Live Xử lý đối tượng dlv chưởi đức tả quân Lê Văn Duyệt

SGNho

Địt xong chạy

Sở Văn hóa và Thể thao TP.HCM có văn bản gửi các cơ quan chức năng về việc ngăn chặn, xử lý các cá nhân đăng phát thông tin sai lệch về Tả quân Lê Văn Duyệt.​


Lê Văn Duyệt - Ảnh 1.



Lăng Lê Văn Duyệt (dân gian gọi là lăng Ông) là khu đền và mộ của Tả quân Lê Văn Duyệt - Ảnh: T.T.D.

Độc giả N.B.V. phản ánh việc một vài YouTuber có lời lẽ xúc phạm Đức Tả quân Lê Văn Duyệt đến báo Tuổi Trẻ. Cụ thể là các clip đăng trên kênh E.B.TV., H.Đ..

Tuổi Trẻ Online đặt câu hỏi đến Sở Văn hóa và Thể thao TP.HCM về nội dung này.

Xúc phạm danh nhân, anh hùng dân tộc là hành vi bị cấm

Chiều 16-10, tại buổi họp báo định kỳ ở Trung tâm Báo chí TP.HCM, Sở Văn hóa và Thể thao TP.HCM phản hồi về vụ việc này.

“Nhằm phát huy truyền thống hào hùng của vùng đất Gia Định xưa, đánh giá đúng với công lao, tài năng của Đức Tả quân Lê Văn Duyệt với vùng đất Sài Gòn - Gia Định cũng như trong việc mở mang bờ cõi đất nước, tại kỳ họp lần thứ 20 khóa IX ngày 11-7-2020, HĐND TP.HCM ban hành nghị quyết về việc bổ sung quỹ tên đường và đổi tên đường Đinh Tiên Hoàng (đoạn từ cầu Bông đến đường Phan Đăng Lưu trên địa bàn quận Bình Thạnh (cũ), nay là phường Gia Định) thành đường Lê Văn Duyệt.

TP.HCM đã ghi công Tả quân Lê Văn Duyệt thông qua xây dựng khu di tích lịch sử - văn hóa lăng Tả quân Lê Văn Duyệt (Lăng Ông - Bà Chiểu), một di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia tại phường 1, quận Bình Thạnh (cũ) nay là phường Gia Định.

Việc đăng tải thông tin sai lệch về Tả quân Lê Văn Duyệt bị xã hội phê phán và hành vi này được xem là xúc phạm danh nhân, anh hùng dân tộc, vi phạm vào các hành vi bị cấm được quy định trong Luật An ninh mạng” - Sở Văn hóa và Thể thao TP.HCM thông tin.

YouTuber đăng thông tin sai lệch về Tả quân Lê Văn Duyệt, Sở Văn hóa và Thể thao TP.HCM lên tiếng - Ảnh 2.


Đường Đinh Tiên Hoàng (đoạn từ cầu Bông đến Phan Đăng Lưu) chính thức được đổi tên là Lê Văn Duyệt từ ngày 16-9-2020 - Ảnh: T.T.D.

Phối hợp cơ quan chức năng xử lý vi phạm


Để ngăn chặn, xử lý các nội dung trên mạng xã hội vi phạm quy định của pháp luật nêu trên, Sở Văn hóa và Thể thao TP.HCM cho biết đã ban hành công văn về việc ngăn chặn, xử lý các nội dung trên mạng xã hội vi phạm quy định của pháp luật gửi Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao (Bộ Công an) và Cục Phát thanh, truyền hình và thông tin điện tử (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) hỗ trợ, xác minh, xử lý theo quy định của pháp luật đối với chủ thể đăng tải thông tin sai lệch về Tả quân Lê Văn Duyệt.

Sở Văn hóa và Thể thao TP.HCM đưa ra lời khuyên đối với nhà sáng tạo nội dung rằng để không dẫn đến những hành vi vi phạm pháp luật cần nắm rõ và không vi phạm các hành vi bị nghiêm cấm theo quy định tại Luật An ninh mạng; quyền và nghĩa vụ của người sử dụng dịch vụ mạng xã hội trong nước và mạng xã hội nước ngoài cung cấp xuyên biên giới vào Việt Nam theo quy định của Chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng.

Ngoài ra người sáng tạo nội dung cần tuân thủ quy định của pháp luật chuyên ngành khi thực hiện việc cung cấp thông tin, dịch vụ chuyên ngành trên mạng xã hội; tuân thủ quy định của pháp luật về thuế, thanh toán khi thực hiện các hoạt động kinh doanh, hoạt động giao dịch liên quan… trên mạng xã hội.

YouTuber đăng thông tin sai lệch về Tả quân Lê Văn Duyệt, Sở Văn hóa và Thể thao TP.HCM lên tiếng - Ảnh 3.


Cổng tam quan lăng Lê Văn Duyệt - Ảnh: T.T.D.

Đức Tả quân Lê Văn Duyệt sinh năm 1764, tại làng Hòa Khánh, huyện Kiến Phong, tỉnh Định Tường (nay là huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang).

Ông hai lần được cử làm Tổng trấn Gia Định (từ năm 1812 - 1815 và từ năm 1820 - 1832), có công lớn trong việc xây dựng, phát triển, ổn định và bảo vệ vùng đất phương Nam...

Năm 1819, Đức Tả quân Lê Văn Duyệt dâng sớ về việc đào kênh Vĩnh Tế phục vụ thông thương, quân sự bảo vệ vùng biên cương.

Năm 1830, ông cho củng cố thành Bát Quái để tăng cường phòng thủ chống xâm lược.

Năm 1832, ông mất tại Gia Định, được người dân xây lăng mộ ở khu vực Bà Chiểu để tôn thờ.

Vào cuối tháng 7 âm lịch hằng năm, người dân tổ chức lễ giỗ ông, đông đúc người dân đến tham dự.

Di tích lịch sử - văn hóa lăng Lê Văn Duyệt tọa lạc tại số 1 Vũ Tùng, phường Gia Định, TP.HCM, được công nhận là Di tích cấp quốc gia theo Quyết định số 1288-VH/QĐ ngày 16-11-1988 của Bộ Văn hóa.
 
Hình như vụ thằng tuyên giáo parky chửi Đức Tả Quân phải ko ? 🤣 Đm thời này đéo phải thời thằng lú đầu bạc đâu mà chửi dân miền Nam
đến trang chú phỉnh dạo này còn đăng nhiều bài bợ đít sài gòn là đủ biết rồi. thằng dlv này ra ngoài chạy kpi mà đéo xem dự báo thời tiết gì cả :vozvn (20):
 
Không hiểu sao mà có một người cỡ trung tướng mà tư duy bần cùng, thiển cận như vậy hả? @Mcopns @kenzyn @Nmlam @TrienChjeu
Trung tướng thì cũng chỉ là thằng bần nông bán mạng trong chiến tranh ở lâu lên lon chứ đầu óc mấy thằng dốt đặc này có khá hơn gì khi là tướng tá đâu?
 
Nó nói theo lệnh của bot tàu chứ tuyên gì đâu
Anh mở máy tính nhìn chữ ký em đi, còn không dt thì xoay ngang màn hình ra.
Chán chả buồn nói.
P/s: ai chụp màn hình kịp mấy thằng đăng bài thì link bài báo này + hình ảnh + tag CA tp. HCM vào nhỉ.
 
Tao copy trên Fb :
VỀ VẤN ĐỀ PHÂN BIỆT VÙNG MIỀN TRONG THUẬT CHÉP SỬ VIỆT: VÀI LỜI VỀ TẢ QUÂN DUYỆT

Hiện có một bài viết được quan tâm rất nhiều từ bạn đọc Việt Nam, chỉ trích khá nặng bốn nhân vật của nhà Nguyễn, bao gồm cả Tả quân Lê Văn Duyệt.

Ngày xưa thì thật ra mình cũng team Quang Trung hơn là team Gia Long, nhưng càng lớn tuổi thì càng thấy xu thế của thuật chép sử (historiography) bên trong Việt Nam có định hướng phân biệt vùng miền rất nặng.

Các nhân vật dấy nghiệp và thành công từ Nam Kỳ thì thuờng bị chỉ trích, lên án, loại trừ, hoặc xem nhẹ. Trong khi các nhân vật gốc Bắc thì thường được tụng xưng.

Ví dụ, Tả quân Lê Văn Duyệt là người quyền cao đức trọng của nhà Nguyễn, nhưng vì sinh ra ở Tiền Giang và dựng nghiệp ở Gia Định nên cho đến nay vẫn còn bị xem là kẻ tội đồ (dù không biết là tội gì). Nguyễn Công Trứ, mặt khác, dù chức vụ và quyền hạn không thể so với Tả quân, cũng làm những việc phục vụ cho nhà Nguyễn và thậm chí không đáng kể (dẹp vài khởi nghĩa nông dân nhỏ chẳng hạn), nhưng đặt tên đường, đặt tên trường theo tên ông thì lại không sao cả.

Hay tương tự, như Quang Trung - Nguyễn Huệ, vốn sinh ra và lớn lên ở Bình Định. Hán phong của ông chắc chắn không có bao nhiêu, vì đã là đời thứ ba, tư rời khỏi đất Nghệ An. Nhiều học giả còn cho là phong tục tập quán, tổ chức chính quyền của Quang Trung có nhiều điểm tương đồng với người Chăm và các “thổ dân” vùng Bình Định (dùng từ của Đại Nam thực lục) hơn là Nho giáo phía Bắc. Nhưng gần đây lại thấy Quang Trung thành người “Nghệ An” trong sử chính thống.

Bài viết này không hẳn nhìn từ khía cạnh một sử gia Việt Nam thuần túy, mà từ một người đang nghiên cứu pháp sử và quan hệ quốc tế thời Nguyễn cho chương trình nghiên cứu đa ngành mình đang tham gia.

Chỉ hy vọng dân Nam kỳ có muốn ghé ngang lăng Ông thắp nén nhang thì tự tin, đường đường chính chính đi mà thắp, mình nhận mọi gạch đá trên mạng xã hội thay cho. 🙂

[PHẢN BIỆN 1]

[Gia Long đã xóa bỏ các chính sách tiến bộ của Quang Trung, đặt ra luật lệ mới, đẩy dân vào đói khổ, dưới thời Gia Long đã có 80 cuộc nổi dậy chống lại triều đình]

ĐÁP:

Một trong những điều mà nhiều tác giả nước ngoài nhắc nhưng ít thấy sử gia Việt Nam (ít nhất trên không gian thảo luận mạng) nói đến, là triều đại Gia Long là triều đại đầu tiên chính thức sáp nhập, quản trị, và kiểm soát nhiều vùng lãnh thổ thuộc đa dạng sắc tộc nhất trong lịch sử Việt Nam ở giai đoạn tiền thực dân.

Cần lưu ý rằng khái niệm lãnh thổ (territory) và lãnh thổ tính trong quản trị nhà nước (territoriality) vẫn chưa tồn tại 100% ở Việt Nam trước thế kỷ 19.

Tương tự như các quốc gia Đông Nam Á giai đoạn đó, các hoàng triều Việt Nam quản trị quốc gia không phải thông qua biên cương lãnh thổ cụ thể, mà thông qua mạng lưới chư hầu - bảo trợ (patronage network), với khả năng kiểm soát hiệu quả cao nhất là các vùng lãnh thổ bao quanh kinh thành, đô thị theo kiểu chính thể thiên hà (galactic polity). Nói cách khác, càng xa các trung tâm chính trị thì quyền năng nhà nước càng giảm dần, đôi khi đến bằng không.

Có thể nói nhà Nguyễn là triều đại đầu tiên của Việt Nam có bước tiến tự thân đến quản trị nhà nước có lãnh thổ tính, tức có tham vọng kiểm soát thống nhất mọi vùng lãnh thổ bên trong cấu trúc hành chính trung ương (chứ không thông qua mạng lưới bảo trợ cá nhân xưa cũ nữa). Điều này dẫn đến sự phản ứng của các nhóm quyền lực địa phương, các sắc dân khác, và từ đó là các cuộc nổi dậy chống lại triều đình.

Ngoài ra, nếu thật sự đọc kỹ Đại Nam thực lục hay các tài liệu khả tín khác trong giai đoạn này, thì đại đa số gọi là “cuộc nổi dậy chống lại triều đình” không có cuộc nổi dậy nào thật sự là “cách mạng” với nền tảng quần chúng đông đảo.

Bạn đọc sẽ thấy hằng hà sa số những câu chuyện như 200 thổ phỉ hay 300 phiến quân làm loạn, đánh chiếm một trấn. Ngày hôm sau, Kinh gửi đi 400 biền binh, 2 - 3 thớt voi đi dẹp. Tính như vậy cũng gọi là cuộc nổi dậy chống lại triều đình nghiêm túc thì e là hơi thiếu bối cảnh lịch sử.

Hiển nhiên, Gia Long không phải là một đối tượng không thể phê phán. Nhưng nói chung chung rằng Gia Long “đẩy dân vào đói khổ” hay đếm số lượng các cuộc nổi loạn để cho rằng Gia Long là ông vua tệ hoàn toàn thì không phải cách nghiên cứu lịch sử nghiêm túc.

[PHẢN BIỆN 2]

[Duyệt ủng hộ truyền giáo, ủng hộ phát triển đạo Thiên Chúa thì Minh Mạng lại ngăn không cho mở rộng truyền giáo, tiến hành khôi phục Nho giáo, lấy đạo Nho làm nền tảng, Duyệt chủ trương thân thiện với người Pháp thì ngược lại Minh Mạng hạn chế quan hệ với nước ngoài.]

ĐÁP:

Thật ra mình không biết đoạn này đang khen đang chê Tả quân. Nhưng nếu là chê thì thật hạn hẹp quá.

Cá nhân mình, (cùng một vài nhà nghiên cứu Á Đông về Việt Nam như Li Tana hay Choi Byung Wook) thì cho rằng sự cố chấp và cổ hủ của Minh Mạng trong việc “giáo hóa” lại dân Gia Đình bằng Nho giáo là đi ngược lại với thời đại và lấy đi năng lực phát triển đáng lẽ ra phải có của vùng đất này, thứ vốn có thể đã chuẩn bị tốt cho Việt Nam cả về nguồn lực lẫn know-how khi thực dân Pháp thật sự tới.

Tả quân Duyệt không chỉ ủng hộ Thiên Chúa giáo, ông có một chính sách hòa hợp đối với mọi sắc tộc, tôn giáo.

Người được ông bảo hộ ở đất Gia Định không chỉ có dân theo Thiên Chúa, mà còn là minh hương (người nhà Minh chạy nạn), thanh nhân (người Trung thời nhà Thanh qua làm ăn), người Chăm, người Khmer, người Tây Dương… và quan trọng nhất là người Việt từ khắp nơi trên đất nước.

Chính nhờ sự mở mang và khai phóng này mà Gia Định dưới thời Lê Văn Duyệt là một các “đô thành quốc tế” (cosmopolitan cities) mạnh mẽ nhất của Đông Nam Á tiền thực dân, cùng với Bangkok, vốn cũng là một ngôi sao thương mại mới nổi nhưng có sự bảo trợ và tham gia giao thương trực tiếp của chính quyền hoàng gia Thái.

Ngược lại, Minh Mạng thì lại cho rằng thương mại là “mạt nghiệp”, yêu cầu dân phải trồng lúa thay vì mua bán. Khái niệm thờ phụng Thần Nông, hay thờ Xã Tắc… đều là những khái niệm “Nho” du nhập vào Gia Định sau khi Lê Văn Duyệt mất, nằm trong nỗ lực thống nhất tinh thần nông nghiệp của Minh Mạng với người dân miền Nam.

Việc này đúng sai, hay dở ra sao, thì tiến trình lịch sử đã cho ta thấy rõ.

[PHẢN BIỆN 3]

[và Pháp đã xây mộ cho ông ta (Tả quân Duyệt), và từ đó tên gọi Lăng Ông ra đời…]

Đoạn này, nghiêm túc và thành thật mà bình luận, là nói DÓC.

Pháp xâm lược và thực dân hóa Việt Nam vào năm 1858.

Mộ của Tả quân Lê Văn Duyệt đã được xây dựng từ năm 1832, với sự hỗ trợ của triều đình Huế lẫn người dân Gia Định.

Theo Thoái Thực Ký văn (Trương Quốc Dụng), sự kính trọng của người dân Gia Định dành cho Tả quân cao đến mức, ngay cả khi mộ đã bị voi san phẳng theo lệnh Minh Mạng từ năm 1833 rồi, họ vẫn tạo sức ép để quan chức triều đình Huế khi vào nhậm chức hay làm việc ở Gia Định cũng phải thể hiện phép tắc khi đi ngang lăng Ông.

Ví dụ, khi đi ngang lăng mộ đã bị dày của Tả quân, quan chức triều đình Huế được khuyên là nên ngừng trống, hạ nón, hạ cờ. Nhiều giai thoại kể rằng quan chức không làm theo thì đều mắc bệnh lạ mà mất (như Tổng đốc Nguyễn Đức Hoạt hay Bố chính Nguyễn Văn Cử).

Vua Tự Đức năm 1849 cho khôi phục lại mộ và mở rộng khuôn viên.

Tất cả các mốc thời gian đều không liên quan gì đến Pháp cả. Nên gọi Pháp xây mộ cho ông ta rồi lăng Ông mới ra đời, như thể sự kính trọng của dân Nam kỳ dành cho Tả quân Duyệt là do người Pháp mà thành, mới thật sự là xuyên tạc lịch sử.

***

Bài viết trên còn nhiều điểm mà mình bất bình, nhưng ba điểm này là ghi ra trước tiên để mọi người tham khảo trước. Hy vọng trong tương lai có thể tham gia vào nhánh nghiên cứu này nhiều hơn.

Ngoài ra, mình cũng giới thiệu trang Đại-Nam Hội-Quán 大南會館 và TỬ YẾNG 紫暎cùng nhiều trang khác. Các tiên sanh này nghiên cứu sử Nam Kỳ và biết Hán - Nôm rành mạch hơn mình, nên muốn đọc kỹ hơn về những vấn đề này thì tham khảo từ họ.
 
5PaEp5N.png


đéo rời đô với đéo bỏ tuyên láo đâu nhé :) nhưng bắc kỳ sắp hết tiềm lực, hà nội cũng nát như tương rồi. chuyển mục đích thành động thủ dâm tinh thần

sắp tới chuyển kho bạc xuống miền nam và buff sài gòn. tao đoán sâu xa là để trữ tiền với kéo gần khoảng cách với mỹ nếu trường hợp vã nhau vũ trang với tàu xảy ra
 
Tao copy trên Fb :
VỀ VẤN ĐỀ PHÂN BIỆT VÙNG MIỀN TRONG THUẬT CHÉP SỬ VIỆT: VÀI LỜI VỀ TẢ QUÂN DUYỆT

Hiện có một bài viết được quan tâm rất nhiều từ bạn đọc Việt Nam, chỉ trích khá nặng bốn nhân vật của nhà Nguyễn, bao gồm cả Tả quân Lê Văn Duyệt.

Ngày xưa thì thật ra mình cũng team Quang Trung hơn là team Gia Long, nhưng càng lớn tuổi thì càng thấy xu thế của thuật chép sử (historiography) bên trong Việt Nam có định hướng phân biệt vùng miền rất nặng.

Các nhân vật dấy nghiệp và thành công từ Nam Kỳ thì thuờng bị chỉ trích, lên án, loại trừ, hoặc xem nhẹ. Trong khi các nhân vật gốc Bắc thì thường được tụng xưng.

Ví dụ, Tả quân Lê Văn Duyệt là người quyền cao đức trọng của nhà Nguyễn, nhưng vì sinh ra ở Tiền Giang và dựng nghiệp ở Gia Định nên cho đến nay vẫn còn bị xem là kẻ tội đồ (dù không biết là tội gì). Nguyễn Công Trứ, mặt khác, dù chức vụ và quyền hạn không thể so với Tả quân, cũng làm những việc phục vụ cho nhà Nguyễn và thậm chí không đáng kể (dẹp vài khởi nghĩa nông dân nhỏ chẳng hạn), nhưng đặt tên đường, đặt tên trường theo tên ông thì lại không sao cả.

Hay tương tự, như Quang Trung - Nguyễn Huệ, vốn sinh ra và lớn lên ở Bình Định. Hán phong của ông chắc chắn không có bao nhiêu, vì đã là đời thứ ba, tư rời khỏi đất Nghệ An. Nhiều học giả còn cho là phong tục tập quán, tổ chức chính quyền của Quang Trung có nhiều điểm tương đồng với người Chăm và các “thổ dân” vùng Bình Định (dùng từ của Đại Nam thực lục) hơn là Nho giáo phía Bắc. Nhưng gần đây lại thấy Quang Trung thành người “Nghệ An” trong sử chính thống.

Bài viết này không hẳn nhìn từ khía cạnh một sử gia Việt Nam thuần túy, mà từ một người đang nghiên cứu pháp sử và quan hệ quốc tế thời Nguyễn cho chương trình nghiên cứu đa ngành mình đang tham gia.

Chỉ hy vọng dân Nam kỳ có muốn ghé ngang lăng Ông thắp nén nhang thì tự tin, đường đường chính chính đi mà thắp, mình nhận mọi gạch đá trên mạng xã hội thay cho. 🙂

[PHẢN BIỆN 1]

[Gia Long đã xóa bỏ các chính sách tiến bộ của Quang Trung, đặt ra luật lệ mới, đẩy dân vào đói khổ, dưới thời Gia Long đã có 80 cuộc nổi dậy chống lại triều đình]

ĐÁP:

Một trong những điều mà nhiều tác giả nước ngoài nhắc nhưng ít thấy sử gia Việt Nam (ít nhất trên không gian thảo luận mạng) nói đến, là triều đại Gia Long là triều đại đầu tiên chính thức sáp nhập, quản trị, và kiểm soát nhiều vùng lãnh thổ thuộc đa dạng sắc tộc nhất trong lịch sử Việt Nam ở giai đoạn tiền thực dân.

Cần lưu ý rằng khái niệm lãnh thổ (territory) và lãnh thổ tính trong quản trị nhà nước (territoriality) vẫn chưa tồn tại 100% ở Việt Nam trước thế kỷ 19.

Tương tự như các quốc gia Đông Nam Á giai đoạn đó, các hoàng triều Việt Nam quản trị quốc gia không phải thông qua biên cương lãnh thổ cụ thể, mà thông qua mạng lưới chư hầu - bảo trợ (patronage network), với khả năng kiểm soát hiệu quả cao nhất là các vùng lãnh thổ bao quanh kinh thành, đô thị theo kiểu chính thể thiên hà (galactic polity). Nói cách khác, càng xa các trung tâm chính trị thì quyền năng nhà nước càng giảm dần, đôi khi đến bằng không.

Có thể nói nhà Nguyễn là triều đại đầu tiên của Việt Nam có bước tiến tự thân đến quản trị nhà nước có lãnh thổ tính, tức có tham vọng kiểm soát thống nhất mọi vùng lãnh thổ bên trong cấu trúc hành chính trung ương (chứ không thông qua mạng lưới bảo trợ cá nhân xưa cũ nữa). Điều này dẫn đến sự phản ứng của các nhóm quyền lực địa phương, các sắc dân khác, và từ đó là các cuộc nổi dậy chống lại triều đình.

Ngoài ra, nếu thật sự đọc kỹ Đại Nam thực lục hay các tài liệu khả tín khác trong giai đoạn này, thì đại đa số gọi là “cuộc nổi dậy chống lại triều đình” không có cuộc nổi dậy nào thật sự là “cách mạng” với nền tảng quần chúng đông đảo.

Bạn đọc sẽ thấy hằng hà sa số những câu chuyện như 200 thổ phỉ hay 300 phiến quân làm loạn, đánh chiếm một trấn. Ngày hôm sau, Kinh gửi đi 400 biền binh, 2 - 3 thớt voi đi dẹp. Tính như vậy cũng gọi là cuộc nổi dậy chống lại triều đình nghiêm túc thì e là hơi thiếu bối cảnh lịch sử.

Hiển nhiên, Gia Long không phải là một đối tượng không thể phê phán. Nhưng nói chung chung rằng Gia Long “đẩy dân vào đói khổ” hay đếm số lượng các cuộc nổi loạn để cho rằng Gia Long là ông vua tệ hoàn toàn thì không phải cách nghiên cứu lịch sử nghiêm túc.

[PHẢN BIỆN 2]

[Duyệt ủng hộ truyền giáo, ủng hộ phát triển đạo Thiên Chúa thì Minh Mạng lại ngăn không cho mở rộng truyền giáo, tiến hành khôi phục Nho giáo, lấy đạo Nho làm nền tảng, Duyệt chủ trương thân thiện với người Pháp thì ngược lại Minh Mạng hạn chế quan hệ với nước ngoài.]

ĐÁP:

Thật ra mình không biết đoạn này đang khen đang chê Tả quân. Nhưng nếu là chê thì thật hạn hẹp quá.

Cá nhân mình, (cùng một vài nhà nghiên cứu Á Đông về Việt Nam như Li Tana hay Choi Byung Wook) thì cho rằng sự cố chấp và cổ hủ của Minh Mạng trong việc “giáo hóa” lại dân Gia Đình bằng Nho giáo là đi ngược lại với thời đại và lấy đi năng lực phát triển đáng lẽ ra phải có của vùng đất này, thứ vốn có thể đã chuẩn bị tốt cho Việt Nam cả về nguồn lực lẫn know-how khi thực dân Pháp thật sự tới.

Tả quân Duyệt không chỉ ủng hộ Thiên Chúa giáo, ông có một chính sách hòa hợp đối với mọi sắc tộc, tôn giáo.

Người được ông bảo hộ ở đất Gia Định không chỉ có dân theo Thiên Chúa, mà còn là minh hương (người nhà Minh chạy nạn), thanh nhân (người Trung thời nhà Thanh qua làm ăn), người Chăm, người Khmer, người Tây Dương… và quan trọng nhất là người Việt từ khắp nơi trên đất nước.

Chính nhờ sự mở mang và khai phóng này mà Gia Định dưới thời Lê Văn Duyệt là một các “đô thành quốc tế” (cosmopolitan cities) mạnh mẽ nhất của Đông Nam Á tiền thực dân, cùng với Bangkok, vốn cũng là một ngôi sao thương mại mới nổi nhưng có sự bảo trợ và tham gia giao thương trực tiếp của chính quyền hoàng gia Thái.

Ngược lại, Minh Mạng thì lại cho rằng thương mại là “mạt nghiệp”, yêu cầu dân phải trồng lúa thay vì mua bán. Khái niệm thờ phụng Thần Nông, hay thờ Xã Tắc… đều là những khái niệm “Nho” du nhập vào Gia Định sau khi Lê Văn Duyệt mất, nằm trong nỗ lực thống nhất tinh thần nông nghiệp của Minh Mạng với người dân miền Nam.

Việc này đúng sai, hay dở ra sao, thì tiến trình lịch sử đã cho ta thấy rõ.

[PHẢN BIỆN 3]

[và Pháp đã xây mộ cho ông ta (Tả quân Duyệt), và từ đó tên gọi Lăng Ông ra đời…]

Đoạn này, nghiêm túc và thành thật mà bình luận, là nói DÓC.

Pháp xâm lược và thực dân hóa Việt Nam vào năm 1858.

Mộ của Tả quân Lê Văn Duyệt đã được xây dựng từ năm 1832, với sự hỗ trợ của triều đình Huế lẫn người dân Gia Định.

Theo Thoái Thực Ký văn (Trương Quốc Dụng), sự kính trọng của người dân Gia Định dành cho Tả quân cao đến mức, ngay cả khi mộ đã bị voi san phẳng theo lệnh Minh Mạng từ năm 1833 rồi, họ vẫn tạo sức ép để quan chức triều đình Huế khi vào nhậm chức hay làm việc ở Gia Định cũng phải thể hiện phép tắc khi đi ngang lăng Ông.

Ví dụ, khi đi ngang lăng mộ đã bị dày của Tả quân, quan chức triều đình Huế được khuyên là nên ngừng trống, hạ nón, hạ cờ. Nhiều giai thoại kể rằng quan chức không làm theo thì đều mắc bệnh lạ mà mất (như Tổng đốc Nguyễn Đức Hoạt hay Bố chính Nguyễn Văn Cử).

Vua Tự Đức năm 1849 cho khôi phục lại mộ và mở rộng khuôn viên.

Tất cả các mốc thời gian đều không liên quan gì đến Pháp cả. Nên gọi Pháp xây mộ cho ông ta rồi lăng Ông mới ra đời, như thể sự kính trọng của dân Nam kỳ dành cho Tả quân Duyệt là do người Pháp mà thành, mới thật sự là xuyên tạc lịch sử.

***

Bài viết trên còn nhiều điểm mà mình bất bình, nhưng ba điểm này là ghi ra trước tiên để mọi người tham khảo trước. Hy vọng trong tương lai có thể tham gia vào nhánh nghiên cứu này nhiều hơn.

Ngoài ra, mình cũng giới thiệu trang Đại-Nam Hội-Quán 大南會館 và TỬ YẾNG 紫暎cùng nhiều trang khác. Các tiên sanh này nghiên cứu sử Nam Kỳ và biết Hán - Nôm rành mạch hơn mình, nên muốn đọc kỹ hơn về những vấn đề này thì tham khảo từ họ.
Bài của Trung cừu
 
Nghìn lăm dăn quoá của chún ló đếy, chỉ có xàm cặc thôi.

Hố hố


Mấy thằng bò đỏ baky có điểm chung là rất thích bịp sử và ní nuận, ní nuận từ hạt nhân tới hạt gạo, từ trên trời xuống dưới biển, từ cái biết sơ sơ tới cái đéo biết gì cũng đem ra ní nuận 😆
 
Bài của Trung cừu
Bản phản biện học thuật dưới đây đi sâu hơn về cơ sở tư liệu, phương pháp luận và đối chiếu học giới trong – ngoài nước về nhân vật **Lê Văn Duyệt (1764–1832)**. Mục đích không phải minh oan hay buộc tội, mà là khôi phục tính khách quan của khoa học lịch sử, đặt nhân vật vào đúng *hệ quy chiếu triều đại, văn hóa và cấu trúc chính trị* của Việt Nam đầu thế kỷ XIX.

I. Cơ sở phương pháp luận: Lịch sử phải được đọc trong bối cảnh của nó

Theo nhà sử học Marc Bloch (trong *Apologie pour l’histoire*, 1949), mọi phán đoán lịch sử chỉ có giá trị nếu “đặt hành động vào trong hệ quy chiếu thời đại mà nó sinh ra”. Khi bài viết gốc quy kết Lê Văn Duyệt là “tay sai thực dân” hay “phản quốc”, lập luận đó dựa trên một *chuẩn ý thức hệ của thế kỷ XX* áp lên hiện tượng lịch sử thế kỷ XVIII–XIX, khi khái niệm “quốc gia dân tộc” (nation-state) còn chưa hình thành, và khái niệm “bán nước” (treason in modern sense) chưa có nghĩa tương ứng.

Nghiên cứu hiện đại khẳng định rằng trong thời kỳ phân tranh nội chiến (Trịnh–Nguyễn–Tây Sơn), các phe nhóm chính trị tồn tại như **“trung tâm quyền lực khu vực”** chứ chưa có “ý thức quốc gia thống nhất” theo mô hình hiện đại. Do đó, việc Nguyễn Ánh cầu viện Xiêm hay giao thiệp với phương Tây phải được hiểu như chiến lược chính trị sinh tồn của một thế lực vùng miền, không thể đánh giá bằng khái niệm phản quốc. (xem **Tsuboi, Yoshiharu (1992). *Vietnam under the Nguyen Dynasty, 1802–1883***).

II. Phản biện sử liệu cụ thể theo các nhóm luận điểm

1. Về mối quan hệ giữa Lê Văn Duyệt và phương Tây
Bài viết gốc cho rằng Duyệt “trung thành với nước Pháp” – một kết luận không có căn cứ trong **Đại Nam Thực Lục** hay bất kỳ văn bản triều Nguyễn nào.
- **Đại Nam Thực Lục, Chính Biên đệ nhất kỷ (quyển 42, tờ 8–12)** chỉ ghi: “Duyệt người Nam Kỳ, tính cương trực… từng nói năng với người Tây dương không kiêng sợ.” Không có ghi chép nào về sự “trung thành” hay “phụ thuộc”.
- **Philippe Langlet** trong *Les missionnaires français et la Cochinchine de Gia Long à Thiệu Trị* (1975) phân tích rằng Lê Văn Duyệt giữ thái độ **thực dụng chính trị (realpolitik)**: ông cho phép một số giáo sĩ trú ngụ ở Gia Định, nhưng không trao nhượng đất hay quyền lực hành chính.
- **Nguyễn Duy Chính** (*Lê Văn Duyệt và Gia Định Thành*, NXB Văn Học, 2018) chỉ ra rằng sự dung hòa này mang tính hành chính: Duyệt ưu tiên ổn định xã hội và nhân lực, không phải thân Tây.

Do đó, việc bài viết trích câu từ *Tuần báo Đông Dương* (Indochine Hebdomadaire) – một ấn phẩm tuyên truyền của chính quyền thuộc địa – rồi dùng làm bằng chứng cho “lòng trung thành với nước Pháp” là **vi phạm nguyên tắc phê bình sử liệu**: không được dùng tư liệu chính trị hậu thuộc địa để mô tả tư tưởng của một nhân vật đã mất cả nửa thế kỷ trước đó.

2. Về vai trò “đàn áp nhân dân và người Thượng”
Nguồn chính về các chiến dịch đàn áp dân nổi dậy dưới thời Gia Long và Minh Mạng gồm **Đại Nam Thực Lục**, *Khâm định Việt sử thông giám cương mục*, và *Gia Định Thành Thông Chí*.
- Các cuộc khởi nghĩa miền Trung 1802–1820 chủ yếu được giao cho các tướng địa phương như Nguyễn Văn Trương, Trương Tấn Bửu, Nguyễn Văn Nhân; **lệnh xuất quân từ Huế**, chứ không thuộc quyền Tổng trấn Gia Định. (Thực Lục, Q.13, 1809; Q.19, 1813).
- Không có dữ kiện nào ghi Lê Văn Duyệt “dẫn quân tàn sát người Thượng ở Quảng Ngãi”. Trái lại, **Phan Huy Chú** trong *Lịch triều hiến chương loại chí* (quyển 77) có chép rằng ông “làm tướng thì nghiêm mà công minh, dân ơn cố cựu”.

Lập luận “Lê Văn Duyệt phạm tội diệt chủng người Thượng” là *anecdotal*, không có gốc sử liệu.

3. Về sự kiện Chăm Pa – “âm mưu ly khai"
Các công trình của **Po Dharma** (*Le Pāṇḍuranga (Campā) 1802–1835*, 1989) và **Nguyễn Văn Kim** (*Champa trong lịch sử Việt Nam thời Nguyễn*, 2006) đều minh định:
- Sau 1802, Champa là **tiểu quốc phiên thần** lệ thuộc triều Nguyễn nhưng vẫn có vương quyền riêng. Khi Pô Klan Thu mất (1822), Lê Văn Duyệt tiến cử Po Phaok The làm người thay thế trên cơ sở “tình nghĩa thân thiết với Gia Định”.
- Không có bằng chứng rằng Duyệt mưu đồ chia cắt; trái lại, ông muốn giữ vùng đệm ổn định giữa Gia Định và Trung Bộ.
- Chính sách của Minh Mạng về Champa năm 1832 (bãi bỏ vương quốc, lập Trấn Thuận Thành) là *cải cách trung ương tập quyền* chứ không phải phản ứng cá nhân với Duyệt.

Như vậy, việc quy kết “ý đồ ly khai” chỉ là suy diễn chính trị hậu thế, không có cơ sở trong văn bản triều Nguyễn hoặc trong ký sự người Chăm.

4. Về vụ án sau khi Duyệt mất và khởi nghĩa Lê Văn Khôi
Sử triều Nguyễn và tài liệu Pháp đều xác nhận **Minh Mạng thực hiện “xử hậu” (posthumous punishment)** đối với Duyệt sau vụ nổi dậy Lê Văn Khôi (1833–1835). Tuy nhiên, **Đại Nam Thực Lục, Q.130** chỉ ghi: “Duyệt sinh tiền nhiều lần chuyên quyền, lại nuôi dưỡng gian đảng khiến xảy việc nghịch, phạt tội để nêu phép.” Hình phạt mang **tính chính trị – biểu tượng (ritual condemnation)** hơn là xét tội hình.
Đến thời **Tự Đức (1841)**, triều đình **phục hồi danh dự cho Duyệt**, miễn tội cho thân quyến, phục chức hậu thần. Việc người Pháp sau này sửa sang Lăng Ông (khoảng 1895) chỉ là hành vi tôn tạo di tích, không đồng nghĩa “phong thánh” hay “ca ngợi tay sai”.

Phán xét đạo đức dựa trên hành vi phục dựng của thực dân là sai lệch tuyến tính lịch sử.

III. Phản biện quan niệm “không được đặt tên đường vì còn ý kiến trái chiều”

Bài viết gốc viện dẫn “Nghị định Chính phủ quy định không đặt tên cho nhân vật còn tranh cãi”. Thực ra, **Nghị định 91/2005/NĐ-CP**, và sau đó là **Thông tư 36/2015/TT-BVHTTDL**, chỉ quy định rằng “việc đặt tên phải căn cứ vào giá trị đóng góp lịch sử, văn hóa của nhân vật; trường hợp còn ý kiến khác nhau thì Hội đồng khoa học địa phương có trách nhiệm thẩm định.” Không có điều khoản cấm vĩnh viễn.

Việc TP.HCM, Đồng Nai, Bình Thuận đặt tên đường hoặc tổ chức lễ tưởng niệm Lê Văn Duyệt là sự **thừa nhận vai trò địa phương và giá trị di sản vùng Nam Bộ** – không trái quy định pháp lý. Đây là vấn đề **di sản văn hóa vùng miền**, chứ không phải “rửa tội” cho nhân vật lịch sử.

IV. Diễn giải học giới: từ “trung thần” đến “nhà kiến tạo vùng Nam Bộ”

- **Li Tana, *Nguyễn Cochinchina: Southern Vietnam in the Seventeenth and Eighteenth Centuries* (1998)** cho thấy Nam Bộ thời Nguyễn là không gian “mở”, dân cư đa tộc, linh hoạt, mang tính tự trị cao, nơi các quan trấn nắm quyền hành thực tế. Lê Văn Duyệt là sản phẩm của cấu trúc lịch sử ấy – ông xây dựng mô hình quản lý ít quan liêu, bảo đảm trật tự, miễn sưu thuế hợp lý, phát triển thương mại (xem *Journal of Southeast Asian Studies*, Vol.33, 2002).
- **Cao Tự Thanh (1997)** và **Nguyễn Duy Chính (2018)** đều thống nhất rằng Duyệt là “hệ hình chính trị Nam Bộ đầu thế kỷ XIX”: vừa trung thành với hoàng triều, vừa mang tinh thần địa phương chủ nghĩa.
- Việc khu vực Gia Định thành trở thành trung tâm kinh tế – hành chính năng động bậc nhất Đông Nam Á đầu thế kỷ XIX có đóng góp trực tiếp từ phong cách hành chính của ông: trọng năng lực hơn xuất thân, cho phép thương nhân Hoa – Việt – Âu cùng hoạt động, hạn chế tụng nặc phiền nhiễu (Theo *Trần Văn Giàu, Giai cấp công nhân Việt Nam 1858–1945*, T.1).

Do đó, trong giới sử học hiện đại, Lê Văn Duyệt không được nhìn đơn trị là “tay sai Tây” hay “phản nghịch”, mà là **một nhân tố trung gian giữa chế độ quân chủ tập quyền và sự hình thành xã hội đô thị Nam Bộ hiện đại**.

V. Tổng luận học thuật

1. Các cáo buộc trong bài viết gốc hầu hết **dựa trên suy luận ý thức hệ hậu thuộc địa**, không có căn bản tư liệu.
2. Nguyên tắc lịch sử – theo *E. H. Carr, What is History?* (1961) – là: “Lịch sử là cuộc đối thoại bất tận giữa hiện tại và quá khứ.” Ta chỉ có thể “đánh giá”, không thể “xét xử” bằng chuẩn mực đạo đức của thời khác biệt.
3. Do đó, thay vì gọi Lê Văn Duyệt “có tội hay có công”, cần xem ông như **một mắt xích trong tiến trình Nhà Nguyễn hình thành cơ cấu vùng Nam Bộ**, với tất cả những mâu thuẫn nội tại giữa quyền trung ương và địa phương.

Sources
 

Có thể bạn quan tâm

Top