Miến điện nó thua, chịu làm thuộc địa của mông cổ chứ nộp cống phẩm cái gì
Thua đâu mà thua, đọc đi:
Ba cuộc chiến tranh Miến – Nguyên kéo dài suốt 24 năm (1277-1301)
Lần thứ nhất, sau khi triều đình Mông Cổ thôn tính xong Vương quốc Nam Chiếu vùng Vân Nam, Trung Quốc vào năm 1253, đế quốc Nguyên Mông đòi triều đình Miến Điện phải cống nạp. Năm 1273, sứ giả Nguyên Mông lá Khất Giác Thoát Nhân đến chiêu phục Miến Điện với thái độ ngạo mạn và bị Vua Miến Điện Naratgugapate từ chối. Tháng 3-1277, quân Nguyên từ Vân Nam, Trung Quốc do tướng Hốt Đô dẫn đầu tiến vào lãnh thổ Miến Điện. Các cuộc xung đột ác liệt ở khu vực biên giới diễn ra khiến quân đội hai bên đều bị thiệt hại nặng. Quân Nguyên buộc phải rút lui.
Lần thứ hai, năm 1282, Vua Nguyên là Kublai Khan (Hốt Tất Liệu) cử đoàn sứ giả 10 người cùng đoàn hộ tống hùng hậu đến kinh đô Bagan đòi triều đình Miến Điện cống nạp. Vì quá ngạo mạn, cả đoàn sứ thàn nhà Nguyên bị vua Miến Điện Naratgugapate ra lệnh giết hết. Sự kiện này khiến Hốt Tất Liệt nổi giận, quyết tâm báo thù. Mùa thu năm 1283, Hốt Tất Liệu đều một đạo quân lớn từ Vân Nam, do tướng Tương Ngô Hợp Nhi chỉ huy, tiến sang trừng phạt Miến Điện.
Chiến sự diến ra quyết liệt ở phòng tuyến sông Bhamo, phía Bắc Miến Điện. Trước sự tấn công ồ ạt của quân Nguyên, quân Miến Điện phải rú lui, nội bộ hoàng cung Miến Điện bất hòa chia rẽ. Quân Nguyên tiến sát đến kinh đô Bagan.
Năm 1287, vương triều Miến Điện không thể đứng vững trước sự tấn công ồ ạt của quân Nguyên Mông. Bagan thất thủ, đế quốc phong kiến Miến Điện lần thứ nhất bị diệt vong. Triều đình Nguyên Mông tuyên bố vùng lãnh thổ phía Bắc và miền Trung của Miến Điện là hai tỉnh của đế quốc Nguyên Mông trên đất Miến Điện. Các vị vua người Miến tiếp theo đều cam chịu làm chư hầu của triều đình nhà Nguyên ở Bắc Kinh.
Sau khi tàn phá Bagan, quân Nguyên Mông rút về phía Bắc Miến Điện, đất nước Miến Điện rơi vào thời kỳ hỗn loạn. Mười năm sau, năm 1297, “ba anh em người Shan” (bố là người Shan, mẹ là người Miến) do Axamkhaya làm thủ lĩnh, nổi lên tập hợp dân chúng khỏi nghĩa, kiểm soát miền trung Miến Điện chống lại sự đô hộ của quân Nguyên Mông. Lực lượng khởi nghĩa của “ba anh em người Shan” không ngừng lớn mạnh, đã đánh đuổi quân Nguyên đến ngần biên giới Vân Nam.
Lần thứ ba, đầu năm 1301, triều đình Nguyên cử tướng Mang Ngột Đô Lỗ Mê Thất dẫn 12000 quân sang Miến Điện dẹp loạn, nhưng bị lực lượng quân đội Miến Điện do Axamkhaya lãnh đạo chống trả quyết liệt, quân Nguyên Mông bị thương vong nhiều vì chiến tranh và bệnh tật. Tháng 3-1301, Mang Ngột Đô Lỗ Me Thất buộc phải xin hòa để rút quân về Trung Quốc, chấm dứt cuộc chiến tranh Miến – Nguyên. Sau khi thất bại trở về nước, các tướng Nguyên Mông bị Hốt Tất Liệt trừng trị với nhiều hình phạt khác nhau, kể cả tử hình
Ba thế kỷ tiếp theo là thời kỳ Miến Điện rơi vào tình trạng phân tranh bất hòa, chia rẽ. Tranh thủ thời cơ sụp đỗ của đế chế bagan , người Mon dưới sự lãnh đạo của Vua Dhammazedi đã di chuyển xuống miền Nam và lập ra vương quốc Hanthawady tại Bago, năm 1472. Vương triều này tiêp tục làm sống lại đạo Phật với việc xây dựng các chùa tháp ở kinh đô và mở rộng xây dựng chùa Shwe Dagon ởYangon.
Dưới thời cai trị của các vua người Mon, quan hệ ngoại giao với các nước phương Tây cũng bắt đầu được chú ý. Người Mon chính là những người mở đường cho quan hệ với Phương Tây sau này.
Trong khi đó, người Shan cũng tách khỏi đế quốc Miến Điện, nắm quyền kiểm soát ở phía bắc, thành lập quốc gia Inwa năm 1364. Người Rakhine cũng lập quốc gia riêng của mình tại vùng phía tây Miến Điện. Những người Miến còn lại rút về Tangoo bên bờ sông Sittang chờ đợi cơ hội tái thống nhất Miến Điện.
Đến đầu thế kỷ XVI, trên lãnh thổ Miến Điện hình thành bốn trung tâm quyền lực mang đậm chất chủng tộc: phía tây là quốc gia Inwa của người Shan; phía nam là quốc gia Bago của người Mon và phía đông là quốc gia Toungoo của người Miến.