Vua Gia Long, kiến trúc sư tài năng vĩ đại của Việt Nam

Tao đéo có nghĩa vụ khiêm tốn với những thằng ngu nhất là về chủ đề lịch sử.
Tụi nó cũng đâu có vừa cũng chửi tao dữ lắm mà
Nhưng tao hơn tụi mày là tao nói có sách mách có chứng
Đó là thứ duy nhất bảo vệ tao khi lăn lộn ở tất cả các diễn đàn và khiến bọn bò đỏ rồ huệ cay tao lắm nhưng không làm gì được
m nhớ thằng kịch bản bên voz không
 
Có thể không làm nó thông minh hơn nhưng thể hiện nó là người có văn hóa, biết trước, biết sau. Ra đường thấy một đứa con nít nói năng lễ phép với một thằng trẩu tre nói chuyện hỗn hào, mất dạy thì tml thấy thằng nào có học và đàng hoàng?!
Chưa chắc ai có học hơn ai .
Nhiều thằng lên mạng nói đạo lý văn vở lễ độ chứ ở nhà cãi cha cãi mẹ như gì bày đặt. Mạng là ảo thể hiện làm loz gì.
 
Cắt đất cho Lào, Cam thì đổ là do Pháp chia.
Cắt đất, đảo cho Tàu thì bảo nước bạn giữ giùm
199x đang trên thế thắng thì cắt đảo cho Cam.
So với bản đồ thời Nhà Nguyễn, trừ cái Trấn Tây ra, thì nhà sản cắt tầm 30% lãnh thổ cho nước ngoài rồi mà suốt ngày chửi nhà Nguyễn
Sau phỏng dái cắn hơn 10.000km2 đất biên giới cho Tàu khựa nữa mầy.
Bộ bên thắng cuộc có biên rõ phần nầy.
 
Thằng gia nô 3 họ nguyễn ánh thì kinh rồi, các triều đại trước như lý trần lê đều xem bọn xiêm là đám man di, mọi rợ nhưng thằng gia nô ánh lại sẵn sàng quỳ rạp xưng thần với thằng vua xiêm, lên ngôi rồi thì lại dở mấy trò trả thù đê hèn ra, đám con cháu của thằng ánh cũng hèn hạ ko kém, con chó đảm lên ngôi thì ăn chơi bét nhè, người dân đói khổ khởi nghĩa khắp nơi, đến thằng chó tự đức thì suốt ngày lo bú tí con mẹ từ dụ của nó dù đã lớn tồng ngồng rồi, sức thì yếu mà bày đặt làm trò ác với mấy người truyền đạo phương tây, đến khi bị pháp đánh cho de kèn thì quỳ mọp xin tha mạng, cả nó lũ nguyễn fuck có bị đày xuống 18 tầng địa ngục cũng ko hết tội, à mà lũ nghiệt súc nguyễn fuck vẫn còn để lại con nghiệt súc atlas nữa
 
thằng chó súc vật nguyễn ánh gia long hết cầu viện quân xiêm pháp rước voi về giày mả tổ giờ con cháu nó lên mạng tẩy trắng
Mày ngu quá, Huệ cũng chứa đám cướp biển Tàu Ô, cướp hiếp giết đồng bào. 8Keo cũng năm lần bảy lượt cầu cạnh Mỹ, Pháp, Tàu Mao chứ chứ lấy đéo đâu ra vũ khí mà đánh nhau
 
Thằng gia nô 3 họ nguyễn ánh thì kinh rồi, các triều đại trước như lý trần lê đều xem bọn xiêm là đám man di, mọi rợ nhưng thằng gia nô ánh lại sẵn sàng quỳ rạp xưng thần với thằng vua xiêm, lên ngôi rồi thì lại dở mấy trò trả thù đê hèn ra, đám con cháu của thằng ánh cũng hèn hạ ko kém, con chó đảm lên ngôi thì ăn chơi bét nhè, người dân đói khổ khởi nghĩa khắp nơi, đến thằng chó tự đức thì suốt ngày lo bú tí con mẹ từ dụ của nó dù đã lớn tồng ngồng rồi, sức thì yếu mà bày đặt làm trò ác với mấy người truyền đạo phương tây, đến khi bị pháp đánh cho de kèn thì quỳ mọp xin tha mạng, cả nó lũ nguyễn fuck có bị đày xuống 18 tầng địa ngục cũng ko hết tội, à mà lũ nghiệt súc nguyễn fuck vẫn còn để lại con nghiệt súc atlas nữa
Mày có bằng chứng gì không?
Biết thế nào là gia nô 4 họ phò 4 chủ phản chủ 4 lần không?
Hỏi thằng Huệ nó trả lời cho
 
Mày ngu quá, Huệ cũng chứa đám cướp biển Tàu Ô, cướp hiếp giết đồng bào. 8Keo cũng năm lần bảy lượt cầu cạnh Mỹ, Pháp, Tàu Mao chứ chứ lấy đéo đâu ra vũ khí mà đánh nhau
Trong vụ đánh quân Thanh trong mùng 5 tết, Huệ từng ra vùng TNT bắt lính bằng cách cắm cột cờ trên ngọn đồi (chắc là mỗi ngọn 1 cây cờ). Sau đó đến giữa trưa mà nhà nào đéo có 1 tml ra trình diện thì Huệ xua quân giết cả nhà đó.
Địt mẹ, thế mà giờ dân TNT ca ngợi Huệ :sweat:
 
Gi
Gia Long là người ntn vậy m?
Lịch sử Việt Nam Gia Long là vị hoàng đế vĩ đại nhất vì chỉ có ông ấy làm được 3 việc mà lịch sử Việt Nam chưa từng có ai làm được
1) từ hai bàn tay trắng không còn tấc đất cắm dùi có thể lật ngược tình thế thống nhất giang sơn lên ngôi hoàng đế đánh bại kẻ thù truyền kiếp chiến thắng cuối cùng trong một cuộc nội chiến dai dẳng nhất lịch sử Việt Nam.
2) là con cháu hậu duệ trực hệ của vua tiền triều bị kẻ thù cướp sạch cơ nghiệp đuổi giết khắp nơi mà tự mình chỉ huy 3 quân đánh bại kẻ thù chẳng những phục hồi cơ nghiệp tổ tiên mà còn hoàn thành ước vọng tổ tiên và dân tộc mơ ước đã 200 năm mà chưa thực hiện được thì Nguyễn Ánh đã làm được.
3) là người duy nhất trong lịch sử Việt Nam dẫn quân dân nam bộ xuất phát từ nam bộ đánh ngược ra bắc vào Thăng Long thống nhất nước nhà lôi 3 sĩ phu Bắc Hà đầu sỏ ra đánh ngay tại Văn Miếu Quốc Tử Giám để sỉ nhục toàn bộ sĩ phu Bắc Hà vì bất trung bất nghĩa bất tín.
Sau này tụi vnch mơ ước một ngày đem quân nam vào Thăng Long là điều mà chỉ có duy nhất Nguyễn Ánh làm được
Vì 3 điều này mà bọn cơm sườn phía bắc ở Thăng Long Hà Nội ám ảnh Nguyễn Ánh cho nên tụi nó ra sức bôi nhọ ông ấy
Vì tụi nó sợ có một Nguyễn Ánh thứ hai xuất hiện làm được 3 điều này thì cơm sườn sẽ theo số phận Tây Sơn và sọ của ai đó sẽ bị ngâm trong bô nước tiểu
 
Cách đó gần 200 năm, chúa Trịnh đã làm cái Lầu Ngũ Long cực kỳ khủng rồi. Cao khoảng 60m, khuôn viên có chuồng voi, phía sau là sông Hồng để duyệt thủy binh.

519419421_1342264247904956_3661495262668934360_n.jpg
giờ nó đâu rồi mày, còn tàn tích gì ko
 
Lịch sử Việt Nam Gia Long là vị hoàng đế vĩ đại nhất vì chỉ có ông ấy làm được 3 việc mà lịch sử Việt Nam chưa từng có ai làm được
1) từ hai bàn tay trắng không còn tấc đất cắm dùi có thể lật ngược tình thế thống nhất giang sơn lên ngôi hoàng đế đánh bại kẻ thù truyền kiếp chiến thắng cuối cùng trong một cuộc nội chiến dai dẳng nhất lịch sử Việt Nam.
2) là con cháu hậu duệ trực hệ của vua tiền triều bị kẻ thù cướp sạch cơ nghiệp đuổi giết khắp nơi mà tự mình chỉ huy 3 quân đánh bại kẻ thù chẳng những phục hồi cơ nghiệp tổ tiên mà còn hoàn thành ước vọng tổ tiên và dân tộc mơ ước đã 200 năm mà chưa thực hiện được thì Nguyễn Ánh đã làm được.
3) là người duy nhất trong lịch sử Việt Nam dẫn quân dân nam bộ xuất phát từ nam bộ đánh ngược ra bắc vào Thăng Long thống nhất nước nhà lôi 3 sĩ phu Bắc Hà đầu sỏ ra đánh ngay tại Văn Miếu Quốc Tử Giám để sỉ nhục toàn bộ sĩ phu Bắc Hà vì bất trung bất nghĩa bất tín.
Sau này tụi vnch mơ ước một ngày đem quân nam vào Thăng Long là điều mà chỉ có duy nhất Nguyễn Ánh làm được
Vì 3 điều này mà bọn cơm sườn phía bắc ở Thăng Long Hà Nội ám ảnh Nguyễn Ánh cho nên tụi nó ra sức bôi nhọ ông ấy
Vì tụi nó sợ có một Nguyễn Ánh thứ hai xuất hiện làm được 3 điều này thì cơm sườn sẽ theo số phận Tây Sơn và sọ của ai đó sẽ bị ngâm trong bô nước tiểu
xét ra thì ánh vẫn gốc bắc mà mày.
từ lúc phủ chúa nguyễn thất thủ bỏ chạy đến khi thống nhất giang sơn cỡ gần 30 năm.
 
có một bài viết trên web nghiencuulichsu nói về vấn đề này. Tại sao khi đã giành được chính quyền rồi thì vua Gia Long lại đi theo vết xe đổ của những người tiền nhiệm --> quá tập quyền, bảo thủ tự cắt đứt mối quan hệ hòa hảo và sự giúp đỡ từ đồng minh phương tây, mất di cơ hội duy tân như Nhật Bản :)))

Thời đó Công Giáo tụi tao truyền bá tư tưởng chỉ tôn thờ 1 thiên chúa chứ không cúi mình trước ai rồi chưa kể truyền bá kiến thức tây phương vô nữa nên ông Gia Long sợ mất quyền lực =))
Đm ước gì Nguyễn Phúc Cảnh cai trị Việt Nam thời đó là hóa rồng cmnr.
 
Lầu Ngũ Long tao chưa nghe các sử khác nhắc tới nhưng sử ký của các linh mục Tây khi đang ở Đàng Ngoài mô tả nhiều về kinh thành Thăng Long của nhà Lê, họ viết rằng kinh thành nhỏ, không cao, cỏ mọc um tùm, đi ngang qua còn thấy cứt ngựa nằm rải rác.
Tao dám chắc Lầu Ngũ Long không vượt qua độ cao 15m, VN thời đó chưa có kỹ thuật xây dựng giàn giáo bằng gỗ như TQ hay bằng cốt thép như của Tây.
Các công trình VN cổ được người Pháp chụp lại đến nay cho thấy đa số công trình VN dùng đá mài giũa rồi dùng nhựa cây hay 1 hợp chất gì ngoài tự nhiên để kết dính, nhưng khả năng chịu lực thấp nên không xây cao được.
Kỹ thuật xây dựng phải nói đến bọn Nhật Bản, nó đỉnh hơn TQ khi xây được các giàn giáo gỗ cao xếp chồng nối vào nhau. Bọn TQ và VN thường dùng nền móng đá gạch xếp chồng lên nhau nên mới cao lên được.
Tầm bậy. Điện Kính Thiên được tìm thấy với kỹ thuật ghép khớp gỗ cực kỳ tinh sảo. Từ thời Trần, người Việt đã trồng được cái Tháp Phổ Minh ~20m rồi. Kỹ thuật gạch nung và vật liệu kết dính khá đa dạng hơn. Thời Trịnh Lê xây được cái lầu 55m hoàn toàn khả thi khi trồng tầng kiểu tháp.
4647600-e841f85eaec7605aa1947d6074b9c36a.jpg


800px-Samuel_Baron_-_The_City_of_CHA-CHO%2C_the_Metropolis_of_TONQUEEN.jpg


Lầu Ngũ Long chỉ là một công trình trong quần thể chúa Trịnh thôi. Một số nhà nghiên cứu cho rằng Phủ Chúa Trình chiếm diện tích cỡ 1/10 Thăng Long khi đó bao gồm cả khu nuôi voi, trại lính, thủy quân, mấy chục cung phủ, vườn ao hồ,...
 
xét ra thì ánh vẫn gốc bắc mà mày.
từ lúc phủ chúa nguyễn thất thủ bỏ chạy đến khi thống nhất giang sơn cỡ gần 30 năm.
Gốc gì.
Người ta chỉ tính nơi sinh của cha hoặc ông nội là nguyên quán
Đéo ai xét 10 đời cả
 
Xàm lồn địp mạ, cái triều đại thất bại nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Chọn kinh đô ở Huế là thất bại ngay từ đầu rồi, trông đìu hiu vãi đạn mà đặt làm kinh đô, làm kéo cả đất nước đi xuống hàng trăm năm, vãi cả lúa :vozvn (21):
Nếu muốn phát triển kinh tế thì nên đặt kinh thành ở Đà Nẵng, nhưng để phòng thủ thì cần nằm sâu trong đất liền, có có núi, có sông, có Hải Vân che chắn thì có nhiều thời gian ứng phó hơn.

Đơn giản thế này, mày thấy khi Pháp đánh vào Đã Nẵng ko? Sau này Mỹ cũng chọn Đà Nẵng làm nơi đổ bộ.

Thời kỳ biến động, nhiễu loạn nên đối với những bộ óc đã chinh chiến, bình định, nhiều năm của GL cùng triều thần chắc chắn nhận thấy vấn đề này và lựa chọn đấy là có sự cân nhắc tính toán cẩn thận.
 
Tầm bậy. Điện Kính Thiên được tìm thấy với kỹ thuật ghép khớp gỗ cực kỳ tinh sảo. Từ thời Trần, người Việt đã trồng được cái Tháp Phổ Minh ~20m rồi. Kỹ thuật gạch nung và vật liệu kết dính khá đa dạng hơn. Thời Trịnh Lê xây được cái lầu 55m hoàn toàn khả thi khi trồng tầng kiểu tháp.
4647600-e841f85eaec7605aa1947d6074b9c36a.jpg


800px-Samuel_Baron_-_The_City_of_CHA-CHO%2C_the_Metropolis_of_TONQUEEN.jpg


Lầu Ngũ Long chỉ là một công trình trong quần thể chúa Trịnh thôi. Một số nhà nghiên cứu cho rằng Phủ Chúa Trình chiếm diện tích cỡ 1/10 Thăng Long khi đó bao gồm cả khu nuôi voi, trại lính, thủy quân, mấy chục cung phủ, vườn ao hồ,...
Để chủ nhật tao gửi cho mày xem mấy ảnh cổ thực tế, trước tao lưu trong laptop.
 
Mỗi lần có bài viết về Ánh - Huệ là toàn bọn chia phe chửi nhau, mà toàn chửi theo cái yêu - ghét cảm tính, đéo thấy dẫn chứng gì. Tóm lại, xàm chỉ nên đăng sex, chửi đổng, gore gủng gì đó thôi, chứ toàn bọn đầu khấc thì to mà đầu trên thì teo, tranh luận thì đéo có nhưng chửi nhau thì giỏi vãi Lồn :feel_good:
 
Thằng gia nô 3 họ nguyễn ánh thì kinh rồi, các triều đại trước như lý trần lê đều xem bọn xiêm là đám man di, mọi rợ nhưng thằng gia nô ánh lại sẵn sàng quỳ rạp xưng thần với thằng vua xiêm, lên ngôi rồi thì lại dở mấy trò trả thù đê hèn ra, đám con cháu của thằng ánh cũng hèn hạ ko kém, con chó đảm lên ngôi thì ăn chơi bét nhè, người dân đói khổ khởi nghĩa khắp nơi, đến thằng chó tự đức thì suốt ngày lo bú tí con mẹ từ dụ của nó dù đã lớn tồng ngồng rồi, sức thì yếu mà bày đặt làm trò ác với mấy người truyền đạo phương tây, đến khi bị pháp đánh cho de kèn thì quỳ mọp xin tha mạng, cả nó lũ nguyễn fuck có bị đày xuống 18 tầng địa ngục cũng ko hết tội, à mà lũ nghiệt súc nguyễn fuck vẫn còn để lại con nghiệt súc atlas nữa
Tau chỉ biết Nguyễn Huệ là gia nô 3 Họ Liên Hợp Quốc thôi
Gia Nô vua Lê
Gia Nô chúa Nguyễn
Gua Nô họ Ái Tân Giác La
 
Họ Trịnh nửa
Địt mẹ thế là Huệ gia nô hơn cả Lã Bố à?
Hèn gì Lã Bố chỉ bị chém chứ Huệ phải moi xác lên đái vào sọ cho hết cái thói gia nô
Tau có đọc tài liệu về tên giặc Huệ này nhưng chưa thấy nó thờ cha họ Trịnh?
 
Manh mối xuất hiện của dòng họ Hồ (Tây Sơn) trên đất Quy Nhơn - Bình Định xưa kia liên quan đến cuộc nội chiến khốc liệt trong lịch sử nước ta thời Trịnh - Nguyễn phân tranh thế kỷ 17. Bấy giờ quân Trịnh chiếm Đàng Ngoài, quân Nguyễn ở Đàng Trong. Hai bên giành đất, tranh dân, đánh nhau 7 lần trong khoảng 45 năm, tính từ trận đầu tiên năm 1627 đến trận cuối vào 1672. Khoảng thời gian này, họ Hồ đã có mặt trên đất Nghệ An (thuộc chúa Trịnh) từ 700 năm trước, mà ông tổ khai sáng là Trạng nguyên Hồ Hưng Dật.
Chúng tôi đã tiếp xúc với một số bà con họ Hồ ở miền Trung, miền Bắc, cũng như tại TP.HCM, và được cho xem nhiều tài liệu về gia phả, một số sử liệu và các tác phẩm liên quan. Trong số đó có cuốn Họ Hồ trong cộng đồng dân tộc Việt Nam do Hồ Sĩ Giàng biên soạn đã tái bản đến lần thứ 7 bởi NXB Văn hóa thông tin và NXB Tổng hợp TP.HCM, được Ban liên lạc họ Hồ toàn quốc xem là “tiếng nói chính thức” phổ biến trong mỗi kỳ họp mặt. Trong cuốn sách có viết rõ: “Họ Hồ là họ lâu đời ở xứ Nghệ. Kể từ Trạng nguyên Hồ Hưng Dật lập nghiệp ở hương Bào Đột (thuộc xã Quỳnh Lâm, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An) đến nay đã trên 1.000 năm (…). Hồ Hưng Dật người Triết Giang. Triết Giang xưa (Ngô Việt) nằm trong dải đất Bách Việt, bị Hán tộc tràn xuống Hán hóa (là tộc Việt cuối cùng bị Hán hóa). Dân tộc Việt Nam là Lạc Việt (và là dân tộc) duy nhất không bị Hán hóa. Các nhà khảo cổ học, sử học đều xác nhận tổ tiên xa xưa của người Bách Việt và Lạc Việt có quan hệ mật thiết với nhau. Vậy Hồ Hưng Dật nguồn gốc là người tộc Việt thuộc phương Nam Trung Quốc (…) đã đặt chân đến Bào Đột (khoảng năm 947-951) xây dựng nền móng đầu tiên của dòng họ Hồ trong cộng đồng dân tộc Việt Nam”. Ông là “một trí thức lớn của thời đại ấy, đã đậu trạng nguyên, đã làm quan, nhưng đã lui về trở thành một nhân sĩ ẩn dật, gắn bó với nhân dân, không tranh bá đồ vương. Con cháu ông phát triển ở hai châu Hoan và Diễn (Nghệ An - Hà Tĩnh ngày nay - NV) và nhiều nơi trên đất nước”.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Hồ Hưng Dật được cử sang làm thái thú ở châu Diễn, song: “cũng có thuyết cho rằng ông sang Giao Châu (Việt Nam) lánh nạn và được cử làm quan. Quốc sử triều Nguyễn viết ông trôi dạt và được làm quan ở châu Diễn. Thuyết này xét ra có phần hợp lý hơn”. Ông vốn đồng liêu với Đinh Công Trứ (thân sinh Đinh Bộ Lĩnh), vì thế Đinh Bộ Lĩnh có biết ông. Khi Đinh Bộ Lĩnh muốn dấy binh dẹp các sứ quân đã đến gặp Hồ Hưng Dật thăm dò xem ông có ý dấy quân hay không. Ông đã thổ lộ với Đinh Bộ Lĩnh chỉ mong làm tròn phận sự của người dân, “để cho Đinh Bộ Lĩnh yên lòng, ông giơ kiếm lên thề “Vạn đại vi dân”, nghĩa là vạn đời làm dân, hay vạn đời vì dân. Ông lo việc cày ruộng, chiêu mộ dân phiêu tán, lập ấp trại”.
Chính khoảng thời gian khói lửa tương tàn Trịnh - Nguyễn đang bốc cao ấy (1655 - 1657), hạt giống họ Hồ đã theo ngọn gió ly loạn bay tản về phía Nam. Trong số người bị quân Nguyễn đưa đi khai khẩn ruộng đất tại ấp Tây Sơn có Hồ Phi Khanh, là ông tổ 4 đời của anh em nhà Tây Sơn. Một tài liệu lịch sử ghi: “Lúc bấy giờ ở huyện Phù Ly, đất Quy Nhơn có người tên là Nguyễn Nhạc khởi binh (…). Nguyên ông tổ 4 đời của Nguyễn Nhạc là họ Hồ cùng một tổ với Hồ Quý Ly ngày trước, người ở huyện Hưng Nguyên, đất Nghệ An, gặp lúc chúa Trịnh, chúa Nguyễn đánh nhau, bị bắt đem vào ở ấp Tây Sơn thuộc đất Quy Nhơn. Đến đời ông thân sinh là Hồ Phi Phúc dời nhà sang ở ấp Kiên Thành, nay là làng Phú Lạc, huyện Tuy Viễn, sinh được 3 người con: trưởng là Nhạc, thứ là Lữ, thứ ba là Huệ”. Trần Đình Kỳ trong bài Quê mẹ nhà Tây Sơn viết rõ: “Các tài liệu đã công bố cũng đều cho rằng tổ tiên của các thủ lĩnh Tây Sơn vốn họ Hồ ở Nghệ An. Đến giữa thế kỷ 17, ông tổ 4 đời của Nguyễn Huệ bị chúa Nguyễn bắt vào Đàng Trong cùng với nhiều tù binh khác đưa đi khai hoang lập ấp ở vùng Tây Sơn thượng đạo (phủ Quy Nhơn). Đến đời ông Hồ Phi Phúc lấy vợ là Nguyễn Thị Đồng (sinh các anh em Hồ Thơm), chuyển về ở quê vợ tại làng Phú Lạc thuộc Tây Sơn hạ đạo, ký ngụ tại quê vợ, quê mẹ (nay thuộc Bình Định). Theo Đại Nam nhất thống chí, đây là tục lệ phổ biến của người Bình Định xưa (…). Phú Lạc trở thành quê hương thứ hai của dòng họ Hồ ở Đàng Trong”.
Rất nhiều tác giả khác như Hoa Bằng, nhà gia phả học Nguyễn Đức Dụ, nhà sử học Nguyễn Phương, nhà văn Văn Tân, nhà thơ Lê Minh Quốc (qua bộ sách Kể chuyện danh nhân Việt Nam), nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Liễn, Phạm Văn Sơn (với các bài khảo về Tây Sơn) đều nhắc đến lai lịch họ Hồ (gốc Nghệ An) của vua Quang Trung - Nguyễn Huệ. Vậy tại sao anh em họ Hồ lại đổi sang họ Nguyễn (là họ mẹ)?
Để trả lời, một số sự kiện lịch sử và bối cảnh thời trước đã được người họ Hồ thời nay dẫn chứng. Như chúa Nguyễn, hẳn nhiên phải để mắt chú ý đến các lưu dân đưa từ đất chúa Trịnh vào khai khẩn phía Nam. Quân Nguyễn không khỏi đề phòng tâm lý thù nghịch của các lưu dân bị đày xa xứ, bị đưa đi khai hoang ở chốn núi rừng xa lạ, vắng vẻ kia. Để tránh cặp mắt tập trung dò xét, nên khi khởi nghĩa, anh em Tây Sơn phải lấy họ mẹ (Nguyễn) thay vì họ gốc “mang sẵn” từ Nghệ An vào (Hồ). Việc thay tên đổi họ xét ra cũng chẳng lấy gì làm lạ, như Hồ Sĩ Giàng giải thích: “Có nơi, có lúc vì bị o ép, một số người phải đổi sang họ khác. Tuy vậy, chỉ có một số người thay tên đổi họ ở từng nơi, từng lúc, họ Hồ về cơ bản vẫn đứng vững. Có người đổi họ, gặp buổi hanh thông đã trở lại họ Hồ như Hồ Quý Ly (trước lấy họ Lê: Lê Quý Ly). Có người biết là dòng dõi họ Hồ nhưng vì nhiều lý do nên vẫn giữ họ mới đổi như trường hợp vua Quang Trung. Ngay cả gần đây, có một số người vì lý do chính trị phải đổi sang họ khác; nay đã trở lại họ Hồ như trường hợp ông Hồ Văn Phúc - con ông Hồ Văn An (ông An tham gia phong trào yêu nước của Nguyễn Thái Học, để trốn tránh sự truy lùng của thực dân Pháp đã đổi sang họ Nguyễn, nay hơn 50 năm, con ông đã lấy lại họ Hồ). Ngược lại, cũng có một số trường hợp vốn là họ Nguyễn, họ Hoàng… làm nghĩa tử cho họ Hồ (cháu ngoại) vì ơn sâu nghĩa nặng nên qua bao nhiêu đời vẫn giữ nguyên họ mẹ (Hồ). Một số người gốc họ Hồ, hoặc làm nghĩa tử, hoặc vì một lý do nào đó, đổi sang họ Nguyễn, họ Hà, họ Bùi, họ Mai, họ Vũ, họ Lê… nay vẫn giữ nguyên họ ấy”.
Riêng Nguyễn Huệ (Hồ Thơm) đổi họ đổi tên để tránh sự dò xét của quân Nguyễn vì đã từng là học trò cưng của một nhân sĩ có tư tưởng phản kháng đương thời là giáo Hiến. Giáo Hiến có người bạn rất thân, thuộc hàng “tứ trụ đại thần” (Nội hữu) dưới triều Võ Vương là Trương Văn Hạnh. Trương Văn Hạnh lúc bấy giờ chống lại sự lộng quyền của Trương Phúc Loan (cậu vua). Sau Trương Phúc Loan giết Trương Văn Hạnh, giáo Hiến thương tiếc người bạn tri kỷ, lại ngại sẽ có ngày đến lượt mình bị hại, nên đã bỏ Phú Xuân (Huế) vào sống ở ấp Yên Thái (Quy Nhơn), mở lớp dạy học. Trong số học trò có 3 anh em nhà Tây Sơn. Để tránh sự dòm ngó của quân Nguyễn lúc ban đầu khi thanh thế chưa lớn, có thể bất lợi, anh em Tây Sơn đổi từ họ Hồ sang họ Nguyễn. Điều này Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược nhận xét anh em ông Nhạc lúc đầu chiêu quân “mới lấy họ mẹ là Nguyễn để khởi sự cho dễ thu phục nhân tâm, vì rằng đất trong Nam thời ấy vẫn là đất của chúa Nguyễn!”.
[td]
Theo Bảo tàng Tây Sơn, tỉnh Bình Định, nguồn gốc gia tộc anh em Nhạc - Huệ - Lữ vốn dòng dõi họ Hồ ở Quỳnh Đôi, con cháu Hồ Thế Anh (còn gọi là Hồ Sĩ Anh, sinh 1618) trúng hội thi tam trường (tương đương phó bảng triều Nguyễn). Năm Vĩnh Thịnh thứ nhất đời Lê Thần Tông (1658) làm quan đến Hộ bộ Tả Thị Lang tước Diễn trạch hầu. Hồ Thế Anh sinh được 5 người con trai là Hồ Thế Viêm (sinh đồ), Hồ Phi Cơ (hội thi tam trường), Hồ Danh Lưu, Hồ Phi Tích (hoàng giáp) và Hồ Phi Đoan. Hồ Thế Viêm sinh Phi Khang.
Phi Khang sinh được 5 người con trai là Hồ Phi Trù, Hồ Phi Phú, Hồ Phi Thọ, Hồ Phi Phúc, Hồ Phi Huống. Từ Quỳnh Đôi, Hồ Thế Viêm dời nhà lên Nhân Lý (tức Nhân Sơn thuộc Quỳnh Hồng - Quỳnh Lưu Nghệ An), rồi lại đôn vào thôn Thái Lão, phủ Hưng Nguyên, Nghệ An. Từ Thái Lão, Hồ Phi Khang (nhiều sách chép là Hồ Phi Khanh), Hồ Phi Phúc di cư vào Đàng trong. Bước đầu làm ăn ở huyện Tuy Viễn (nay là huyện An Nhơn). Sau đó Hồ Phi Phúc lấy bà Nguyễn Thị Đồng ở Tây Sơn hạ sinh ra Nhạc, Huệ, Lữ và một gái út. Mộ của ông Hồ Phi Phúc và bà Nguyễn Thị Đồng còn di tích ở núi Long Cương thuộc làng Kiên Mỹ, Bình Khê, Bình Định.
Trích tài liệu của Hồ Sĩ Giàng
[/td]​
 
[3] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, bản dịch của Viện Sử học, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2002, trang 580.
[4] Đại Nam thực lục, đã dẫn, trang 588.
[5] Đại Nam thực lục, đã dẫn, trang 665.
[6] Đại Nam thực lục (Tiền biên), đã dẫn, trang 277.
[7] Tức Chúa Tiên Nguyễn Hoàng.
[8] Châu bản triều Nguyễn, Gia Long tập 1, tờ 2-3.

Hoàng đế Gia Long và công cuộc khai lập triều Nguyễn 200 năm nhìn lại​

Kỳ I: Lập nước, đặt quốc hiệu, xưng Hoàng đế Gia Long, vị Hoàng đế đầu tiên sáng lập nên triều Nguyễn, trị vì từ năm 1802 đến năm 1820, ông là người thống nhất giang sơn về một mối sau gần 300 năm chia cắt bởi cuộc chiến phân tranh Trịnh-Nguyễn. Nhân kỷ niệm 200 năm ngày mất của Hoàng đế Gia Long, cùng nhìn lại sự nghiệp của ông và công cuộc khai sáng vương nghiệp nhà Nguyễn qua Châu bản và một số tư liệu lịch sử.
Gia Long tên thật là Nguyễn Phúc Ánh (Nguyễn Ánh), còn có húy là Chủng () hay Noãn (), là con trai thứ ba của hoàng tử Nguyễn Phúc Luân với bà Nguyễn Thị Hoàn, và là cháu nội của Chúa Nguyễn Phúc Khoát. Ông sinh ngày 15 tháng Giêng năm Nhâm Ngọ (ngày 8 tháng 2 năm 1762), mất ngày 19 tháng 12 năm Kỷ Mão (ngày 3 tháng 2 năm 1820), truyền ngôi cho Hoàng Thái tử Nguyễn Phúc Đảm tức vua Minh Mệnh (Minh Mạng).

Có thể nói cuộc đời Nguyễn Ánh (Gia Long) là sự nghiệp của một võ tướng trên lưng ngựa. Năm 1777 khi mới 15 tuổi ông đã phải bôn tẩu gian nan, cùng với gia tộc chúa Nguyễn bắt đầu cuộc chiến 25 năm với Tây Sơn để khôi phục ngôi vị. Cho đến nay có khá nhiều quan điểm trái ngược về Nguyễn Ánh, nhiều người cho rằng ông bắt tay với Xiêm La, Pháp và nhà Thanh để chống lại Tây Sơn. Việc cầu viện ngoại bang nhằm khôi phục vương quyền đã khiến Nguyễn Ánh bị chỉ trích rất nhiều. Tuy nhiên khách quan mà nói, ông là người có đóng góp không nhỏ trong việc thống nhất giang sơn, kết thúc cuộc nội chiến liên miên nhiều thế kỷ ở Việt Nam.

Năm 1792, vua Quang Trung mất, nội bộ nhà Tây Sơn suy yếu, lợi dụng cơ hội đó Nguyễn Ánh đánh bại nhà Tây Sơn. Năm 1802 ông chính thức lên ngôi vua, lấy niên hiệu Gia Long, mở ra một triều đại quân chủ mới - Triều Nguyễn[1].



Chân dung vua Gia Long. Nguồn: Sưu tầm
Ngày mồng 1 tháng 5 năm Nhâm Tuất (1802) ông cho lập đàn ở đồng An Ninh, hiệp tế trời đất, kính cáo việc đặt niên hiệu. Hôm sau kính cáo vong linh liệt thánh, lễ xong vua ngự ở điện, nhận lễ chầu mừng. Đặt niên hiệu là Gia Long, đại xá cho cả nước, ban chiếu cùng 6 điều thi ân.

Năm 1804, sau khi lên ngôi sắp đặt chính trị ổn định, vua Gia Long sai Lê Quang Định cùng các sứ thần sang nước Thanh cầu phong và đề nghị công nhận quốc hiệu Nam Việt với ý nghĩa “Các đời trước mở mang cõi viêm bang, mỗi ngày một rộng lớn, bao gồm cả các nước Việt Thường, Chân Lạp, dựng quốc hiệu là Nam Việt, truyền nối hơn 200 năm. Nay đã vỗ yên được toàn cõi Việt, nên cho khôi phục hiệu cũ để chính danh tốt”. Nhưng vua nước Thanh cho rằng chữ Nam Việt dễ bị nhầm lẫn bao gồm cả Đông Tây Việt[2] nên không muốn cho. Vua Gia Long hai ba lần phục thư biện giải, lại nói nếu không cho thì không thụ phong. Vua nhà Thanh ngại mất lòng, mới cho dùng chữ Việt Nam để đặt tên nước[3].

Ngay sau khi được nhà Thanh công nhận quốc hiệu, ngày Đinh Sửu, tháng 2 năm Giáp Tý (1804) vua Gia Long cho làm lễ kính cáo Thái miếu. Xuống chiếu bố cáo khắp trong ngoài rằng “Đế vương dựng nước, trước phải trọng quốc hiệu để tỏ rõ nhất thống. Xét từ các đấng tiên thánh vương ta xây nền dấy nghiệp, mở đất Viêm bang, gồm cả đất đai từ Việt Thường về Nam, nhân đó lấy chữ Việt mà đặt tên nước. Hơn 200 năm, nối hòa thêm sáng, vững nền thần thánh dõi truyền, giữ được vận trong ngoài yên lặng. Chợt đến giữa chừng, vận nước khó khăn, ta đem tấm thân nhỏ bé lo dẹp giặc loạn, nên nay nhờ được phúc lớn, nối được nghiệp xưa, bờ cõi Giao Nam, đều vào bản tịch. Sau nghĩ tới mưu văn công võ tướng, ở ngôi chính, chịu mệnh mới, nên lấy ngày 17 tháng 2 năm nay, kính cáo Thái miếu, cải chính quốc hiệu là Việt Nam, để dựng nền lớn, truyền lâu xa. Phàm công việc nước ta việc gì quan hệ đến quốc hiệu và thư từ báo cáo với nước ngoài, đều lấy Việt Nam làm tên nước, không được quen xưng hiệu cũ là An Nam nữa”. Sau đó hạ chiếu thông cáo đến các nước Xiêm La, Lữ Tống và các thuộc quốc Chân Lạp, Vạn Tượng đều biết[4].

10-02-002-075821-100220-32.jpg


Đặt quốc hiệu Việt Nam năm Gia Long thứ 3 (1804). Nguồn: Đại Nam thực lục, Đệ nhất kỷ, quyển XXIII
Mặc dù đã chính thức xưng vương, đặt niên hiệu vào năm 1802, nhưng với tư tưởng của người có chí lớn, muốn thể hiện quyền uy thiên tử, theo đề nghị của quần thần, năm 1806 vua Gia Long lên ngôi Hoàng đế tại điện Thái Hòa. Trong bản Chiếu ban bố việc lên ngôi Hoàng đế có lời rằng: Trẫm nghĩ: Đức của người làm vua giống như mặt trời, vương giả lấy đó mà soi sáng; đạo thống như trời, thánh nhân nhờ đấy mà noi theo phép tắc. Lớn lao thay nhà nước ta, bao trùm cả cõi Nam! Các thánh đời trước, dựng nghiệp dốc lòng, gắng sức xây nền, hai trăm năm lẻ, thánh hiền tiếp nối, công đức rạng danh… Trẫm nhờ uy linh tông miếu xã tắc và sức mạnh của quần thần, phá được quân thù, khôi phục nghiệp cũ, mở mang bờ cõi, lập nên công lớn, thực là chức phận của Trẫm, đâu dám ở ngôi cao. Nhưng các thân công đại thần nhiều lần tâu rằng trách nhiệm yên dân trời đã giao cho Trẫm mà lịch số vô cùng cũng duy có Trẫm nối dõi, cố xin Trẫm lên ngôi Hoàng đế để tỏ rõ đại thống. Vì vậy, Trẫm định ngày mồng 7 tháng này kính cáo Trời Đất, ngày 9 kính cáo Tôn Miếu, ngày 12 tiếp nhận sách văn, tôn xưng Hoàng đế”[5].

Sau khi lập quốc, Gia Long cho lập danh sách truy tôn, tặng thưởng các công thần theo phò vua khai quốc. Vua ban Dụ rằng: Đấng vương giả dựng nghiệp truyền mối, trước phải tôn thờ người có đức, báo đáp người có công. Nhà nước ta trăm trận vất vả mới khôi phục được non sông, đành là mệnh trời yêu mến, nhưng cũng thực là nhờ sức của các tướng sĩ cùng ta chống kẻ thù chung.Phàm người có chiến công, còn sống thì đã được vinh gia tước trật, duy những người vì nước bỏ mình, trong lúc can qua bận rộn, chưa kịp truy phong, mà sổ ghi công trạng vẫn còn, thì đều chocác quan chưởng lãnh và chánh phó trưởng chi [của các viên đã mất] tới trước điện hầu nghe bàn công truy tặng, để cho yên ủi hồn thơm đã khuất[6]. Lại ra lệnh thu dùng con cái, không có con thì dùng cháu, không có cháu thì dùng em, tùy theo công lao nặng nhẹ, hoặc trao cho quan chức, hoặc cho miễn binh dao trọn đời. Sau đó sai trấn Phiên An chọn đất xây đền, đặt tên là đền Hiển Trung, thờ những công thần, lại sắc cho Bộ Lễ bàn định điển lễ thờ tự, hằng năm xuân thu làm lễ tế. Đặt phu coi đền 25 người.

Ngoài ra ông còn cho sửa sang phả điệp tông thất, kê khai con cháu trong phả hệ. Bản Chiếu ngày 15 tháng 12 năm Gia Long thứ nhất (1802) chiếu cho những người thuộc dòng Nguyễn Phước tộc biết: Từ khi Đức Tiên Thái Vương[7] dựng nước, Nam giao thánh thần truyền nối trải được tám, chín đời, các chi phái sinh sôi phồn thịnh. Khi nước nhà mới khởi nghiệp mở mang, tông tính nhiều phen bôn ba. Nay nhờ liệt thánh rủ lòng che chở, bình kẻ tiếm loạn, duy việc các thế hệ thân thích trong dòng họ đến nay vẫn chưa được rõ ràng. Vì vậy nay ban đặc chiếu căn cứ từ Đức Tiên Thái Vương cùng Liệt Tiên Thánh Vương cho đến nay chiếu theo phả điệp của hoàng tộc phụng truyền cho công tính các chi phái đều kê khai rõ ràng các đời, phả hệ phỏng từ Đức Tiên Thái Vương sinh hạ được công tử là hiền ngôi, ai là dòng đích, ai là dòng thứ, nối sinh con cháu các thế hệ được bao nhiêu, nhận ân điển của liệt triều cũng vậy. Hễ công tính các chi phái hiện còn bao nhiêu, ai đã được dự vào hàng quan chức, ai chưa được đều phải kê khai đầy đủ theo các thế hệ trước, nghiên cứu rõ ràng đích thực, sửa sang phả điệp trình lên để xem xét[8].

Sắp xếp ổn định xong việc định đô, đặt niên hiệu, quốc hiệu, tôn xưng đế hiệu, báo đáp công thần, sửa sang tông phả; Hoàng đế Gia Long bắt tay vào công cuộc xây dựng thiết chế bộ máy chính quyền, chế định triều nghi, luật pháp, binh ngạch, khoa cử… Công cuộc khai quốc của ngài còn rất nhiều việc phải làm.
 
Manh mối xuất hiện của dòng họ Hồ (Tây Sơn) trên đất Quy Nhơn - Bình Định xưa kia liên quan đến cuộc nội chiến khốc liệt trong lịch sử nước ta thời Trịnh - Nguyễn phân tranh thế kỷ 17. Bấy giờ quân Trịnh chiếm Đàng Ngoài, quân Nguyễn ở Đàng Trong. Hai bên giành đất, tranh dân, đánh nhau 7 lần trong khoảng 45 năm, tính từ trận đầu tiên năm 1627 đến trận cuối vào 1672. Khoảng thời gian này, họ Hồ đã có mặt trên đất Nghệ An (thuộc chúa Trịnh) từ 700 năm trước, mà ông tổ khai sáng là Trạng nguyên Hồ Hưng Dật.
Chúng tôi đã tiếp xúc với một số bà con họ Hồ ở miền Trung, miền Bắc, cũng như tại TP.HCM, và được cho xem nhiều tài liệu về gia phả, một số sử liệu và các tác phẩm liên quan. Trong số đó có cuốn Họ Hồ trong cộng đồng dân tộc Việt Nam do Hồ Sĩ Giàng biên soạn đã tái bản đến lần thứ 7 bởi NXB Văn hóa thông tin và NXB Tổng hợp TP.HCM, được Ban liên lạc họ Hồ toàn quốc xem là “tiếng nói chính thức” phổ biến trong mỗi kỳ họp mặt. Trong cuốn sách có viết rõ: “Họ Hồ là họ lâu đời ở xứ Nghệ. Kể từ Trạng nguyên Hồ Hưng Dật lập nghiệp ở hương Bào Đột (thuộc xã Quỳnh Lâm, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An) đến nay đã trên 1.000 năm (…). Hồ Hưng Dật người Triết Giang. Triết Giang xưa (Ngô Việt) nằm trong dải đất Bách Việt, bị Hán tộc tràn xuống Hán hóa (là tộc Việt cuối cùng bị Hán hóa). Dân tộc Việt Nam là Lạc Việt (và là dân tộc) duy nhất không bị Hán hóa. Các nhà khảo cổ học, sử học đều xác nhận tổ tiên xa xưa của người Bách Việt và Lạc Việt có quan hệ mật thiết với nhau. Vậy Hồ Hưng Dật nguồn gốc là người tộc Việt thuộc phương Nam Trung Quốc (…) đã đặt chân đến Bào Đột (khoảng năm 947-951) xây dựng nền móng đầu tiên của dòng họ Hồ trong cộng đồng dân tộc Việt Nam”. Ông là “một trí thức lớn của thời đại ấy, đã đậu trạng nguyên, đã làm quan, nhưng đã lui về trở thành một nhân sĩ ẩn dật, gắn bó với nhân dân, không tranh bá đồ vương. Con cháu ông phát triển ở hai châu Hoan và Diễn (Nghệ An - Hà Tĩnh ngày nay - NV) và nhiều nơi trên đất nước”.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Hồ Hưng Dật được cử sang làm thái thú ở châu Diễn, song: “cũng có thuyết cho rằng ông sang Giao Châu (Việt Nam) lánh nạn và được cử làm quan. Quốc sử triều Nguyễn viết ông trôi dạt và được làm quan ở châu Diễn. Thuyết này xét ra có phần hợp lý hơn”. Ông vốn đồng liêu với Đinh Công Trứ (thân sinh Đinh Bộ Lĩnh), vì thế Đinh Bộ Lĩnh có biết ông. Khi Đinh Bộ Lĩnh muốn dấy binh dẹp các sứ quân đã đến gặp Hồ Hưng Dật thăm dò xem ông có ý dấy quân hay không. Ông đã thổ lộ với Đinh Bộ Lĩnh chỉ mong làm tròn phận sự của người dân, “để cho Đinh Bộ Lĩnh yên lòng, ông giơ kiếm lên thề “Vạn đại vi dân”, nghĩa là vạn đời làm dân, hay vạn đời vì dân. Ông lo việc cày ruộng, chiêu mộ dân phiêu tán, lập ấp trại”.
Chính khoảng thời gian khói lửa tương tàn Trịnh - Nguyễn đang bốc cao ấy (1655 - 1657), hạt giống họ Hồ đã theo ngọn gió ly loạn bay tản về phía Nam. Trong số người bị quân Nguyễn đưa đi khai khẩn ruộng đất tại ấp Tây Sơn có Hồ Phi Khanh, là ông tổ 4 đời của anh em nhà Tây Sơn. Một tài liệu lịch sử ghi: “Lúc bấy giờ ở huyện Phù Ly, đất Quy Nhơn có người tên là Nguyễn Nhạc khởi binh (…). Nguyên ông tổ 4 đời của Nguyễn Nhạc là họ Hồ cùng một tổ với Hồ Quý Ly ngày trước, người ở huyện Hưng Nguyên, đất Nghệ An, gặp lúc chúa Trịnh, chúa Nguyễn đánh nhau, bị bắt đem vào ở ấp Tây Sơn thuộc đất Quy Nhơn. Đến đời ông thân sinh là Hồ Phi Phúc dời nhà sang ở ấp Kiên Thành, nay là làng Phú Lạc, huyện Tuy Viễn, sinh được 3 người con: trưởng là Nhạc, thứ là Lữ, thứ ba là Huệ”. Trần Đình Kỳ trong bài Quê mẹ nhà Tây Sơn viết rõ: “Các tài liệu đã công bố cũng đều cho rằng tổ tiên của các thủ lĩnh Tây Sơn vốn họ Hồ ở Nghệ An. Đến giữa thế kỷ 17, ông tổ 4 đời của Nguyễn Huệ bị chúa Nguyễn bắt vào Đàng Trong cùng với nhiều tù binh khác đưa đi khai hoang lập ấp ở vùng Tây Sơn thượng đạo (phủ Quy Nhơn). Đến đời ông Hồ Phi Phúc lấy vợ là Nguyễn Thị Đồng (sinh các anh em Hồ Thơm), chuyển về ở quê vợ tại làng Phú Lạc thuộc Tây Sơn hạ đạo, ký ngụ tại quê vợ, quê mẹ (nay thuộc Bình Định). Theo Đại Nam nhất thống chí, đây là tục lệ phổ biến của người Bình Định xưa (…). Phú Lạc trở thành quê hương thứ hai của dòng họ Hồ ở Đàng Trong”.
Rất nhiều tác giả khác như Hoa Bằng, nhà gia phả học Nguyễn Đức Dụ, nhà sử học Nguyễn Phương, nhà văn Văn Tân, nhà thơ Lê Minh Quốc (qua bộ sách Kể chuyện danh nhân Việt Nam), nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Liễn, Phạm Văn Sơn (với các bài khảo về Tây Sơn) đều nhắc đến lai lịch họ Hồ (gốc Nghệ An) của vua Quang Trung - Nguyễn Huệ. Vậy tại sao anh em họ Hồ lại đổi sang họ Nguyễn (là họ mẹ)?
Để trả lời, một số sự kiện lịch sử và bối cảnh thời trước đã được người họ Hồ thời nay dẫn chứng. Như chúa Nguyễn, hẳn nhiên phải để mắt chú ý đến các lưu dân đưa từ đất chúa Trịnh vào khai khẩn phía Nam. Quân Nguyễn không khỏi đề phòng tâm lý thù nghịch của các lưu dân bị đày xa xứ, bị đưa đi khai hoang ở chốn núi rừng xa lạ, vắng vẻ kia. Để tránh cặp mắt tập trung dò xét, nên khi khởi nghĩa, anh em Tây Sơn phải lấy họ mẹ (Nguyễn) thay vì họ gốc “mang sẵn” từ Nghệ An vào (Hồ). Việc thay tên đổi họ xét ra cũng chẳng lấy gì làm lạ, như Hồ Sĩ Giàng giải thích: “Có nơi, có lúc vì bị o ép, một số người phải đổi sang họ khác. Tuy vậy, chỉ có một số người thay tên đổi họ ở từng nơi, từng lúc, họ Hồ về cơ bản vẫn đứng vững. Có người đổi họ, gặp buổi hanh thông đã trở lại họ Hồ như Hồ Quý Ly (trước lấy họ Lê: Lê Quý Ly). Có người biết là dòng dõi họ Hồ nhưng vì nhiều lý do nên vẫn giữ họ mới đổi như trường hợp vua Quang Trung. Ngay cả gần đây, có một số người vì lý do chính trị phải đổi sang họ khác; nay đã trở lại họ Hồ như trường hợp ông Hồ Văn Phúc - con ông Hồ Văn An (ông An tham gia phong trào yêu nước của Nguyễn Thái Học, để trốn tránh sự truy lùng của thực dân Pháp đã đổi sang họ Nguyễn, nay hơn 50 năm, con ông đã lấy lại họ Hồ). Ngược lại, cũng có một số trường hợp vốn là họ Nguyễn, họ Hoàng… làm nghĩa tử cho họ Hồ (cháu ngoại) vì ơn sâu nghĩa nặng nên qua bao nhiêu đời vẫn giữ nguyên họ mẹ (Hồ). Một số người gốc họ Hồ, hoặc làm nghĩa tử, hoặc vì một lý do nào đó, đổi sang họ Nguyễn, họ Hà, họ Bùi, họ Mai, họ Vũ, họ Lê… nay vẫn giữ nguyên họ ấy”.
Riêng Nguyễn Huệ (Hồ Thơm) đổi họ đổi tên để tránh sự dò xét của quân Nguyễn vì đã từng là học trò cưng của một nhân sĩ có tư tưởng phản kháng đương thời là giáo Hiến. Giáo Hiến có người bạn rất thân, thuộc hàng “tứ trụ đại thần” (Nội hữu) dưới triều Võ Vương là Trương Văn Hạnh. Trương Văn Hạnh lúc bấy giờ chống lại sự lộng quyền của Trương Phúc Loan (cậu vua). Sau Trương Phúc Loan giết Trương Văn Hạnh, giáo Hiến thương tiếc người bạn tri kỷ, lại ngại sẽ có ngày đến lượt mình bị hại, nên đã bỏ Phú Xuân (Huế) vào sống ở ấp Yên Thái (Quy Nhơn), mở lớp dạy học. Trong số học trò có 3 anh em nhà Tây Sơn. Để tránh sự dòm ngó của quân Nguyễn lúc ban đầu khi thanh thế chưa lớn, có thể bất lợi, anh em Tây Sơn đổi từ họ Hồ sang họ Nguyễn. Điều này Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược nhận xét anh em ông Nhạc lúc đầu chiêu quân “mới lấy họ mẹ là Nguyễn để khởi sự cho dễ thu phục nhân tâm, vì rằng đất trong Nam thời ấy vẫn là đất của chúa Nguyễn!”.


[td]
Theo Bảo tàng Tây Sơn, tỉnh Bình Định, nguồn gốc gia tộc anh em Nhạc - Huệ - Lữ vốn dòng dõi họ Hồ ở Quỳnh Đôi, con cháu Hồ Thế Anh (còn gọi là Hồ Sĩ Anh, sinh 1618) trúng hội thi tam trường (tương đương phó bảng triều Nguyễn). Năm Vĩnh Thịnh thứ nhất đời Lê Thần Tông (1658) làm quan đến Hộ bộ Tả Thị Lang tước Diễn trạch hầu. Hồ Thế Anh sinh được 5 người con trai là Hồ Thế Viêm (sinh đồ), Hồ Phi Cơ (hội thi tam trường), Hồ Danh Lưu, Hồ Phi Tích (hoàng giáp) và Hồ Phi Đoan. Hồ Thế Viêm sinh Phi Khang.
Phi Khang sinh được 5 người con trai là Hồ Phi Trù, Hồ Phi Phú, Hồ Phi Thọ, Hồ Phi Phúc, Hồ Phi Huống. Từ Quỳnh Đôi, Hồ Thế Viêm dời nhà lên Nhân Lý (tức Nhân Sơn thuộc Quỳnh Hồng - Quỳnh Lưu Nghệ An), rồi lại đôn vào thôn Thái Lão, phủ Hưng Nguyên, Nghệ An. Từ Thái Lão, Hồ Phi Khang (nhiều sách chép là Hồ Phi Khanh), Hồ Phi Phúc di cư vào Đàng trong. Bước đầu làm ăn ở huyện Tuy Viễn (nay là huyện An Nhơn). Sau đó Hồ Phi Phúc lấy bà Nguyễn Thị Đồng ở Tây Sơn hạ sinh ra Nhạc, Huệ, Lữ và một gái út. Mộ của ông Hồ Phi Phúc và bà Nguyễn Thị Đồng còn di tích ở núi Long Cương thuộc làng Kiên Mỹ, Bình Khê, Bình Định.​
Trích tài liệu của Hồ Sĩ Giàng


[/td]​
Câu chuyện Huệ gốc họ Hồ Nghệ An là câu chuyện xạo lol phét lác
Nó là sản phẩm bịa đặt trong gia phả họ Nguyễn ở Bình Định nhằm đẩy đòn trừng phạt của nhà Nguyễn ra Nghệ An tha cho họ Nguyễn ở Bình Định con đường sống
 
Mỗi lần có bài viết về Ánh - Huệ là toàn bọn chia phe chửi nhau, mà toàn chửi theo cái yêu - ghét cảm tính, đéo thấy dẫn chứng gì. Tóm lại, xàm chỉ nên đăng sex, chửi đổng, gore gủng gì đó thôi, chứ toàn bọn đầu khấc thì to mà đầu trên thì teo, tranh luận thì đéo có nhưng chửi nhau thì giỏi vãi lồn :feel_good:
Phản biện lại chính câu của thg ng phúc bản đồ nó vẫn còn spam bằng chứng đâu thì t thấy cãi nhau vô nghĩa
 

Có thể bạn quan tâm

Top