Live Tại sao Việt Nam không có truyền thống triết học?

  • Tạo bởi Tạo bởi TUG
  • Start date Start date
Mày nhầm. VN là thuần theo Leninism nhé. Còn Stalinism chưa kịp bén rễ ở VN đã bị thanh trừng sạch mẹ bởi Khrushchev rồi. Thằng giống Stalinism nhất là thằng lồn Bắc Triều Tiên đó.
Mà tao tưởng từ thời củ lá là đổi sang maoism rồi
 
Tưởng 8 keo là triết gia nhớn, mỗi năm có hàng ngàn hàng vạn cuộc vận động làm theo tư tưởng 8 keo.
 
Thời đỉnh cao là ~ 65 quốc gia và vùng lãnh thổ theo đỏ.
Giờ còn 4 thằng dặt dẹo, Leninist cũng đéo phải, Marxist cũng đéo phải, dặt dà dặt dẹo.
Thì Lô Xiên sập nên tụi nó rén mà, nhưng vẫn không nỡ buông tay quyền lực tối cao nên cải cách chỉ dừng lại ở mức độ vớt vát thôi
 
Nhà Trần có triết lý của Trần Thánh Tông nhé

Tau đọc đc trong bước đầu học phật có nói về triết lý của trần thánh tông của khá triết lý

Trong triết lý đá lăn, chúng ta cần có một niềm tin và sự kiên trì. Niềm tin con người là cơ sở đầu tiên để triển khai triết lý này.

*Nước đứng dễ sinh trùng, đá lăn không rêu mọc”.
 
Vua Trần Thái Tông từng đặt câu hỏi khi khuyến phát Bồ-đề tâm: “Trong ấp mười nhà còn có người trung tín, lẽ nào cả cõi đời lại không còn ai thông minh sáng suốt hay sao?”. Phải để tâm mình luôn luôn có sự hiện diện của người khác, đó không phải vọng tưởng, bởi chấp nhận sự hiện diện của người khác chính là chấp nhận sự tương quan chặt chẽ giữa ta và người, chấp nhận Phật tính giữa ta và người không khác. Bên cạnh đó, sự kiên trì chính là sử dụng hết thân tâm đừng để nó uể oải, lười mỏi, ngay cả khi ta phải sống trong những tình thế tưởng chừng như đơn độc, cô lập. Đó chính là tư tưởng mà Quốc sư Phù Vân từng khuyến cáo vua Trần Thái Tông: “Lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình. Lấy tấm lòng của thiên hạ làm tấm lòng của mình”.
 
Trong lời Hịch gửi tướng lĩnh, sĩ quan và binh sĩ, Trần Hưng Đạo đã thay lời Trần Nhân Tông nói rõ điểm này: “Các ngươi ở lâu dưới trướng, nắm giữ binh quyền, không có áo mặc thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho cơm, quan thấp thì ta thăng tước, lộc ít thì ta cấp lương, đi thủy thì ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa, lúc ra quân thì cùng nhau sống chết, lúc ở nhà thì cùng nhau vui cười. So với Công Kiên đãi đám tỳ tướng, Ngột Lang đãi kẻ phụ tá, nào có kém gì? Nay các ngươi ngồi nhìn chúa nhục mà không biết lo, thân chịu quốc sỉ mà không biết thẹn, làm tướng triều đình đứng hầu quân mọi mà không biết tức, nghe nhạc thái thường đãi yến sứ ngụy mà không biết giận.

Có kẻ lấy việc chọi gà làm vui. Có kẻ lấy việc đánh bạc làm thú. Có kẻ chăm lo vườn ruộng cung phụng gia đình. Có kẻ quyến luyến vợ con để thỏa lòng vị kỷ. Có kẻ tính đường sản nghiệp mà quên việc nước việc quân. Có kẻ ham trò săn bắn mà nhác tập công tập thủ. Có kẻ thích rượu ngon. Có kẻ mê hát nhảm. Nếu bất chợt giặc Mông thát tràn sang, thì cựa gà trống không đủ đâm thủng giáp giặc, mẹo cờ bạc không đủ làm mưu nhà binh, vườn ruộng giàu không đủ chuộc tấm thân ngàn vàng, vợ con lắm không đủ sung dụng việc nước, của cải nhiều không đủ mua được đầu giặc, chó săn khỏe không đủ đuổi được bọn thù. Rượu ngon không đủ để làm giặc say chết, hát hay không đủ để giặc điếc tai.

Lúc bấy giờ, chúa tôi nhà ta đều cùng bị bắt, đau xót biết chừng nào. Không chỉ thái ấp của ta bị mất, mà bổng lộc các ngươi cũng thuộc về kẻ khác; không chỉ gia quyến ta bị đuổi, mà vợ con các ngươi cũng bị kẻ khác bắt đi; không chỉ xã tắc tổ tông ta bị kẻ khác dày xéo, mà phần mộ cha mẹ các ngươi bị kẻ khác bới đào; không chỉ thân ta kiếp này bị nhục dù đến trăm năm sau tiếng nhơ không rửa tên xấu còn lưu, mà gia thanh các ngươi cũng không khỏi mang danh là tướng bại trận. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi muốn vui chơi thỏa thích, phỏng có được chăng”.

Tư tưởng Trần Hưng Đạo x Trần Nhân Tông
 
Lão tử hay Khổng tử thì cũng như trần hưng đạo hay trần nhân tông
Luôn là trị nước đối nhân xử thế dùng hình ảnh thường ngày, đừng ghén ghép triết học nay giống triết học xưa triết học này thì nó nhiều ng phát triển thêm ko phải phản biện nhé mà kế thừa để phát triển, giống khoa học bây giờ cũng kế thừa và phát triển chứ xưa thì đơn giản hơn nhiều
 
Ngài là một vị vua anh minh lỗi lạc, một nhà văn hóa lớn, một thi sĩuyên thâm, một thiền sư đắc đạo, và hơn hết Ngài là một vị Sư Tổ Thiền Việt Nam. Ngài sáng lập dòng Thiền Trúc Lâm Uyên Tử lúc ngài 41 tuổi saukhi nhường ngôi lại cho con là Vua Trần Anh Tông (1276-1320). Trong những thi phẩm của Ngài, thơ xuân chiếm một phần rất lớn. Một trong những bài thơ đó là bài “Xuân Vãn”. Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được. Bài thơ như sau:

XUÂN VÃN
Niên thiếu hà tằng liễu sắc không,
Nhất xuân tâm sự bách hoa trung.
Như kim khám phá Đông hoàng diện,
Thiền bản, bồ đoàn khán trụy hồng.

(Dịchnghĩa: Khi còn trẻ (chúng ta/ nhà Vua) chưa từng hiểu rõ “sắc” với “không” / Mỗi khi xuân đến vẫn xao xuyến/ gửi lòng trong trăm hoa / Ngày nay đã khám phá/ nhận diện được bộ mặt của Chúa xuân / Ngồi trên nệm cỏ/ bồ đoàn nhà thiền ngắm cảnh hoa hồng rụng). Bài thơ này đã có nhiều người dịch, ví dụ:

Xuân Muộn
Tuổi trẻ chưa tường không với sắc,
Lòng xuân mãi vướng với trăm hoa;
Nay đà hiểu hết được lẽ thật,
Bình thản ngồi trông bóng xuân qua.
(Phan Thành Khương dịch)

Xuân Muộn
Tuổi trẻ chưa tường lẽ sắc không,
Xuân sang, hoa nở, rộn tơ lòng.
Chúa xuân nay đã thành quen mặt,
Nệm cỏ ngồi Thiền ngó rụng hồng.
(Trích từ bài của Nguyễn Công Lý)

Nhưng có lẽ chúng tôi thích nhất là lối dịch rất thoát của Ôn Trúc Lâm.

CUỐI XUÂN
Thuở bé chưa từng rõ sắc không,
Xuân về hoa nở rộn trong lòng.
Chúa Xuân nay bị ta khám phá,
Thiền bản, bồ đoàn, ngắm cánh hồng.
(Hòa thượng Trúc Lâm dịch - Trích từ bài của thầy Thích Thông Huệ)

Riêng cá nhân chúng tôi, thì cũng định dịch ra như sau:

XUÂN QUA
Tuổi trẻ chưa tường tỏ sắc không
Tâm xuân vừa đến trăm hoa lòng
Bây chừ hiểu rỏ thềm chân lý
An nhiên tĩnh tọa cánh hồng rơi.

Đọc qua, đọc lại vẫn chưa diễn đạt những gì Sư Tổ muốn nói, rồi lại đổi thành:

XUÂN RÃI
Tuổi trẻ chưa tường tỏ sắc không
Tâm xuân vừa đến trăm hoa lòng
Chúa Xuân hiện hữu thừa chân lý
Giường Thiền tĩnh toạ thấy hồng rơi. (Tâm Thường Định dịch)
 
Địa hình, khí hậu cũng là 1 việc quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển của 1 dân tộc. Năm nay bão lũ kinh quá tao nghĩ đến cảnh mấy trăm năm trước, dân Việt ở nhà tranh vách đất, đê điều thì chả có mấy xong năm nào cũng đổ bộ chục cơn bão thì đúng là đéo còn gì để mà phát triển tư tưởng, đủ ăn là may.


Kiếp sau có muốn làm người việt nam khum hở chụy?
Bọn Nhật bản nó lại thấy nhột mày , nước nó thiên tai động đất không à .

Căn bản hơn 1000 năm Bắc Thuộc nên không có nhân tài nào nghĩ ngợi được cái gì thôi , tương đồng tư tưởng với Trung Quốc thì học theo nó , Nho giáo , Đạo giáo thì còn mẹ gì mà mở rộng ,ngu trung là được .

Bên Âu triết học nó khá là rộng lớn , nên các tư tưởng được khai phá .
 
Bọn Nhật bản nó lại thấy nhột mày , nước nó thiên tai động đất không à .

Căn bản hơn 1000 năm Bắc Thuộc nên không có nhân tài nào nghĩ ngợi được cái gì thôi , tương đồng tư tưởng với Trung Quốc thì học theo nó , Nho giáo , Đạo giáo thì còn mẹ gì mà mở rộng ,ngu trung là được .

Bên Âu triết học nó khá là rộng lớn , nên các tư tưởng được khai phá .
 
Khi ta nhìn lại bản đồ triết học nhân loại, có những trung tâm tư tưởng đã sản sinh ra các hệ thống triết học khổng lồ mà ở đó, mỗi phạm trù được mổ xẻ, mỗi luận đề được đào sâu, và những khái niệm trừu tượng nhất được hình thức hóa đến tận cùng logic của lý tính con người. Ấn Độ có các hệ phái Vedanta, Samkhya, Duy thức, Trung quán; Hy Lạp đã sản sinh Socrates, Plato, Aristotle, và từ châu Âu sau này có các tên tuổi như Descartes, Kant, Hegel và Nietzsche; Trung Hoa định hình nên Nho gia, Đạo gia, Pháp gia và những hệ vũ trụ luận Đông phương dày đặc. Nhưng nếu ta thử truy tìm trong lịch sử Việt Nam một hệ thống triết học tự thân, có cấu trúc khái niệm độc lập, có chiều sâu bản thể luận, nhận thức luận, và có thể hội thoại ngang tầm với các truyền thống triết học kia, thì câu trả lời rõ ràng là chưa có.

Tuy vậy, sự thiếu vắng ấy không có nghĩa rằng Việt Nam là vùng đất không có tư duy. Trái lại, Việt Nam có một di sản minh triết phong phú, những tư tưởng nhân sinh đầy trực giác và những nhân vật văn hóa xuất chúng. Vấn đề nằm ở chỗ, những dòng tư duy ấy thường mang tính kinh nghiệm, thực tiễn, linh hoạt và đạo lý ứng xử hơn là hệ thống hóa thành các cấu trúc lý luận trừu tượng. Ở đây xuất hiện một câu hỏi then chốt mà bài viết này sẽ đi tìm lời giải: Vì sao Việt Nam chưa hình thành nên một truyền thống triết học hệ thống? Và (gần như) không có triết gia?

Để trả lời câu hỏi này, trước hết cần hiểu triết học hệ thống là gì, và điều kiện nào thường giúp nó hình thành trong lịch sử tư tưởng thế giới. Triết học hệ thống là loại triết học có năng lực khái niệm hóa thế giới ở mức độ trừu tượng rất cao, hình thành nên các phạm trù bản thể luận, nhận thức luận, đạo đức luận, chính trị luận… liên kết với nhau thành hệ thống chặt chẽ. Không phải mọi nền tư tưởng đều có khả năng tiến hóa đến cấp độ này. Để sản sinh ra những hệ thống như vậy, thường cần đồng thời hội tụ nhiều yếu tố: ngôn ngữ triết học phong phú, không gian tự trị cho trí tuệ, những cuộc tranh luận nội bộ lâu dài giữa các trường phái, nhu cầu hệ thống hóa tư duy để lý giải các khủng hoảng nhận thức nội bộ, và một nền chính trị ổn định đủ dài cho sự kết tinh ấy diễn ra. Và nếu nhìn vào các yếu tố đó, thì dường như Việt Nam đều thiếu.

Trước hết là về mặt ngôn ngữ. Trong lịch sử triết học, ta thấy mỗi nền văn minh đạt tới triết học hệ thống đều phát triển trước tiên một hệ ngôn ngữ triết học mạnh mẽ. Ấn Độ có Sanskrit, với những thuật ngữ sắc bén để mô tả các phạm trù siêu hình như Brahman, Atman, Samsara, Nirvana. Hy Lạp có hệ từ vựng triết học vô cùng phát triển xoay quanh logos, physis, arche, ousia, episteme. Trung Hoa hình thành nên bộ khái niệm Âm Dương, Ngũ Hành, Đạo, Lễ, Nhân, Nghĩa, v.v... Chính khả năng tạo lập ngôn ngữ trừu tượng ấy giúp các tư tưởng gia có công cụ tư duy sắc bén để đi vào các tầng sâu nhất của hiện hữu.

Song song với đó, các nền triết học hệ thống đều cần có những không gian học thuật đủ tự do để những câu hỏi khó nhất về thế giới được đặt ra mà không bị kiểm duyệt hay bóp nghẹt bởi quyền lực chính trị hoặc giáo điều tôn giáo. Hy Lạp cổ điển có Athens - cái nôi của các cuộc tranh biện mở giữa các trường phái; Ấn Độ có Nalanda - trung tâm học thuật nơi các phái Phật giáo lẫn không phải Phật giáo có thể tranh luận công khai suốt nhiều thế kỷ; Trung Hoa có thời kỳ Bách gia chư tử rực rỡ trước khi nhà Tần thống nhất quyền lực. Tự do học thuật không chỉ đơn thuần là quyền nói mà còn là quyền truy vấn đến tận nền tảng của các giả định siêu hình.

Một điều kiện quan trọng khác là nhu cầu hệ thống hóa tư duy, thường phát sinh từ những khủng hoảng lớn về chính trị, tôn giáo, hay nhận thức. Các hệ thống như Vedanta, Trung quán, biện chứng pháp Hegel hay siêu hình học Aristotelian đều xuất hiện trong những bối cảnh tranh luận gay gắt giữa các trường phái, khi các mâu thuẫn nhận thức đẩy con người buộc phải kiến tạo những cấu trúc lý luận ngày càng tinh vi để dung hòa hoặc vượt qua chúng. Ngoài ra, không có triết học hệ thống nào mà không có truyền thống phê phán nội bộ mạnh mẽ giữa các thế hệ học giả kế tiếp nhau. Từ Socrates đến Plato rồi Aristotle; từ Nagarjuna (Long Thọ) đến Vasubandhu (Thế Thân); từ Lão Tử đến Trang Tử, từ Chu Hy tới Vương Dương Minh… tất cả đều phát triển trong không khí tranh luận và phản biện học thuật liên tục, người đời sau phản bác người đời trước, trường phái này phê phán trường phái kia.

Sau cùng, triết học hệ thống cần một mức độ ổn định chính trị tương đối để có thể duy trì các chuỗi truy vấn lâu dài. Một xã hội hỗn loạn, triền miên chiến tranh và thay đổi quyền lực sẽ không đủ năng lượng và thời gian để duy trì các cộng đồng học thuật cần thiết cho việc kiến tạo triết học hệ thống.

Khi đặt những tiêu chuẩn đó vào hoàn cảnh Việt Nam, lý do vì sao đất nước ta chưa sản sinh ra hệ triết học hệ thống trở nên dễ hiểu hơn. Về mặt địa lý và lịch sử, Việt Nam từ lâu đã là một nền văn minh giao lộ, luôn nằm ở vùng biên của các siêu văn minh khác như Trung Hoa, Ấn Độ và sau này là phương Tây. Trong suốt chiều dài lịch sử, dân tộc này liên tục phải đối mặt với các thử thách ngoại xâm, các cuộc nội chiến, và quá trình thuộc địa hóa kéo dài. Sự vận động văn hóa chủ yếu diễn ra dưới dạng tiếp nhận, dung hợp, thích ứng và sinh tồn hơn là phát triển những hệ hình lý luận trừu tượng mang tính khái quát phổ quát. Thực dụng sinh tồn trở thành phương thức tư duy chủ đạo, còn trầm tư siêu hình trở thành thứ xa xỉ.

Ảnh hưởng kéo dài của Hán học càng củng cố thêm cấu trúc tư duy trọng thực tiễn này. Hệ thống giáo dục quan lại Việt Nam, trong hơn một nghìn năm, chịu ảnh hưởng sâu sắc từ hệ tư tưởng Nho giáo, mà bản thân Nho giáo vốn đặt trọng tâm vào trị quốc, vào đạo lý ứng xử hơn là bản thể luận và nhận thức luận thuần túy. Sĩ phu Việt Nam học Nho không phải để phát triển lý luận, mà để tham gia vào bộ máy quan lại và duy trì trật tự xã hội. Không có những cuộc tranh luận lý thuyết gay gắt giữa các phái như Lý học - Tâm học từng có trong chính nội bộ Nho giáo Trung Hoa. Triết học biến thành các nguyên tắc đạo đức cho cuộc sống của giới tinh hoa hơn là hệ hình tư duy siêu hình.

Mặt khác, nền văn hóa dân gian Việt Nam vốn rất giàu chất minh triết nhưng lại mang nặng tính kinh nghiệm luận. Ca dao, tục ngữ, thành ngữ Việt Nam đầy ắp những câu triết lý đời sống như "ở hiền gặp lành", "một điều nhịn chín điều lành", "có công mài sắt, có ngày nên kim", phản ánh những triết lý sống thực tiễn, cân bằng, khôn ngoan ứng xử, giàu nhân bản, nhưng không phát triển thành các hệ thống lý luận trừu tượng mà chỉ đơn giản là đúc kết kinh nghiệm cuộc sống. Thậm chí ngay cả khi Phật giáo Thiền tông du nhập, nó cũng nhanh chóng hòa quyện với tín ngưỡng bản địa thành thực hành tâm linh, hơn là hình thành các hệ thống tư duy lý luận trừu tượng kiểu Trung quán hay Duy thức như ở Ấn Độ hay Tây Tạng.

Sự thiếu vắng các truyền thống tranh luận nội bộ liên thế hệ là một lý do then chốt khác. Triết học hệ thống chỉ trưởng thành qua những cuộc đối thoại kéo dài giữa các trường phái đối lập, giúp các phạm trù tư duy được mài sắc dần qua các thế hệ. Ở Việt Nam, rất hiếm khi có các trường phái triết học khác biệt nội bộ tồn tại song song để thúc đẩy những tranh luận như thế. Ngay cả trong Phật giáo, dù từng có những dòng thiền song song cùng tồn tại trong lịch sử dân tộc nhưng chúng ta không thấy các tranh luận giữa họ được ghi lại. Hay điều tương tự có thể nói về việc hoàn toàn vắng bóng những cuộc tranh luận Phật- Nho- Lão trong suốt 1000 năm độc lập của dân tộc.

Lịch sử bạo lực kéo dài càng làm cho triết học khó có cơ hội nảy mầm. Từ các cuộc chiến tranh giữ nước chống phương Bắc, đến nội chiến Trịnh - Nguyễn, rồi các cuộc chiến tranh thuộc địa, chiến tranh thế giới, chiến tranh chống Pháp- Mỹ- Trung Quốc-Khmer Đỏ, Việt Nam luôn phải ưu tiên dành nguồn lực cho sự sinh tồn chính trị và quân sự. Trong các bối cảnh ấy, những nỗ lực xây dựng triết học hệ thống trở thành xa xỉ. Tầng lớp trí thức phần lớn phải trở thành nhà lãnh đạo, nhà quản lý, nhà quân sự, nhà khoa học nặng tính ứng dụng, bác sĩ hoặc nhà giáo dục hơn là các triết gia đúng nghĩa. Chỉ có một số ít người có tư chất và thiên hướng thực sự để trở thành triết gia như Trần Đức Thảo thì cũng phải chọn con đường khác khi trở về Việt Nam cống hiến cho cách mạng.
có trạng quỳnh đó m. triết lý là ném cứt vào nhà quan, lừa địa chủ ăn cứt là chất chơi, là chính nghĩa rồi.
triết học của xứ vẹm là lừa lọc như thằng bờm, khôn lỏi như trạng quỳnh đó thôi.
còn bọn quan lại trí thức là kẻ xấu cần bị ném cứt
 
Cư trần lạc đạo thả tuỳ duyên,
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên.
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch,
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.

Dịch nghĩa

Sống ở cõi trần, vui với Đạo và tùy theo duyên
Đói thì ăn, mệt thì ngủ
Trong nhà sẵn của báu, đừng tìm đâu khác
Đối với mọi cảnh vật mà vẫn giữ được cái tâm vô vi, bất động thì không cần phải hỏi về thiền.
 
Có tí bằng cấp sau này còn cơ hội ngồi chỉ tay năm ngón chứ chạy rông miết cũng quải đạn lắm bạn ơi.mấy cha nội ở xóm cứ kêu sao mày chạy công nghệ gì 1 lúc 3-4 hãng mày chạy vậy tiền để đâu cho hết.chú ơi con móm bỏ m:vozvn (22)::vozvn (22):
Có bằng đại học là 2// về hưu trong tầm tay, ông có tham vọng lên cao hơn rồi.
Cách đây mấy năm t đi làm cccd gắn chip, có 2 thằng cảnh sát qlhc ngồi kiểm tra thông tin, có 1 thằng hỏi t về trình độ văn hóa để nó nhập vào dữ liệu, t trả lời là đại học, 2 thằng đó ồ lên, đa phần là dân trung cấp không à.
 

Có thể bạn quan tâm

Top