nai sau ngày thành đạo.

Bốn sự thật đó là: Khổ - Tập - Diệt - Đạo

1. Sự thật về Khổ (Khổ đế):

Đây là sự thật về các vấn đề của đời sống, qua sinh, già, bệnh, và chết, và những ưu sầu, thất vọng. Dĩ nhiên những điều nầy là bất toại ý và người ta luôn cố gắng tránh né, không muốn dính vào chúng.

Hơn thế, tất cả những việc gì trên đời, do các điều kiện mà có, thường có mầm mống đau khổ vì chúng không thường tồn, chỉ tạm bợ, xung khắc và giả tạo, không có một chủ thể lâu bền. Chúng tạo sầu khổ và thất vọng cho những ai vì vô minh mà chấp chặt vào chúng.

Những ai muốn tự do thoát khỏi các khổ đau cần có một thái độ đúng đắn, một tri kiến và trí tuệ để nhìn mọi sự vật trên đời. Cần phải học tập để nhận định sự vật đúng theo bản chất của chúng. Các sự cố bất toại ý của đời sống cần phải được quán sát, nhận định và thông hiểu.

2. Sự thật về Nguồn gốc của Khổ (Tập đế):

Trong sự thật nầy, Đức Phật quán xét và giải thích sự khởi sinh của hoạn khổ từ nhiều nguyên nhân và điều kiện.

Đây là sự thật sâu xa về luật Nhân-Quả và Duyên Nghiệp.

Tất cả các loại hoạn khổ trên đời đều bắt nguồn từ lòng tham thủ, và các tham muốn ích kỷ đều bắt nguồn từ si mê, vô minh.

Vì không biết rõ bản chất thật sự của mọi đối tượng trên đời nên con người tham muốn chiếm đoạt và làm nô lệ chấp chặt vào chúng.

Vì các tham muốn đó không bao giờ được thỏa mãn và qua những phản ứng không thích nghi, họ lại tạo ra sự buồn khổ và thất vọng cho chính họ. Từ các tham thủ biểu hiện qua lời nói, cử chỉ hoặc trong tâm ý, họ tạo ra các nghiệp hành gây đau khổ cho chính họ và cho người khác, và đau khổ đó ngày càng chồng chất.

3. Sự thật về sự Diệt Khổ (Diệt đế):

Đây là sự thật về mục đích của người con Phật. Khi vô minh hoàn toàn được phá tan qua trí tuệ chân thật và khi lòng tham thủ và ích kỷ bị hủy diệt và thay thế bằng thái độ đúng đắn của từ bi và trí tuệ, Niết Bàn -- trạng thái của an bình tối hậu, hoàn toàn giải thoát khỏi mọi khổ đau và lậu hoặc -- sẽ được thực chứng.

Đối với những ai vẫn còn đang tu tập, chưa đến giải thoát rốt ráo, họ sẽ thấy rằng khi sự vô minh và tham thủ được giảm thiểu thì các phiền não cũng theo đó mà giảm thiểu. Khi đời sống của họ được hướng về từ bi và trí tuệ, đời sống đó sẽ tạo ra nhiều hạnh phúc và an lành cho chính họ và những người chung quanh.

4. Sự thật về Con đường đưa đến tận diệt Khổ đau (Đạo đế):

Đây là sự thật về con đường hành đạo của mọi Phật tử, là đường hướng sinh hoạt của người con Phật, bao gồm các căn bản chính yếu của lời Phật dạy và đường lối thực hành để tiến đến Niết Bạn, giải phóng khỏi mọi ràng buộc vào cuộc sống luân hồi trong thế gian.

Con đường nầy gọi là Con Đường Tám Chánh (Bát Chánh Đạo)

Gồm có 8 yếu tố chân chánh và chia thành 3 nhóm (Tam vô lậu học, 3 nhóm học để diệt trừ phiền não):

- Giới: Chánh ngữ, Chánh nghhiệp, Chánh mạng

- Định: Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định

- Tuệ: Chánh kiến, Chánh tư duy

Theo sự thật nầy, một đời sống tốt đẹp không phải chỉ do gắng công cải thiện các yếu tố ngoại vi liên quan đến xã hội và thiên nhiên. Cần phải phối hợp với sự tu tập và cải thiện bản thân như trình bày qua Bát Chánh Đạo, có liên quan đến việc giữ gìn giới hạnh, huân tập tâm ý, và khai phát trí tuệ.

Nói cách khác:

- Không làm điều gì gây đau khổ cho mình và cho người khác;

- Nuôi dưỡng điều thiện tạo an vui cho cá nhân và cho mọi người; và

- Thanh lọc tâm ý, loại trừ những bợn nhơ của tham lam, sân hận, và si mê.

Con đường Tám Chánh nầy gọi là Trung Đạo, vì đây là một đường lối thăng bằng, không có những cực đoan của sự hành hạ xác thân hoặc nô lệ dục lạc. Đây là con đường duy nhất để giác ngộ giải thoát. Đức Phật dạy rằng nơi nào các đệ tử của Ngài luôn gắng công hành trì trên con đường nầy thì nơi đó sẽ không bao giờ thiếu vắng các bậc thánh trí giác ngộ. Sự phân tích thành 8 yếu tố hoặc 3 nhóm tu học là để cho dễ hiểu. Tuy nhiên, các yếu tố đó cần phải được hành trì đồng đều - không thiếu sót một yếu tố nào - để bổ sung, hỗ trợ cho nhau, thì con đường đó mới trọn vẹn và mang đến ích lợi, giải thoát thật sự.

Trên đây là một thái độ sống của đạo Phật, một con đường rộng mở cho tất cả mọi người, không phân biệt màu da, giới tính, giai cấp.

Đức Phật tuyên bố rằng mọi người đều bình đẳng, và chỉ được đánh giá qua hành động và phong cách của họ, qua những gì họ suy nghĩ và thực hành, không phải qua màu da và quê quán. :

- Mỗi người lãnh chịu hậu quả về hành động của mình theo luật nhân quả.

- Mỗi người là chủ của mình. Con đường tu học là con đường tự nỗ lực, không cần các điều cầu xin thần linh hay mê tín dị đoan.

- Con người có khả năng cải thiện cho đời sống của chính họ và đạt đến mục đích tối hậu qua các cố gắng tinh tấn của chính họ.

Ngay cả Đức Phật cũng không bao giờ tuyên bố Ngài là đấng cứu rỗi. Ngài chỉ là người tìm ra Con đường giải thoát, và Ngài chỉ dạy cho chúng ta về con đường đó. Ngài hướng dẫn và khuyến tấn chúng ta, nhưng chúng ta phải tự mình tiến bước trên con đường đó. Khi ta tiến bước được trên những chặng đường thì ta có thể khuyến khích và hướng dẫn những người bạn đồng hành của ta.

Cho những ai đang đi trên con đường thanh lọc bản thân, Đức Phật dạy rằng tri thức và trí tuệ là chìa khóa quan yếu. Trí tuệ chỉ có thể được khai phát qua hành trì thiền quán. Hành giả cần phải quán soi thâm sâu vào nội tâm, để trạch vấn và thông hiểu cho chính mình.

Các nguyên tắc của đạo Phật là phải tự mình chứng ngộ, chứ không phải những giáo điều để mù quáng tin theo.

Phương pháp Đức Phật dạy qua Tứ Diệu Đế có thể xem như là những lời dạy của một vị y sĩ: định bệnh (Khổ đế), xác định nguyên nhân của bệnh (Tập đế), mô tả trạng thái khi lành bệnh (Diệt đế), và cách thức trị bệnh (Đạo đế).

Có rất nhiều người ưa thích bàn luận, dò đoán, bình giải về các lời dạy của Đức Phật, qua lăng kính triết lý, luận lý, tâm lý, tâm linh, v.v. Tuy nhiên, đó chỉ là những kiến thức đầu tiên, phiến diện, qua sách vở và suy luận, thường gọi là Văn huệ và Tư huệ.

Thêm vào đó, đạo Phật cần phải được thực chứng để phát triển trí tuệ thật sự, gọi là Tu huệ, chứ không phải chỉ để lý luận, tranh cãi suông. Đạo Phật là những hướng dẫn để chúng ta thực hành, tu tập thanh lọc tâm ý, để chúng ta thấy được lợi ích qua kinh nghiệm thực tế của chính bản thân trong đời sống hằng ngày. Đức Phật đã từng dạy rằng:

--"Giáo pháp của Như Lai được giảng rõ ràng, để thực chứng với kết quả hiện tiền, vượt thời gian, mời mọi người đến xem, đưa đến giải thoát, được người trí thông hiểu, tự mỗi người phải thực hiện cho chính mình".
 
7. Phật giáo (tt)
(Buddhism)

4. Giáo lý của Đạo Phật

“Giáo Pháp mà Như Lai đã Chứng Ngộ quả thật thâm diệu,khó Nhận thức, khó lãnh hội, vắng lặng, cao siêu, không nằm trongphạm vi luận lý, tinh tế, chỉ có bậc Thiện Trí mới thấu hiểu”.

-- Trung Bộ Kinh

1) Tam Tạng Kinh Điển (Tipiṭaka)

Đức Phật đã nhập diệt, nhưng Giáo Lý cao siêu mà Ngài đã dày công hoằng dương trong bốn mươi lăm năm trường vẫn còn lưu lại đến ngày nay cho nhân loại, trọn vẹn, đầy đủ, và hoàn toàn tinh túy.

Mặc dầu Giáo Huấn của Đức Thế Tôn không được ghi chép ngay lúc bấy giờ trên giấy trắng mực đen, các vị đệ tử của Ngài luôn luôn nhuần nhã nằm lòng và truyền khẩu từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Kiết tập Kinh điển lần 1 :

- Ba tháng sau khi Đức Phật nhập Níp-bàn (Niết Bàn), vào năm thứ tám triều đại Ajātasattu (A Xà Thế), năm trăm vị đại đệ tử Vô Sanh (A La Hán) của Ngài kết hợp lần đầu tiên tại Rājagaha (Vương Xá) để nhắc lại những Phật Ngôn quý báu. Đức Ānanda - vị đệ tử trung thành đã được diễm phúc luôn luôn ở bên cạnh Đức Thế Tôn và hân hạnh được nghe tất cả Giáo Huấn của Ngài - và Đức Upāli, được chọn đứng lên trả lời những câu hỏi.

Đức Ānanda, được đề cử trình bày những lời kinh (Sutta), Đức Upāli về những vấn đề có liên quan đến Giới Luật (Vinaya), và cả hai vị luân phiên trả lời các câu hỏi về phần Vi Diệu Pháp (Abhidhamma), Giáo Lý cao siêu. Đó là lần kết tập đầu tiên, tập trung toàn thể Giáo Lý của Đức Phật và sắp xếp rành mạch thành ba Tạng (Tam Tạng: Tạng Luật, Tạng Kinh và Tạng Vi Diệu Pháp ).

Kiết tập Kinh điển lần 2 & 3 :

Vì có những khuynh hướng làm sai lạc Giáo Pháp nên sau đó hai lần, một trăm năm và hai trăm ba mươi sáu năm, các vị Vô Sanh (A La Hán) lại kết tập lần thứ nhì và thứ ba để đọc lại Phật Ngôn.

Vào khoảng năm 83 trước D.L., dưới triều vua Vaṭṭagāmani Abhaya xứ Sri Lanka (Tích Lan), các vị Vô Sanh (A La Hán) lại kết tập một lần nữa tại Aluvihara, một ấp nhỏ của đảo Sri Lanka (Tích Lan), lối 30 cây số cách Kandy. Tại đây, lần đầu tiên trong lịch sử Phật Giáo, Tam Tạng Pāli được ghi chép trên lá buông nhờ sự cố gắng liên tục và tầm mắt thấy xa của chư vị Đại Đức Vô Sanh (A La Hán).

Đến ngày nay, và trong tương lai, không có lý do nào để chỉ trích, và cũng không thể nào các học giả tân tiến làm sai lạc tánh cách trong trắng của Giáo Lý thuần túy.

Giáo lý Nguyên Thủy :

Kể về lượng, ba Tạng (Tipiṭaka), gồm trọn vẹn Giáo Lý của Đức Phật, bằng mười một lần quyển Thánh Kinh của Ki-tô Giáo.


Pāli ngữ Tipiṭaka (Bắc Phạn: Tripiṭaka) có nghĩa là ba cái giỏ.

Ba cái giỏ ấy là:

- Giỏ đựng Luật (Vinaya Piṭaka)

- Giỏ đựng Kinh (Sutta Piṭaka)

- Giỏ đựng Vi Diệu Pháp ( Abhidhamma Piṭaka)

Tức ba Tạng: Luật, Kinh và Vi Diệu Pháp

a) Tạng Luật (Vinaya Piṭaka)

Tạng Luật được xem là cái neo vững chắc để bảo tồn con thuyền Tăng Đoàn trong những cơn phong ba bão táp của lịch sử. Phần lớn Tạng Luật đề cập đến Giới Luật và nghi lễ trong đời sống Xuất Gia của các vị Tỳ Khưu và Tỳ Khưu Ni.

Ngót hai mươi năm sau khi Thành Đạo, Đức Phật không có ban hành Giới Luật nhất định để kiểm soát và khép chư Tăng vào kỷ cương.

Về sau, mỗi khi có trường hợp xảy ra, Đức Phật đặt ra những điều răn thích hợp. Tạng Luật nêu rõ đầy đủ lý do tại sao và trường hợp nào Đức Phật ban hành một giới, và mô tả rành mạch các nghi thức hành lễ Sám Hối (Vinaya) của chư Tăng.

Lịch trình phát triển đạo giáo từ thuở ban khai, sơ lược đời sống và chức nhiệm của Đức Phật, và các chi tiết về ba lần kết tập Tam Tạng là những điểm khác được đề cập đến trong Tạng Luật. Một cách gián tiếp, đây là những tài liệu hữu ích về lịch sử thời thượng cổ, về các cổ tục ở Ấn, về kiến thức và trình độ thẩm mỹ thời bấy giờ.

Người đọc Tạng Luật không khỏi ngạc nhiên và thán phục tánh cách dân chủ trong phương pháp thành lập và tổ chức Tăng Đoàn, việc sử dụng tài sản, mức độ luân lý cao thượng của chư Tăng và khả năng xuất chúng của Đức Phật trong việc điều hành Tăng Đoàn.

Ngài Zetland viết:

“Và rất nhiều người lấy làm ngạc nhiên được biết rằng những nguyên tắc sơ đẳng trong quốc hội của chúng ta (Anh quốc) ngày nay đã có sẵn trong Tăng Đoàn Phật Giáo Ấn Độ, từ hơn hai ngàn năm về trước.

Tạng Luật (Vinaya Piṭaka) gồm năm quyển:

Vibhanga:

1. Pārājika Pāli (Tội nặng)
2. Pācittiya Pāli (Tội nhẹ)

Khandaka:
3. Mahāvagga Pāli (Đại phẩm)
4. Cullavagga Pāli (Tiểu phẩm)
5. Parivāra Pāli (Tập)

b) Tạng Kinh (Sutta Piṭaka)

Tạng Kinh đại để gồm những bài Pháp có tánh cách khuyên dạy mà trong nhiều cơ hội khác nhau, Đức Phật giảng cho các bậc Xuất Gia và hàng Cư Sĩ.

Một vài bài giảng của các vị đại đệ tử như các ngài Sāriputta (Xá Lợi Phất), Moggallāna (Mục Kiền Liên) và Ānanda (A Nan Đà) cũng được ghép vào Tạng Kinh và cũng được tôn trọng như chính lời Đức Phật vì đã được Đức Phật chấp nhận. Phần lớn các bài Pháp này nhằm vào lợi ích của chư Tỳ Khưu và đề cập đến đời sống Thánh Thiện của các bậc Xuất Gia.

Nhiều bài khác liên quan đến tiến bộ vật chất và tinh thần, đạo đức của người Cư Sĩ. Kinh Sigālovāda chẳng hạn, dạy về bổn phận của người tại gia. Ngoài ra còn có những bài giảng lý thú dành cho trẻ em.

Tạng Kinh giống như một quyển sách ghi lại nhiều quy tắc để coi theo mà thực hành, vì đó là các bài Pháp do Đức Phật thuyết giảng ở nhiều trường hợp khác nhau cho nhiều người có căn cơ, trình độ, và hoàn cảnh khác nhau.

Ở mỗi trường hợp, Đức Phật có một lối giảng để người thính Pháp có thể lãnh hội dễ dàng. Thoáng nghe qua hình như mâu thuẫn, nhưng phải nhận định đúng Phật Ngôn theo mỗi trường hợp riêng biệt mà Đức Phật dạy điều ấy.

- Tỷ như để trả lời một câu hỏi về cái “Ta”, có khi Đức Phật giữ im lặng, có khi Ngài giải thích dài.

- Nếu người vấn đạo chỉ vì tánh tò mò muốn biết thì Ngài làm thinh, không trả lời. Nhưng với người cố tâm tìm hiểu Chân Lý thì Ngài giảng dạy rành mạch và đầy đủ.

Tạng Kinh (Sutta Piṭaka) gồm năm bộ:
1. Dīgha Nikāya - Trường Bộ Kinh
(tương đương với Bắc Tông: Trường A Hàm), những bài Pháp dài.

2. Majjhima Nikāya - Trung Bộ Kinh (tương đương với Bắc Tông: Trung A Hàm), những bài Pháp dài bậc trung.

3. Saṃyutta Nikāya - Tương Ưng Bộ Kinh (tương đương với Bắc Tông: Tạp A Hàm), những câu kinh tương tợ nhau.

4. Aṅguttara Nikāya - Tăng Chi Bộ Kinh (tương đương với Bắc Tông: Tăng Nhứt A Hàm), những bài Pháp sắp xếp theo con số.

5. Khuddaka Nikāya - Tiểu Bộ Kinh (tương đương với Bắc Tông: Tiểu A Hàm), những câu kệ vắn tắt.

Riêng bộ Khuddaka Nikāya - Tiểu Bộ Kinh chia làm 15 tập:
1. Khuddakapāha - Tiểu Tụng (những bài ngắn).
2. Dhammapada - Kinh Pháp Cú (con đường Chân Lý).
3. Udāna - Phật Tự Thuyết (Khúc ca hoan hỷ).
4. Itivuttaka - Phật Thuyết Như Vầy.
5. Sutta Nipāta - Kinh Tập.
6. Vimāna Vatthu - Chuyện Thiên Cung.
7. Peta Vattthu - Chuyện Ngạ Quỷ.
8. Theragāthā - Trưởng Lão Tăng Kệ.
9. Therīgāthā - Trưởng Lão Ni Kệ.
10. Jātaka - Bổn Sanh hay Túc Sanh Truyện (những câu chuyện tái
sinh của Bồ Tát).
11. Niddesa - Diễn Giải.
12. Paṭisambhidāmagga - Phân Tích Đạo.
13. Apadāna - Thánh Nhân Ký Sự.
14. Buddhavaṃsa - Phật Sử.
15. Cariyā Piṭaka - Hạnh Tạng.

c) Tạng Vi Diệu Pháp (Tạng Thắng Pháp, Abhidhamma Piṭaka)

Tạng Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) thâm diệu và quan trọng nhất trong toàn thể Giáo Pháp vì đây là phần triết lý cao siêu, so với Tạng Kinh vốn giản dị hơn.

Abhidhamma, Tạng Vi Diệu Pháp (Abhidhamma), là tinh hoa của Phật Giáo. Đối với một vài học giả, Vi Diệu Pháp không phải là Đức Phật giảng mà do các nhà Sư uyên bác khởi thảo về sau.

Tuy nhiên, đúng theo truyền thống thì chính Đức Phật đã dạy phần chánh yếu của Tạng này. Những đoạn gọi là Mātikā hay Mẫu đề của Abhidhamma, như Thiện Pháp (Kusalā Dhammā), Bất Thiện Pháp (Akusalā Dhammā), và Vô Ký Pháp (Abyākata Dhammā), v.v… được nói đến trong sáu tập của Vi Diệu Pháp (Abhidhamma)đều do chính Đức Phật dạy. Ngài Sāriputta (Xá Lợi Phật) được danh dự lãnh trọng trách giảng rộng và giải thích sâu vào chi tiết.

Dầu tác giả, hay các vị tác giả là ai, chắc chắn Vi Diệu Pháp (Tạng Luận, Abhidhamma) là công trình sáng tác của một bộ óc Trí Tuệ kỳ tài chỉ có thể so sánh với một vị Phật. Và điểm này càng nổi bật một cách hiển nhiên trong tập Paṭṭhāna Pakaraṇa, vừa phức tạp vừa tế nhị, diễn tả mối tương quan của luật Nhân Quả với đầy đủ chi tiết.

Đối với bậc Thiện Trí Thức muốn tìm Chân Lý, Vi Diệu Pháp (Tạng Luận, Abhidhamma) là quyển kinh chỉ đạo khẩn yếu, vừa là một tập khải luận vô giá. Ở đây có đủ thức ăn tinh thần cho các học giả muốn mở mang Trí Tuệ và đời sống lý tưởng của người Phật Tử. Vi Diệu Pháp (Tạng Luận) không phải loại sách để đọc thoáng qua cầu vui hay giải trí.

Khoa tâm lý học hiện đại, còn hạn định, vẫn nằm trong phạm vi của Vi Diệu Pháp (Tạng Luận) khi đề cập đến tâm, tư tưởng, tiến trình tư tưởng, các trạng thái Tâm. Nhưng Vi Diệu Pháp không chấp nhận có một linh hồn, hiểu như một thực thể trường tồn bất biến. Như vậy, Vi Diệu Pháp dạy một thứ tâm lý học trong đó không có linh hồn.

Nếu đọc Vi Diệu Pháp (Tạng Luận) như một quyển sách tâm lý học hiện đại thì ắt phải thất vọng, vì ở đây không có ý định giải quyết tất cả những vấn đề mà tâm lý học hiện đại phải đối phó.

- Danh/ Tâm (hay Tâm Vương, Citta) được định nghĩa rõ ràng. Tư tưởng được phân tách và sắp xếp đại để thành từng loại về phương diện luân lý. Tất cả những trạng thái Tâm, hay Sở Hữu (Tâm Sở, Cetasika), đều được lược kê cẩn thận. Thành phần cấu hợp của mỗi loại tâm được kể ra từng chi tiết. Tư tưởng phát sanh thế nào cũng được mô tả tỉ mỉ. Riêng những chập tư tưởng (Sát-na Tâm) bhavanga và javana, chỉ được đề cập đến và giải thích trong Vi Diệu Pháp (Tạng Luận), thật là đặc biệt hữu ích cho ai muốn khảo cứu về tâm lý học. Những vấn đề không liên quan đến Giải Thoát đều được gác hẳn qua một bên.

- Sắc, tức phần vật chất, cũng được đề cập đến, nhưng không phải như các nhà vật lý học hay các y sĩ mô tả. Đơn vị căn bản của vật chất, những đặc tánh, nguồn gốc của vật chất, tương quan giữa vật chất và tâm, Sắc và Danh, đều được giải thích. Vi Diệu Pháp (Tạng Luận) không nhằm tạo lập một hệ thống tư tưởng về tâm và vật chất mà chỉ quan sát hai thành phần cấu tạo cái được gọi là chúng sanh để giúp hiểu biết sự vật theo đúng thực tướng. Dựa trên căn bản ấy, một triết lý đã được xây dựng và dựa trên triết lý này một hệ thống luân lý được phát triển nhằm đưa đến mục tiêu tối hậu.

Bà Rhys Davids viết: “Vi Diệu Pháp (Tạng Luận) đề cập đến:

1) cái gì ở bên trong ta,
2) cái gì ở chung quanh ta,
và 3) cái gì ta khao khát thành đạt”.

Tạng Kinh chứa đựng những lời dạy thông thường (vohāra desanā), còn Vi Diệu Pháp (Tạng Luận, Abhidhamma) gồm Giáo Lý Cùng Tột (paramaṭṭha desanā).

Hầu hết các học giả Phật Giáo đều xác nhận rằng muốn thông hiểu Giáo Huấn của Đức Phật, phải có kiến thức về Vi Diệu Pháp (Tạng Luận) vì đó là chìa khóa để mở cửa vào thực tế.

Tạng Vi Diệu Pháp (Tạng Luận, Abhidhamma) gồm bảy bộ:

1. Dhammasaṇghaṇī - Pháp Tụ (phân loại các Pháp).

2. Vibhaṅga - Phân Tích (những tiết mục).

3. Dhātukathā - Nguyên Chất Ngữ (Giới Thuyết, luận giải về các nguyên tố hay Giới).


4. Puggala Paññatti - Nhân Chế Định (Nhân Thi Thuyết, chỉ danh những cá tính).

5. Kathāvathu - Ngữ Tông (Thuyết Sự, những điểm tranh luận).

6. Yamaka - Song Đối (quyển sách về những cặp đôi).

7. Paṭṭhāna - Vị Trí (quyển sách đề cập đến Nhân Quả tương quan).
 
7. Phật giáo (tt1)
(Buddhism)

5. Phật Giáo Có Phải Là Một Triết Học Không?

Được tôn trí trọn vẹn trong Tam Tạng Kinh, Giáo Pháp cao siêu đề cập đến những Chân Lý và những sự kiện mà mọi người đều có thể trắc nghiệm và kiểm chứng xuyên qua kinh nghiệm bản thân, Phật Giáo không hề liên quan đến những lý thuyết suông hay những không luận có thể được chấp nhận ngày hôm nay là Chân Lý thâm diệu mà qua ngày sau thì bị loại bỏ như một lầm lẫn.

Đức Phật không truyền dạy một lý thuyết triết học cách mạng, cũng không có ý định sáng tạo một nền khoa học vật lý mới. Bằng những lời lẽ rõ ràng, không thể lầm lẫn, Đức Phật giải thích những gì ở bên trong và những gì ở bên ngoài ta, có liên quan đến sự Giải Thoát, vượt ra khỏi mọi hình thức khổ đau của đời sống và Ngài vạch ra con đường.

Đức Phật cũng không truyền dạy tất cả những điều mà Ngài biết.
Ngày kia, trong cụm rừng nọ, Đức Phật bốc lên một nắm lá và dạy:

“Này các Tỳ Khưu, những điều mà Như Lai dạy các con có thể sánh với nắm lá này, còn những điều mà Như Lai không dạy cũng như tất cả lá trong rừng.”

Đức Phật chỉ dạy những điều mà Ngài xét là cần thiết để gội rửa, Thanh lọc Tâm, và không bao giờ bàn đến các vấn đề không liên quan đến nhiệm vụ cao cả của Ngài.

Mặc dầu vậy, trên nhiều điểm, Ngài đã đi trước các học giả và các nhà khoa học hiện đại:

- Heraclitus (500 năm trước D.L.) tin rằng tất cả đều trôi chảy (pante rhei) và vũ trụ luôn luôn đang trở thành. Ông dạy rằng không có cái chi trường tồn, mọi vật đều đang trở thành cái gì khác. Chính ông đã thốt ra câu nói trứ danh: “Không thể bước hai lần lên cùng một chỗ trên dòng suối”.

- Pythagore (532 trước D.L.) dạy thuyết chuyển sinh linh hồn. Descartes(1596 -1650) chủ trương cần phải quan sát mọi hiện tượng trên nền tảng của sự hoài nghi hợp lý.

- Spinoza (1632-1677) vừa chấp nhận có thực thể trường tồn vừa lập luận rằng tất cả những hình thức tồn tại đều tạm bợ nhất thời. Theo triết gia này, muốn diệt trừ đau khổ phải tìm ra một nguồn kiến thức không đổi thay, không xê dịch, trước sau như một, trường tồn, vĩnh cửu.

- Berkeley (1685-1776) cho rằng cái được gọi nguyên tử chỉ là một giả định của siêu hình học.

- Hume (1711-1776) phân tách phần tâm linh của con người và kết luận rằng đó chỉ là những trạng thái tinh thần luôn luôn biến chuyển.

- Theo Hegel (1770-1831): “Toàn thể hiện tượng là sự đang trở thành”.

- Schopenhauer (1788-1860), trong quyển “Thế Gian Xem Như Ý Chí và Tư Tưởng” diễn tả Chân Lý về sự đau khổ và nguồn gốc của nó theo lối Tây phương.

- Henri Bergson (1859-1941) chủ trương thuyết Vô Thường và nhấn mạnh giá trị của trực giác.

- William James (1842-1910) đề cập đến luồng tâm như một dòng nước và phủ nhận một linh hồn trường cửu.

Trên 2.500 năm về trước, Đức Phật đã dạy những Chân Lý Vô Thường (Anicca), Khổ (Dukkha) và Vô Ngã (Anatta).

Giáo Huấn mà Đức Phật truyền dạy, dầu có tánh cách luân lý hay triết lý, là để học hỏi, thực hành, và trên tất cả, là để Chứng Ngộ bằng Trí Tuệ trực giác “Giáo Pháp như chiếc bè đưa ta qua đại dương của cuộc sống”.

Vậy, một cách chính xác, Phật Giáo không phải là một triết học vì Phật Giáo không phải chỉ là: “Sự yêu chuộng Trí Tuệ, lòng ham thích thúc đẩy đi tìm Trí Tuệ” (Webster’s Dictionary).

Phật Giáo cũng không phải là “một lối giải thích căn cứ trên lý thuyết, cái không bao giờ cũng được biết (như trong siêu hình học) hay cái được biết không rành mạch (như trong triết học, luân lý hay chính trị)”.

Nếu hiểu triết học là “nghiên cứu, học hỏi, không phải chỉ một vài sự kiện riêng biệt mà đặc tính căn bản của thế gian trong đó ta đang sống và cuộc sống đáng cho ta sống trong thế gian này” thì Phật Giáo có thể gần với triết học, nhưng Phật Giáo hàm súc hơn nhiều.

Triết học đại để quan tâm đến sự hiểu biết và không chú ý đến phần thực hành, trong khi đó Phật Giáo đặc biệt đặt trọng tâm trên phần thực hành và Chứng Ngộ.
 
Sửa lần cuối:
7. Phật giáo (tt2)
(Buddhism)

6. Phật Giáo Có Phải Là Một Tôn Giáo Không?

a) Giáo sư Rhys Davids viết: “Religion (Tôn giáo) là gì?


Như người ta biết rõ, danh từ Religion (Tôn giáo) không có trong những sinh ngữ không liên quan đến tiếng Anh và căn nguyên của chữ này vẫn còn bất định.

Trong một đoạn, Cicero phân tách danh từ này làm hai phần, dẫn xuất từ “re” và “lego” và định nghĩa Religion (Tôn giáo) là sự lặp lại nhiều lần những câu kinh, câu chú. Một lối giải thích khác, dẫn suất từ “re” và “lego” chủ trương rằng ý nghĩa đầu tiên là liên kết, trói buộc, là sự hàn gắn, dính liền (chắc chắn đó là sự nối liền với Thần Linh).

Lối giải thích thứ ba, dẫn xuất từ “lex”, là sự ẩn náu trong luật pháp, là sự thận trọng đặt tâm linh vào khuôn khổ”.


b) Phật giáo có phải là tôn giáo ?

Theo lối định nghĩa thông thường, một cách chính xác, Phật Giáo không phải là một Tôn giáo (Religion) bởi vì Phật Giáo không phải là “một hệ thống tín ngưỡng và tôn sùng lễ bái”, trung thành với một Thần Linh siêu nhiên.

Phật Giáo không đòi hỏi nơi tín đồ một đức tin mù quáng. Do đó một niềm tin tưởng suông không thể có chỗ đứng. Thay vào đó là lòng tín nhiệm căn cứ trên sự hiểu biết.

Trước khi đắc Quả Dự Lưu (Tu Đà Hoàn) người Phật Tử lắm lúc còn hoài nghi Đức Phật, hoặc Giáo Pháp hoặc Tăng Đoàn. Đến khi thành đạt Đạo Quả cao thượng ấy rồi thì mọi hình thức hoài nghi hoàn toàn chấm dức và hành giả mới thật sự bước theo chân Đức Phật.

Niềm tin mà người Phật Tử đặt nơi Đức Phật cũng giống như niềm tin mà bệnh nhân đặt nơi một lương y trứ danh hay của trò đặt nơi thầy. Mặc dầu tìm nương tựa nơi Đức Phật và tôn trọng Ngài là vị hướng đạo Vô Thượng, là thầy dắt dẫn trên Con Đường Trong Sạch (Thanh Tịnh Đạo), người Phật Tử không quy phục mù quáng như kẻ nô lệ, không tin rằng chỉ quy y Tam Bảo hay chỉ có đức tin suông nơi Tam Bảo mà mình có thể trở nên trong sạch.

Không ai, dầu là Đức Phật đi nữa, có đủ quyền lực để gội rửa bợn nhơ của người khác. Nói một cách chính xác, không ai có thể rửa sạch, cũng không ai có thể làm hoen ố người khác. Đức Phật là vị Tôn Sư có thể giúp đỡ bằng cách vạch ra Con Đường, nhưng chính ta phải lãnh lấy nhiệm vụ gội rửa thân tâm của chúng ta.

Trong kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy:

“Chỉ có ta làm điều tội lỗi, chỉ có ta làm cho ta Ô Nhiễm.
Chỉ có ta tránh điều tội lỗi, chỉ có ta gội rửa cho ta.
Trong sạch hay Ô Nhiễm là tự nơi ta.
Không ai có thể làm cho người khác trở nên trong sạch”.
(Câu 145)

Người Phật Tử không làm nô lệ cho một quyển sách hay một cá nhân, cũng không hy sinh tự do tư tưởng của mình khi bước theo dấu chân của Đức Phật. Người Phật Tử hoàn toàn tự do thực hiện ý chí, mở mang kiến thức và phát triển Trí Tuệ cho đến ngày chính mình đắc Quả Phật, bởi vì khả năng trở thành Phật nằm bên trong tất cả mọi chúng sanh.

Lẽ dĩ nhiên, người Phật Tử nhắc lại Phật Ngôn như những Chân Lý bất di dịch, nhưng chính Đức Phật dạy phải nên luôn luôn suy gẫm, không nên nhắm mắt tin càng.

Sự Chứng Ngộ có thể có trong hiện tại không phải là tiêu chuẩn Chân Lý duy nhất trong Phật Giáo. Điểm then chốt là Chánh Kiến (sammā-diṭṭhi), sự hiểu biết thuần lý.

c) Đức Phật khuyên dạy người đi tìm Chân Lý không nên chấp nhận điều gì chỉ vì một người đáng tin cậy đã nói như vậy mà phải suy luận kỹ càng và thận trọng xét đoán để biết rõ điều nào là đúng, điều nào sai.

Ngày nọ, dân xứ Kesaputta, thường được gọi là người Kālāma, bạch với Đức Phật rằng có nhiều vị Tu Sĩ và nhiều Bà La Môn đến đây giảng đạo. Người nào cũng khuyến dụ dân chúng chỉ nên tin Giáo Lý của mình, không nên tin lời dạy của các vị Tu Sĩ khác. Rốt cùng, người dân không còn biết tin ai.

“Đúng như vậy, này hỡi người Kālāma, các con hoài nghi là phải, các con ngờ vực là phải. Trong trường hợp khả nghi thì sự ngờ vực phát sanh”.

Đức Phật dạy như vậy và khuyên nhủ người Kālāma như sau - và đây là những lời khuyên mà người theo chủ nghĩa duy lý hiện đại có thể áp dụng giống như các vị Đạo Sĩ hoài nghi thời xưa:

“Hãy đến đây, người Kālāma!

1. Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì nghe nói lại (tỷ như nghĩ rằng ta đã nghe điều này từ lâu).

2. Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì tập tục cổ phong truyền lại như thế (tỷ như nghĩ rằng điều này đã được truyền lại từ bao nhiêu thế hệ).

3. Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì có lời đồn đãi như vậy (tỷ như tin lời người khác mà không suy xét).

4. Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì điều ấy đã được ghi trong kinh sách. Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì mình đã ức đoán như vậy.

5. Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì mình suy diễn như vậy. Không nên chấp nhận điều gì theo bề ngoài.

6. Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì điều ấy hợp với thành kiến của mình.

7. Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì điều ấy hình như có thể chấp nhận được (tỷ như nghĩ rằng điều này phải được chấp nhận).

8. Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì nghĩ rằng vị Tu Sĩ thốt ra điều này đã được ta kính trọng từ trước (và như vậy, lời nói phải được chấp nhận).

- Tuy nhiên, khi tự các con hiểu rõ rằng - những điều này không hợp luân lý, những điều này đáng được khiển trách, những điều này bị các bậc Thiện Trí Thức cấm đoán, nếu thực hiện những điều này sẽ bị phá sản và phiền muộn - thì hẳn các con phải từ bỏ, không nên làm điều ấy.

- Khi tự các con hiểu rõ rằng - những điều này hợp luân lý, những điều này không đáng bị khiển trách, những điều này được các bậc Thiện Trí Thức tán dương, nếu thực hiện những điều này sẽ được an vui hạnh phúc - thì hẳn các con phải hành động đúng như vậy”.

Phật Ngôn này được dạy trên 2.500 trước đây, nhưng vẫn còn mãnh lực và hiệu năng cho đến thời đại văn minh của thế kỷ hai mươi. Đức Phật dạy các đệ tử nên tìm Chân Lý chớ không nên chỉ nghe qua là tin liền, dù người nói có nhiều uy tín đi nữa.

---
Về sau, Kinh Jñānasāra-samuccaya lặp lại lời khuyên này với những lời lẽ khác và cho một ví dụ quen thuộc với đời sống hàng ngày:

“Tāpāc chedāc ca nikasat svarnam iva panditaih Parikshhya blikshavo grāhyam madvaco na tu gauravāt”. “

Cũng như người thợ bạc sáng suốt thử vàng bằng cách đốt lên, cắt và cọ xát trên hòn đá để thử vàng, cùng thế ấy, con chấp nhận những lời của Như Lai sau khi thận trọng xét đoán chớ không phải chỉ vì tôn kính Như Lai”.


Đức Phật khuyên dạy hàng tín đồ nên tìm Chân Lý chớ không nên chỉ nghe qua là tin liền, dầu người nói có nhiều uy tín đi nữa.

d) Có hay không một hình thức tôn thờ hay lễ bái tượng Phật hay những Thần tượng tương tự?

Bây giờ, đã chấp nhận rằng không có đức tin mù quáng trong Phật Giáo, vậy có hay không một hình thức tôn thờ hay lễ bái tượng Phật hay những Thần tượng tương tự?

Người Phật Tử không cầu xin một ân huệ vật chất hay tinh thần nào khi đảnh lễ tượng Phật, mà chỉ bày tỏ lòng tôn kính ngưỡng mộ của mình đến lý tưởng siêu việt mà bức tượng tiêu biểu.

Người Phật Tử quỳ trước tượng Phật, dâng bông và dâng hương, không phải dâng đến bức tượng bằng đá, bằng gỗ, hay bằng giấy, mà là đến Đức Phật mà bức tượng là tượng trưng Ngài. Dâng bông, quỳ lạy, là biểu hiện ra bên ngoài niềm tri ân vô hạn sâu kín trong lòng. Cùng lúc ấy người Phật Tử suy gẫm về hồng đức của Đức Thế Tôn và tánh cách Vô Thường của Vạn Pháp, xuyên qua những cánh hoa sớm nở tối tàn. Người Phật Tử hiểu biết tạo cho mình cảm tưởng đang tôn kính quỳ trước mặt Đức Phật và nhờ đó phát sanh nguồn cảm hứng thúc giục mình noi gương lành trong sạch của Ngài.

Đề cập đến các pho tượng triết gia trứ danh, bá tước Kaiserling, viết:

“Trên thế gian này tôi không biết còn cái gì vĩ đại hơn là chân dung của Đức Phật. Đây là sự thể cách hóa toàn hảo một giá trị tinh thần trong thế gian hữu hình”.

Người Phật Tử cũng đảnh lễ cây Bồ Đề, nhưng không phải để tỏ lòng tôn sùng thờ phượng cái cây, mà xem đó là chỉ tượng trưng của sự Giác Ngộ. Dầu có nhiều nghi thức lễ bái trong các buổi lễ, người tín đồ Phật Giáo không tôn sùng Đức Phật như một Thần Linh. Tượng Phật, cây Bồ Đề và các hình thức lễ bái không phải tuyệt đối cần thiết, nhưng rất hữu ích, vì giúp người hành lễ tập trung tư tưởng vào đối tượng trong sạch.

Người trí thức thuần thục có thể khỏi phải nhờ đến những phương tiện ấy để gom tâm Quán Tưởng và hình dung Đức Phật. Người Phật Tử lễ bái Đức Phật để bày tỏ lòng tri ân ngưỡng mộ của mình đối với Ngài.

e) Điều Đức Phật mong muốn không phải là người tín đồ phải phục tùng vâng lời, mà nghiêm chỉnh thực hành Giáo Huấn của Ngài.

Trước giờ Đại Níp-bàn (Niết Bàn) của Đức Phật, nhiều vị đệ tử đến đảnh lễ Ngài. Nhưng có một vị không đến, ở luôn trong tư thất, chuyên chú Hành Thiền.

Khi câu chuyện được bạch lại Đức Phật, Ngài cho vời vị Tỳ Khưu đến và hỏi lý do về sự vắng mặt này.

Vị Tỳ Khưu bạch rằng:

“Bạch hóa Đức Thế Tôn, con được biết rằng Đức Thế Tôn sẽ nhập diệt trong ba tháng nữa và con nghĩ rằng hình thức tôn sùng Ngài tốt đẹp nhất là đắc Quả Vô Sanh (A La Hán) trước ngày ấy”.

Đức Phật ngợi khen thái độ cao quý của nhà Sư chân thành và cần mẫn như sau:

“Lành thay! Lành thay! Ai thương Như Lai hãy cố gắng noi gương vị Tỳ Khưu này.
Người tôn kính Như Lai nhất là người thực hành đúng Giáo Huấn của Như Lai nhất”.

Trong một dịp khác Đức Phật dạy:

“Người nào thấy Giáo Pháp (Dhamma) là thấy Như Lai”.

Một đặc điểm khác nên được ghi nhận trong nghi lễ tụng niệm Phật Giáo: Câu kinh không phải là lời thỉnh nguyện, cũng không phải là lời cầu xin chuyển đạt một nguyện vọng. Dầu ta có bỏ hết thì giờ để cầu xin cũng không được gì. Đức Phật không khi nào và không thể nào ban bố những ân huệ cho người cầu nguyện. Để được cứu rỗi người Phật Tử không nên cầu nguyện mà phải nhận lãnh trách nhiệm, cố gắng trau dồi Đức Hạnh, kiên trì tu tập để tự Thanh lọc và thành tựu Giải Thoát.

Không nên lệ thuộc người khác mà phải nương nhờ nơi mình, tự mình cố gắng. Đức Phật dạy:

“Tumhechi kiccam atappam akkhatar tathagata”
“Các con phải cố gắng, các đấng Như Lai chỉ là những vị Thầy”.


Chẳng những cầu nguyện, van xin, là vô ích mà đó còn là thái độ nô lệ tinh thần. Thay vì đọc kinh cầu nguyện, Đức Phật khuyên nên cố gắng Hành Thiền để ghép mình vào kỷ luật, tự kiểm soát, tự Thanh lọc Tâm, và Giác Ngộ. Thiền Tập là liều thuốc bổ cho cả tâm lẫn trí.

f) Trong Phật Giáo không có Thần Linh vạn năng, bắt buộc tín đồ phải sợ hãi cúi đầu vâng lệnh.

Phật Giáo phủ nhận sự hiện hữu của một oai lực Siêu Thế, quan niệm như chúng sanh toàn năng hay có năng lực vô cùng tận. Không có tánh cách thần khải, không có người truyền đạt tin tức và những lời sám của một Thần Linh từ đâu trên cao ban xuống đến cho con người.

Do đó người Phật Tử không quỳ lụy phục tùng một oai lực siêu nhiên cầm quyền thưởng phạt và kiểm soát định mạng. Bởi vì không tin nơi Thiên khải Thần Linh.
Phật Giáo không đòi hỏi độc quyền nắm Chân Lý và không bài xích bất cứ tôn giáo nào khác. “
Tánh Thiên chấp là kẻ thù tệ hại nhất của tôn giáo”.


Với đức tánh rộng lượng khoan dung của Ngài, Đức Phật hằng khuyên hàng môn đệ không nên giận dữ, bất mãn, hay không vui lòng, nếu có ai nói xấu Ngài, Giáo Pháp của Ngài hay Tăng Đoàn mà Ngài sáng lập. Đức Phật dạy:

“Nếu các con giận dữ, bất mãn, hay không vui lòng, chẳng những các con tự đặt mình vào chỗ hiểm nguy có thể mất cả nền tảng đạo đức tinh thần mà các con còn không thể xét đoán đúng mức lời chỉ trích có giá trị hay không”.

Quả thật là sáng suốt! Để trả lời những điều chỉ trích bất công, vô căn cứ, Đức Phật dạy:

“Cũng như người kia ngửa mặt phun nước miếng lên trời. Nước miếng không hẳn làm dơ trời, mà chỉ rơi xuống người ấy”.

Phật Giáo không ban hành những tín điều buộc người tín đồ phải nhắm mắt tin theo, không có giáo điều buộc phải chấp nhận trước khi suy nghĩ, không có nghi thức dị đoan vô lý và lễ tiết bắt buộc phải thực hành, không có hiến tế và không có ép xác khổ hạnh để gội rửa tâm.

Như vậy, một cách chính xác, không thể gọi Phật Giáo là một tôn giáo bởi vì đây không phải là một hệ thống tín ngưỡng và lễ bái. Phật Giáo cũng không phải là hành động hay hình thức biểu hiện ra ngoài tỏ rằng con người chấp nhận sự hiện hữu của một hay nhiều Thần Linh có năng lực chi phối định mạng mình và mình có phận sự vâng lệnh, phục vụ và tôn sùng.

Karl Marx nói: “Tôn giáo là linh hồn của những điều kiện không có linh hồn, là trái tim của thế gian không có tim, là nha phiến của dân chúng”.

Phật Giáo không phải là một tôn giáo như vậy, bởi vì những quốc gia Phật Giáo đã vươn mình trưởng thành từ trong tổ ấm Phật Giáo, và những tiến bộ văn hóa hiện đại của các quốc gia ấy phần lớn là do ảnh hưởng của Giáo Lý nhà Phật.

Dầu sao, nếu hiểu rằng tôn giáo là Giáo Lý nhìn vào đời sống sâu hơn là lớp vỏ bên ngoài, Giáo Lý nhìn ngay vào bên trong đời sống, thay vì chỉ nhìn trên mặt, Giáo Lý cung hiến cho con người một thái độ sống phù hợp với “cái nhìn sâu xa ấy, Giáo Lý giúp cho những ai cố gắng, có thể đối phó mạnh mẽ với kiếp sinh tồn và trực diện cái chết một cách bình tĩnh và yên lành”, hay một hệ thống giúp Giải Thoát ra khỏi những hình thức đau khổ của đời sống, thì chắc chắn Phật Giáo là tôn giáo của các tôn giáo.
 
Sửa lần cuối:
7. Phật giáo (tt3)
(Buddhism)


7. Phật Giáo và Luân Lý

a) Về Luận Lý


Giáo Lý của Đức Phật có phần luân lý tuyệt hảo dành cho cả bậc Xuất Gia lẫn hàng Cư Sĩ. Tuy nhiên, Phật Giáo không phải chỉ là một hệ thống Giáo Huấn về luân lý thông thường.

Giới (Sīla), hay luân lý, chỉ là giai đoạn sơ khởi, là phương tiện nhằm đưa đến mục tiêu, chớ không phải chính nó là mục tiêu. Mặc dầu “Giới”là tuyệt đối cần thiết, nếp sống Đạo Hạnh riêng rẽ không thể dẫn đến Giải Thoát hay hoàn toàn trong sạch. Vượt lên khỏi Giới là Tuệ (Paññā).

Nền tảng của Phật Giáo là Giới. Tuệ là đỉnh tối cao. Giới với Tuệ đối với hành giả như cặp cánh đối với loài chim. Với người, Tuệ như mắt, Giới như chân. Một trong những danh hiệu của Đức Phật là “Vijjācaraṇa Sampano” - Minh Hạnh Túc - người đầy đủ Tuệ và Đạo Hạnh.

Trong Tứ Thánh Đế (Tứ Diệu Đế), nền tảng của Phật Giáo, ba Đế đầu tiên là phần triết lý, Đế cuối cùng là phần luân lý căn cứ trên triết lý ấy.

Luân lý Phật Giáo không đặt nền tảng trên những lời dạy Thần khải khả nghi, do một Thần Linh truyền lại dưới hình thức sám truyền, cũng không phải là sáng tác khéo léo của một bộ óc kỹ xảo, mà là những quy tắc hợp lý và thực tiễn, căn cứ trên những sự kiện có thể kiểm chứng và trong kinh nghiệm cá nhân.

Theo giáo sư Max Muller, quy tắc Phật Giáo là một trong những quy tắc toàn hảo nhất trên thế gian.

Giáo sư Rhys Davids nói:
“Dầu là Phật Tử hay không Phật Tử, tôi nghiên cứu từng hệ thống tôn giáo lớn trên thế gian, và trong tất cả, tôi không tìm thấy trong tôn giáo nào có cái gì cao đẹp và toàn vẹn hơn Bát Thánh Đạo (Bát Chánh Đạo) của Đức Phật. Tôi chỉ còn có một việc làm là thu xếp nếp sống cho phù hợp với con đường ấy”.

Theo Phật Giáo, có những hành động tốt và xấu, có những hành động không tốt cũng không xấu, và những hành động có khuynh hướng chấm dứt mọi hành động. Hành động tốt rất cần thiết để Giải Thoát, nhưng một khi thành tựu mục tiêu tối thượng rồi thì hành giả đã vượt ra ngoài cái tốt và cái xấu.

Đức Phật dạy: “Những Pháp Chân Chánh (dhamma), hay Thiện Pháp, con cũng nên từ bỏ. Càng phải loại bỏ hơn nữa, những Pháp không Chân Chánh (adhamma), hay Bất Thiện Pháp”.

- Hành động liên quan đến Tham (Lobha), Sân (Dosa) và Si (Moha) là Bất Thiện Pháp. Hành động liên quan đến không tham (alobha), không sân (adosa) và Tuệ (Paññā) là Thiện Pháp.

- Hành động của một vị Vô Sanh (A La Hán), người đã tận diệt mọi Ô Nhiễm, không còn liên quan đến luân lý, bởi vì Ngài đã vượt ra ngoài cái tốt và cái xấu. Như vậy không có nghĩa là Ngài thụ động. Một vị Vô Sanh (A La Hán) vẫn tích cực hoạt động. Nhưng hành động của Ngài hoàn toàn Vị Tha, hướng về sự trợ giúp kẻ khác đi trên con đường mà chính Ngài đã trải qua. Hành động ấy không có khả năng sáng tạo và khác với hành động của người thường, không gây phản ứng, không tạo Nghiệp. Pāli ngữ gọi hành động như vậy là Kiriya (cơ năng, hay hành). Đã là vàng y thì không còn làm cho nó “y” hơn nữa.

Những trạng thái Tâm (Tâm Sở) của bốn loại Tâm Siêu Thế: Sotāpatti (Dự Lưu, Tu Đà Hoàn), Sakadāgāmi (Nhất Lai, Tư Đà Hàm), Anāgāmi (Bất Lai, A Na Hàm) và Arahatta (Vô Sanh, A La Hán), mặc dầu là Thiện (kusalā) không có khuynh hướng tạo Nghiệp mới, trái lại, có chiều hướng chấm dứt dần dần dòng Nghiệp. Trong các loại Tâm Siêu Thế, yếu tố Trí Tuệ (paññā) là quan trọng hơn tất cả, và Trí Tuệ có chiều hướng tiêu diệt Nghiệp Căn. Trong các loại tâm tại thế, Tư (Cố Ý,cetanā) - có chiều hướng tạo Nghiệp - là quan trọng.


b) Vậy, theo Phật Giáo, tiêu chuẩn của luân lý là gì?

Câu giải đáp nằm trong lời Đức Phật dạy Rāhula (La Hầu La):

“Nếu có điều nào con muốn làm, này hỡi Rāhula (La Hầu La), hãy nghĩ như vầy: Điều này có hại cho ta hay cho kẻ khác hay điều này có hại cho kẻ khác và cho ta. Vậy, đó là một hành động xấu, sẽ đem lại sự đau khổ. Con phải hết sức cố gắng tránh làm điều ấy”.

“Nếu có điều nào con muốn làm, này hỡi Rāhula (La Hầu La), hãy nghĩ như vầy: Điều này không có hại cho ta, không có hại cho ai khác, hay điều này không có hại cho ai khác và cho ta. Vậy, đó là hành động tốt, sẽ đem lại hạnh phúc. Hành động ấy, con phải làm, và lặp đi lặp lại nhiều lần”.

Trong vấn đề luân lý, người Phật Tử phải luôn luôn nghĩ đến mình và kẻ khác, luôn cả loài thú.

Trong Kinh Từ Bi (Kanariya Mettā Sutta) Đức Phật dạy:
“Cũng như người mẹ hiền hết lòng bảo bọc đứa con duy nhất của mình, dầu có phải hiểm nguy đến tánh mạng đi nữa, cùng thế ấy, ta hãy luyện Tâm Từ vô lượng vô biên, bao trùm tất cả chúng sanh”.

Kinh Pháp Cú ghi:

“Tất cả đều sợ hình phạt.
Tất cả đều quý trọng đời sống.
Hãy lấy bụng ta suy bụng người
Không nên sát hại, cũng không nên làm tổn thương”.

Muốn hiểu rõ nền luân lý đặc biệt cao thượng của người Phật Tử thuần thành, ta nên đọc cẩn thận các quyển kinh sau đây: Dhammapada, Sigālovāda Sutta, Vyagghapajja Sutta, Mangala Sutta, Mettā Sutta, Parābhava Sutta, Vasala Sutta, Dhammika Sutta, v.v...

Về phương diện luân lý, đó là những lời dạy vô cùng cao đẹp, nhưng cũng chỉ là bước đầu, chớ không phải là mục tiêu của Phật Giáo.

- Theo một lối hiểu, Phật Giáo không phải là một triết lý. Theo một lối hiểu khác, Phật Giáo là triết lý của các triết lý.

- Theo một lối hiểu, Phật Giáo không phải là một tôn giáo. Theo một lối hiểu khác, Phật Giáo là tôn giáo của các tôn giáo.


8. Phật Giáo Là Gì?

- Phật Giáo không phải là một con đường siêu hình, cũng không phải là một con đường nghi thức.

- Phật Giáo không phải là một chủ nghĩa hoài nghi, cũng không độc đoán.

- Phật Giáo không chủ trương rằng đời sống là trường tồn vĩnh cửu, vô thủy vô chung, (thường kiến), cũng không chủ trương rằng sau kiếp sống này không còn gì nữa, chết là hết (đoạn kiến).

- Phật Giáo không dạy lối sống khổ hạnh, cũng không giáo truyền lối sống lợi dưỡng.

- Phật Giáo không bi quan, không lạc quan, nhưng thực tiễn.

- Phật Giáo không tuyệt đối tại thế, cũng không hoàn toàn Siêu Thế.

- Phật Giáo là con đường Giác Ngộ duy nhất.

Danh từ Pāli ngữ gọi Phật Pháp là Dhamma. Đúng căn nguyên, Dhamma có nghĩa là nâng đỡ, hay giữ lại (nâng đỡ người hành động đúng theo quy tắc, hay giữ lại, không để cho người hành động đúng theo quy tắc phải rơi vào những trạng thái đau khổ).

Dhamma, Giáo Pháp, là cái gì thật sự là vậy, là thực tướng, Dhammalà Giáo Lý của thực tế. Dhamma là phương tiện để Giải Thoát ra khỏi mọi hình thức khổ đau. Dhamma chính là sự Giải Thoát. Dầu chư Phật có ra đời hay không, Dhamma (Giáo Pháp) vẫn tồn tại vĩnh cửu. Dhamma (Giáo Pháp) luôn luôn bị che lấp trước cặp mắt Vô Minh của con người, cho đến lúc có một vị Phật ra đời, Chứng Ngộ và truyền bá lại cho thế gian.

“Dầu chư Phật có thị hiện trên thế gian hay không, này các Tỳ Khưu, có một sự kiện, một nguyên tắc nhất định, một định luật thiên nhiên, là :

Tất cả các vật cấu tạo đều Vô Thường (Anicca), Khổ (Dukkha) và tất cả đều không có linh hồn trường cửu (Vô Ngã, Anattā).


Như Lai đã Chứng Ngộ và thấu triệt điều ấy. Như Lai quảng bá, truyền dạy, tuyên bố, xác định, phân tách và chỉ dẫn rành mạch rằng tất cả các vật cấu tạo (hữu lậu) đều Vô Thường, Khổ và Vô Ngã”.

Trong bộ Majjhima Nikāya (Trung Bộ Kinh), Đức Phật dạy:

“Như Lai chỉ dạy một điều: Đau khổ và sự chấm dứt mọi đau khổ”.

Đó là Giáo Lý của thực tế.

Kinh Udāna dạy:

“Này hỡi Tỳ Khưu, cũng như nước của đại dương hùng dũng chỉ có một vị là vị mặn của muối,
Giáo Pháp chỉ có một vị là Giải Thoát (Vimutti)”.


Đó là phương tiện Giải Thoát.

Giáo Pháp cao thượng không phải là cái gì ở ngoài ta, mà hoàn toàn tùy thuộc nơi ta và chỉ do ta Chứng Ngộ.

Do đó Đức Phật dạy:


“Attadīpā viharatha attapaṭisāranā.
Dhammadīpā viharatha, dhammapaṭisaraṇā, n’āñña patisaranā”.

“Hãy ẩn náu nơi chính ta như một hải đảo, xem chính ta là chỗ nương tựa.
Hãy ẩn náu nơi Giáo Pháp như một hải đảo, như chỗ nương tựa. Không nên tìm ẩn náu từ bên ngoài”.

---------
Sơ đồ tóm lược :




kinh tứ diệu đế

Căn bản Phật giáo - Tứ diệu đế & Bát chánh đạo




00.jpg


12 Duyên Sinh - Duyên Khởi


Tài liệu tham khảo thêm :

 
Sửa lần cuối:
Top